Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

VẤN đề 1 HÌNH THỨC của DI CHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.61 KB, 20 trang )

1

Bìa


2

Viết tắt


3

Mục lục

VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Di chúc phải đc tự viết tự ký hoặc đc điểm chỉ
* Tóm tắt bản án số 83/2009/DSPT về vấn đề tranh chấp tài sản thừa kế:
Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh Hiếu kiện bị đơn bà Đặng Thị Trọng
Ngày 19/12/2007 Ông Nguyễn Này có lập di chúc cho Ơng Hiếu được tồn
quyền thừa kế sử dụng lơ đất đứng tên Ơng Này, Bà Trọng. Ngày 16/11/2008,
Ông Này qua đời nhưng Bà Trọng khơng cho Ơng Hiếu tiếp tục hành nghề mà
đuổi ra khỏi nhà. Ông Hiếu đã khởi kiện, xin nhận 1/2 lô đất, xin nhận nhà và
thối lại tài sản chênh lệnh cho Bà Trọng.
Xét thấy: di chúc của Ông Này là di chúc viết tay, khơng được chính quyền địa
phương chứng thực nhưng được lập trong lúc Ơng Này cịn minh mẫn, khơng
bị cưỡng ép, lừa dối và có nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp
pháp. Bên cạnh đó di chúc của Ơng Này giao tồn quyền sử dụng đất của hai
vợ chồng cho Ông Hiếu khi không được sự đồng ý của Bà Trọng là khơng hợp
pháp, vậy nên chỉ có giá trị một phần tức là chỉ hợp pháp phần của Ông Này.
Vậy nên tòa giao đất cho Bà Trọng và Bà Trọng trả lại cho Ông Hiếu
78.795.000 đ.


Án sơ thẩm quyết định giao nhà cho Bà Trọng được sở hữu nhà, đất là có căn
cứ và thanh tốn cho Ơng Hiếu 1/2 là có căn cứ
* Tóm tắt: Quyết định giám đốc thẩm số 874/2011/DS-GĐT Ngày 22-112011 Vụ án: “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
Nguyên đơn là ông Đỗ Văn Quang khởi kiện yêu cầu hủy di chúc của cụ Đỗ
Thị Hựu và yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ Hựu. Nguồn gốc nhà đất
tranh chấp là tài sản của cụ Hằng và cụ Hựu được thừa hưởng của tổ tiên cụ
Hằng để lại. Năm 2005, bà Ngâm là bị đơn người đại diện quản lý, sử dụng và
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với nhà đất trên. Ơng Vũ là
trưởng họ đại diện dịng họ Đỗ cũng cho rằng tài sản trên đều là của dòng họ
Đỗ do tổ tiên để lại và chưa chia thừa kế lần nào. Dịng họ đã nhất trí giao khối
tài sản này cho bà Ngân quản lý và sử dụng nên đề nghị bác yêu cầu của ông
Quang. Nhưng trên thực tế dịng họ Đỗ cũng khơng kê khai, đăng ký quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất tranh chấp. Do đó, có căn cứ xác định nhà và đất
tranh chấp nêu trên là di sản của cụ Hằng và cụ Hựu. Di chúc ngày 25-11-1998
của cụ Hựu là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, cụ Qúy ký tên
làm chứng. Sau đó, vào ngày 04-01-1999 được ơng Thưởng (là Trưởng thơn)
và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Tuy nhiên, ông Thưởng không
chứng kiến cụ Hựu lập di chúc và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận
chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung của di chúc. Mặt khác,
qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình
sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm
riêng nên khơng đủ yếu tố giám định. Do đó, chưa đủ căn cứ xác định di chúc


4

nêu trên thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu. Giám đốc thẩm xét thấy, Tòa sơ thẩm
và Tòa phúc thẩm công nhận di chúc ngày 25-11-1998 của cụ Hựu là hợp pháp
là chưa đủ căn cứ. Quyết định giao hồ sơ vụ án cho Tịa án nhân dân huyện
Đơng Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

1.1 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời ?
Trả lời:
Điều kiện để di chúc viết tay có giá trị pháp lý: căn cứ vào khoản 1 Điều 630
và Điều 631, Điều 633 của BLDS năm 2015:
Điều 630. Di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật...
Nội dung của di chúc phải đảm bảo có các nội dung cơ bản sau:
Điều 631. Nội dung của di chúc
1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
Điều 633. Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng
Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng phải tuân theo quy
định tại Điều 631 của Bộ luật này.
1.2. Nếu di chúc của Ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của Ơng Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Xét trong trường hợp của Ơng Này, thì nếu di chúc của Ơng Này là di chúc
phải có người làm chứng thì những người làm chứng cho di chúc của Ông Này
chỉ em gái, em trai, cha Ông Này là người làm chứng khơng hợp pháp, vì theo
điểm a, điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về thừa kế theo pháp

luật như sau:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại
Những người làm chứng cho di chúc của Ông Này là em gái, em trai, cha Ông
Này
Vậy đã vi phạm khoản 1 Điều 632 BLDS 2015


5

Quy định về việc làm chứng cho người lập di chúc:
1. Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.
1.3. Di chúc của Ông Này có là di chúc do Ơng Này tự viết tay khơng? Vì sao?
Trả lời:
Di chúc của Ơng Này là di chúc do Ơng Này tự viết tay. Vì
Trong bản án có đoạn “Để tránh tranh chấp về sau nên ơng Này viết giấy này
để nhà và đất đai cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này của Ơng Này có mất thì
cháu Hiếu có chỗ ở và thờ cúng cho Ơng Này”
Trong phần xét thấy có đoạn : “Xét thấy, giấy thừa kế do Ơng Nguyễn Này viết
khơng được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng đươc xác

lập lúc Ơng Này cịn minh mẫn ,sáng suốt ...”
Ta có thể kết luận rằng di chúc này là do Ông Này tự tay viết.
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến
hình thức di chúc của Ông Này khi đây là di chúc do Ông Này tự viết tay.
Trả lời:
Theo Điều 633 BLDS 2015, điều kiện về hình thức duy nhất đối với di chúc tự
viết tay là người lập phải tự ký vào văn bản di chúc. Ngồi ra khơng có quy
định nào về việc phải cơng chứng, chứng thực hay có người làm chứng.
Xét thấy trường hợp của Ơng Này, ơng đã tự viết tay di chúc, tự ký và được
làm chứng bởi 3 người: em trai, em gái, cha Ông Này. Việc làm chứng của di
chúc Ơng Này làm tăng tính xác thực của bản di chúc, không phải là điều kiện
để được công nhận là hợp pháp. Do thỏa mãn những điều kiện mà luật đã quy
định ở Điều 633, 634 BLDS 2015 nên việc Tịa án cơng nhận di chúc của Ơng
Này là hợp lí.
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Trả lời:
Di chúc ngày 25-11-1998 của cụ Hựu là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ
Hựu điểm chỉ, cụ Quý ký tên làm chứng. Sau đó, vào ngày 04-01-1999 được
ơng Thưởng (là Trưởng thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Tuy
nhiên, ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc và Uỷ ban nhân dân
xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận nội
dung của di chúc. Mặt khác, qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di
chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ
không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó,
chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu. Giám
đốc thẩm xét thấy, Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm công nhận di chúc ngày 2511-1998 của cụ Hựu là hợp pháp là chưa đủ căn cứ. Quyết định giao hồ sơ vụ
án cho Tịa án nhân dân huyện Đơng Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định pháp luật.



6

1.6. Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả
lời?
Trả lời:
- Cụ Hựu không biết chữ.
- Đoạn của Quyết định số 874 cho câu trả lời trên là: “Ông Quang xác định cụ
Hựu là người không biết chữ”.
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Trả lời:
Theo quy định của pháp luật di chúc của người không biết chữ phải thõa mãn
các điều kiện sau:
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 630 BLDS 2015:
“…
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực
….”
Di chúc hợp pháp khi người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Nội dung của di chúc không vi phạm
điều cấm của luật, khơng trái đạo đức; hình thức di chúc không trái quy định
pháp luật.
Và áp dụng khoản 2 Điều 636 BLDS 2015: “Trường hợp người lập di chúc
không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, khơng ký hoặc khơng
điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận
trước mặt cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của
Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc
và người làm chứng.”
Thì khi đó, di chúc sẽ hợp pháp.

1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Trả lời:
- Di chúc được người làm chứng lập thành văn bản.
- Di chúc có cơng chứng và làm chứng (có 02 người là ơng Đỗ Văn Vũ và cụ
Đỗ Thị Quý ký tên làm chứng, có sự xác nhận của ơng Hồng Văn Thưởng –
trưởng thơn và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm.)
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ơng Hựu?
Trả lời:
- Ơng Thưởng khơng chứng kiến cụ Hựu lập di chúc.
- Không phải tự tay cụ Hựu đem di chúc đi xác thực mà Bà Lựu mang di chúc
đến Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
- Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ
không xác nhận nội dung của di chúc.
- Dấu vân tay của cụ Hựu bị mờ, không thể hiện rõ được các đặc điểm riêng
nên khơng đủ yếu tố giám định ý chí của cụ Hựu trước khi mất.


7

1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
khơng? Vì sao?
Trả lời:
- Theo quan điểm cá nhân, di chúc nêu trên không thỏa mãn điều kiện về hình
thức. Căn cứ theo khoản 3 Điều 652 BLDS năm 2005: “Di chúc của người bị
hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng
lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực.”. Mặc dù di chúc của
ông Hựu đã được lập thành văn bản, có người làm chứng nhưng về phần cơng
chứng hoặc chứng thực thì chưa thỏa mãn yêu cầu.
- Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 658 BLDS năm 2005: “Cơng chứng viên hoặc

người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di
chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi
xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của
mình.”. Trong trường hợp này, ông Hựu đọc cho ông Vũ viết (không phải công
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực), cụ Đỗ Thị Quý ký tên làm
chứng, bà Lựu mang di chúc đến Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận và
dấu vân tay của ơng Hựu bị mờ nhịe, khơng thể hiện đúng ý chí của ơng Hựu.
Do đó, điều này không phù hợp với quy định của pháp luật.
- Bên cạnh đó, ơng Hựu khơng thuộc trường hợp ở khoản 2 Điều 658 BLDS
năm 2005. Ta cần phân biệt di chúc được viết hộ với di chúc được lập bởi
người không thể tự lập di chúc do mù chữ hoặc khiếm khuyết. “Khi người để
lại di sản không thể tự mình viết di chúc (do bị khiếm khuyết thể chất hoặc
người “mù chữ”) thì pháp luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn
bản theo thủ tục công chứng, chứng thực, đồng thời việc công chứng, chứng
thực di chúc phải có người làm chứng thì di chúc mới có hiệu lực.”
(giáo trình trường tr.469-470).
Di chúc trọng về hình thức. Trong 5 ngày kể từ khi thành lập di chúc phải đem
ra công chứng và làm chứng. Di chúc chỉ cần tự viết và tự ký đã có hiệu lực
khơng cần phải có người làm chứng. Những người mà cần lập di chúc miệng
thì phải có ng làm chứng và những người này k đc hưởng thừa kế theo pl và di
chúc.
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong Bộ luật dân sự liên quan đến
hình thức di chúc của người không biết chữ.
Trả lời:
- Trong BLDS năm 2005 có những quy định liên quan đến hình thức di chúc
của người khơng biết chữ như khoản 3 Điều 652: “Di chúc của người bị hạn
chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực.”. Và Điều 658 BLDS năm
2005: “Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước cơng chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội
dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và


8

thể hiện đúng ý chí của mình. Cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được
bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng
và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm
quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Cơng chứng viên,
người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.”
- Những quy định nghiêm ngặt về hình thức như thế này xuất phát từ cơ sở
pháp lý và cơ sở kỹ thuật của nó nhằm bảo vệ tối đa ý chí đích thực của người
để lại di sản giả mạo di chúc, đe dọa.


9

VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC
2.1 đến 2.6 hay ra thi
* Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 về V/v: “Tranh
chấp thừa kế”:
1. Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Dũng, ông Nguyễn Hữu Lộc.

Cụ Lê Thanh Quý và cụ Nguyễn Văn Hương chung sống từ năm 1955, lập hôn
thú năm 1962, có 12 con chung. Trong thời gian chung sống, cụ Quý và cụ
Hương có tạo lập được bất động sản. Ngày 06/04/2009, cụ Nguyễn Văn Hương
chết, để lại di chúc có nội dung chia tồn bộ căn nhà cho 5 người con, di chúc
đã được công chứng. Nay cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung hai vợ
chồng nhưng ơng Nguyễn Hữu Dũng trình bày căn nhà là tài sản riêng của cha
ông trước khi cưới mẹ ông. Xét thấy, nhà đất được cấp giấy chứng nhận cho cụ
Nguyễn Văn Hương năm 1994. Về di chúc, do đã được cơng chứng và có giấy
chứng nhận sức khoẻ của Bệnh viện xác nhận cụ Hương minh mẫn nên được
xem là hợp pháp. Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi
nhà đất trên là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý. Tại bản án dân sự sơ
thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cụ Lê Thanh Quý. Ông
Nguyễn Hữu Lộc khiếu nại bản án dân sự sơ thẩm. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm; Giao hồ sơ cho Tòa
án nhân dân TP. HCM xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
* Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018
về vụ án “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản cơng chứng vơ hiệu” của
Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y
2. Bị đơn: phịng cơng chứng M
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn D1
Cụ Nguyễn Văn D và cụ Nguyễn Thị C chung sống với nhau nhưng khơng
đăng ký kết hơn, hai người có thửa đất số 38 là tài sản chung. Vì khơng có con
với cụ C, cụ D chung sống với cụ N và sinh ra ơng D1 và sau đó cụ N cũng
mất. Cụ C và cụ D lập di chúc để lại phần tài sản là bất động sản tại thửa đất số
38
cho ông D1. Tuy nhiên, ông Y cho rằng thửa đất này ông đã mua từ cụ C từ
năm 1978. Việc Phịng cơng chứng M cơng chứng di chúc của cụ D, văn bản
công bố di chúc của hai cụ đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
gia đình ơng Y nên ơng khởi kiện u cầu Tịa án tun bố các văn bản cơng

chứng trên vô hiệu. Tuy nhiên, các tài liệu do ông Y xuất trình chỉ có cụ C
chuyển nhượng cho ơng Y mà chưa có ý kiến của cụ D. Ngồi ra, trước khi cụ
C và cụ D mất thì thửa đất số 38 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-Ủy
ban nhân dân ngày 21/7/2010.
Vì các lẽ trên, Tịa án quyết định giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật, cụ
thể là cần phải xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng đất, bản di
chúc do cụ D và cụ C lập cũng như Văn bản công bố di chúc mới giải quyết
triệt để vụ án.


10

2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?
Trả lời:
- Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu
(nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) là tài sản chung
của cụ Hương và cụ Quý.
- Đoạn của Quyết định 359 cho rằng: “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc
toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn
Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí)”.
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trả lời:
- Đoạn của Quyết định 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương là: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc
chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương
và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con
trong khi khơng có sự đồng ý của cụ Q là khơng đúng”.

2.3. Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời?
- Tồ án đã cơng nhận phần tài sản được chia đều cho 5 người con nhưng chỉ
chia phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3
suất thừa kế theo pháp luật.
- Đoạn của Quyết định số 359 cho câu trả lời là:
Vì vậy, Tồ án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có
hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được
chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiểu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ơng
Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật;
còn 1/2 và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5
người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ.
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Trả lời:
Theo quan điểm cá nhân, hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm là hợp lý.
Cụ Hương ban đầu để lại di chúc chia toàn bộ căn nhà cho 5 người con là sai.
Căn nhà được cấp giấy chứng nhận vào năm 1995, khi cụ Hương và cụ Quý đã
là vợ chồng nên được xem là tài sản chung của vợ chồng. Theo khoản 2, khoản
3 Điều 213:
“Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3.Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung”.
Cụ Hương đã để lại di chúc chia toàn bộ căn nhà cho 5 người con mà chưa thoả


11


thuận, chưa có sự đồng ý của cụ Quý là sai. Do cụ Hương đã chết nên tài sản
trước hết phải chia đôi cho cả vợ chồng, sau khi đã chia cho cụ Hương phần tài
sản của mình rồi sau đó mới có thể chia theo di chúc của cụ.
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
- Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, theo di chúc của cụ Hương, tài sản của cụ
sẽ được chia đều chi cho 5 người. Khi cụ Quý chết, tài sản sẽ được chia đều
cho cả hai người. Sau đó, tài sản của cụ Quý sẽ tiếp tục chia:
+ Nếu cụ Quý có để lại di chúc và khơng chia thừa kế cho cụ Hương thì cụ
Hương vẫn sẽ nhận được 2/3 suất thừa kế theo quy định tại Điều 644 BLDS
năm 2015:
“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di
sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người khơng có quyền hưởng
di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”.
+ Nếu cụ Quý chết có để lại di chúc và có để lại thừa kế cho cụ Hương thì cụ
Hương sẽ nhận được phần tài sản sau chia đôi cộng thêm phần di sản do cụ
Quý để lại cho cụ Hương theo Điều 609 BLDS năm 2015:
“Điều 609. Quyền thừa kế
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của
mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Người thừa kế không là cả nhân có quyền hưởng di sản theo di

chúc".
+ Nếu cụ Q chết khơng để lại di chúc thì sau khi nhận được phần tài sản chia
đôi, cụ Hương đã nhận được 1/11 phần di sản khi chia thừa kế theo pháp luật
theo Điều 650, Điều 651 BLDS năm 2015:
“Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Khơng có di chúc;
b) Di chúc khơng hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng
cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;


12

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ
khơng có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di
sản theo di chúc, nhưng khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là

ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai
ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý khơng? Vì
sao?
Trả lời:
- Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý. Theo Điều 624
BLDS năm 2015 đã định nghĩa về di chúc như sau:
“Điều 624. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết”.
Di chúc được lập ra để cá nhân chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết. Vốn dĩ, cụ Hương đã có sẵn nửa phần tài sản trong phần tài sản chung với
cụ Quý, sau khi cụ chết thì phần tài sản đó sẽ được đem chia. Di chúc ban đầu
của cụ Hương là sai vì cụ để lại toàn bộ căn nhà, nghĩa là cụ định đoạt cả phần
tài sản của cụ Quý trong khi đây là tài sản chung cả hai vợ chồng. Theo em,
nếu như phần tài sản trong di chúc hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ sẽ hoàn toàn đúng về mặt pháp
lý.
2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D
đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Trả lời:

- Căn cứ vào quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Toà án nhân
dân cấp cao Hà Nội, phần nhận định của Toà án có chỉ ra:
“Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D chết.”
Mà :
“ …di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, tờ bản


13

đồ số 13 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208/QĐ-Ủy ban nhân dân ngày
21/7/2010 của
Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất
Đai nên 2 cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”
=> Cụ C và cụ D đã bị thu hồi quyền sử dụng đất trước khi chết.
2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Trả lời:
- Đoạn trong Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất:
[5]“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38....”
- Theo quan điểm cá nhân thì tơi thấy hướng xác định vừa nêu của Tịa giám
đốc thẩm là hồn tồn hợp lí thì
+ Thửa đất tại xứ M là tài sản chung của cụ C và cụ D nhưng chỉ có cụ C
chuyển nhượng cho ơng Y mà chưa có ý kiến của cụ D, cụ C tự ý định đoạt tài
sản chung của hai cụ thì cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển
nhượng giữa cụ C và ông Y, vì vậy quyền sử dụng đất vẫn thuộc về cụ D và cụ
C.

+ Xét theo khoản 2 Điều 42 Luật đất đai: “Người bị thu hồi loại đất nào thì
được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu khơng
có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời
điểm có quyết định thu hồi” thì mặc dù thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị
thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-Ủy ban nhân dân ngày 21-7-2010 của Ủy
ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất vẫn được bồi
thường, vì vậy nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên.
+ Tiếp theo, di sản của cụ D và cụ C để lại cho ông D1 là quyền được hưởng
bồi thường bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất thì
ơng D1 đứng tên và được nhận tiền chứ không phải quyền sử dụng đất vì
21/7/2010 thửa đất số 38 đã bị thu hồi trong khi cụ D và cụ C vẫn còn sống
2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà
nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Trả lời:
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ
D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi:
“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-Ủy ban nhân dân
ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của
Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông
D1”.
- Tòa giám đốc thẩm giải quyết theo hướng vừa nêu là hợp lý vì:


14

+ Theo khoản 3 Điều 643 BLDS năm 2015 thì: “Di chúc khơng có hiệu lực,
nếu di sản để lại cho người thừa kế khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế; nếu

di sản để lại cho người thừa kế chỉ cịn một phần thì phần di chúc về phần di
sản cịn lại vẫn có hiệu lực”.
+ Theo khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 thì: “ Di chúc hợp pháp phải có đủ
các Điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm Điều cấm của luật, khơng trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật”.
=> Vì thế, di sản cụ D và cụ C để lại là quyền sử dụng đất vẫn còn vào thời
điểm mở thừa kế, di chúc của cụ D, cụ C là hợp pháp nên di chúc vẫn có hiệu
lực.


15

VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
* Tóm tắt bán án số 14/2017/DSST:
Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H
Bị đơn: anh Hồng Tuyết H
Ơng Hồng Minh X và bà Hồng Thị H là vợ chồng. Ngày 10/08/2015 bà và
ơng X cùng nhau lập di chúc vợ chồng do ông X viết với nội dung nếu ơng X
chết trước thì sẽ giao tài sản cho bà quản lý, khi bà chết sẽ giao cho anh Hoàng
Hồng H1 nhưng khi viết xong ông X đi viện nên bản di chúc không được
chứng thực. Ngày 12/01/2016, ơng X chết, sau đó bà công bố bản di chúc
nhưng anh H, anh H2, anh H3 không công nhận di chúc này là hợp pháp.
Nguyên đơn u cầu Tịa án cơng nhận di chúc ơng X để lại là hợp pháp. Bị
đơn xin được hưởng kỷ phần của ông X bằng quyền sử dụng đất. Trong quá
trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ơng X có tinh thần tỉnh táo,
khơng phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước khi chết. Quyết định của Tòa
án: áp dụng Điều 627, Điều 630 BLDS 2015; khoản 1, khoản 5 Điều 147 Bộ

luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quyết định: cơng nhận di chúc chung của ơng
Hồng Minh X và bà Hồng Thị H là hợp pháp, khơng chấp nhận yêu cầu của
anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 địi chia di sản của ơng Hồng
Minh X.
Di chúc sẽ có hiệu lực sau khi người cuối cùng chết
3.1. Đoạn nào của bản án số 14/2017/DSST cho thấy di chúc có tranh chấp là
di chúc chung của vợ chồng.
Trả lời:
“Ngày 10/08/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với
nội dung: Nay hai chúng tơi nhất trí giao lại căn nhà 4 gian…”. Đoạn này trong
bản án đã cho biết di chúc có tranh chấp trên là di chúc chung của vợ chồng
ông X do hai vợ chồng thỏa thuận thành lập và cùng ký.
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 khơng? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Trả lời:
- Theo Tịa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 mặc dù BLDS 2015 khơng có điều luật nào tương tự Điều 663,
664, 668 BLDS 2005 quy định vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt
tài sản chung. Toà án xét đến nội dung của bản di chúc và các điều kiện khác
được quy định trong BLDS 2015.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Nội dung của bản di chúc không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630
BLDS 2015” và “công nhận di chúc chung của ơng Hồng Minh X và bà
Hồng Thị H viết ngày 10/08/2015 là hợp pháp”.
3.3. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Trả lời:
Theo quan điểm cá nhân, hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015 là hợp lý dù BLDS 2015



16

không quy định rõ ràng về trường hợp di chúc chung của vợ chồng như BLDS
2005. Xét các điều kiện để di chúc được công nhận là hợp pháp theo BLDS
2015 thì:
- Nội dung của bản di chúc khơng vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
- Trong thời điểm lập di chúc, ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn,
sáng suốt. Điều này được thể hiện rõ trong bản án qua sự thừa nhận của các bên
đương sự và phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
- Hình thức của di chúc phù hợp với quy đinh của pháp luật về di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ thể di chúc
này do ông X tự viết và được vợ chồng ơng cùng kí tên vào. Theo kết luận
giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây xác định là chữ kí tay của
ơng X, việc khơng xác nhận chữ kí của bà H vì bà cịn sống tại thời điểm xảy ra
tranh chấp.
- Di chúc chung này nhằm định đoạt tài sản của ông X, bà H. Điều này là phù
hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên Tồ án chỉ công nhận di chúc
trên là hợp pháp chứ không đề cập đến hiệu lực của di chúc. Điều này là hợp lý
do đây là di chúc chung của vợ chồng ông X, bà H nhưng chỉ có ông X qua đời
nên chưa đến thời điểm mở thừa kế theo Điều 611 BLDS 2015.
Vậy tuy BLDS 2015 không đề cập đến quy định chung về di chúc của vợ
chồng nhưng do thỏa đáng các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được
quy định nên Tịa án cơng nhận di chúc chung của ông X bà H là hợp lý.


17


VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
Tóm tắt bản án số 211/2009/DSST, ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân
huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai về V/v “Tranh chấp di sản thừa kế”
Ngày 8/7/2004 bà Nguyễn Thị Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho 7 người con,
năm 2005 anh Phan Văn Được (nguyên đơn) cùng chị em hợp lại chia nhà đất
nhưng anh Phan Văn Tân (bị đơn) và chị Phan Thị Hương (bị đơn) không đồng
ý. Tài sản bao gồm 1 căn nhà cấp 4 nền gạch bơng, vách xây, lợp tole diện tích
khoảng 100m2. Khi anh Được yêu cầu chia di sản thừa kế các anh chị đều đồng
ý, các anh chị để lại cho anh Được quyền quản lý sử dụng, anh Thảo, anh
Xuân, anh Nhành, chị Hoa không nhận di sản mà giao lại cho anh Được.
Tại bản án sơ thẩm: tuyên sử giao cho anh Được quyền sỡ hữu, sử dụng căn
nhà, anh Được phải thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương
mỗi người là 37.424.000 đồng.
4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
- Điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý là:
+ Thứ nhất, di sản của người chết đã đủ thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người
đó và còn thừa lại
+ Thứ hai, người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng (chỉ
một phần di sản, khơng được dùng tồn bộ di sản).
+ Thứ ba, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản không
chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người
quản lý di sản.
+ Di sản dùng vào việc thờ cùng không được chia thừa kế
- Căn cứ pháp lý là Điều 645 BLDS 2015
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?

Trả lời:
Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng là:
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di
sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh
Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu khơng?
Trả lời:
Theo đoạn 2 khoản 1 Điều 645 BLDS 2015: “Trường hợp người để lại di sản
không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người
quản lý di sản thờ cúng.”
Như vậy điều kiện để di sản thờ cúng dùng vào việc thờ cúng 1 cách hợp pháp
được thõa mãn vì trong vụ việc đang nghiên cứu thì bà Lùng mẹ của các
nguyên đơn và bị đơn đã để lại di chúc cho các con về di sản dùng vào việc thờ


18

cúng nhưng không chỉ định người quản lý di sản và hiện tại 5/7 anh em của anh
Được đã đồng ý giao cho anh Được quản lí di sản nên các điều kiện đã được
thỏa mãn.
4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được và chị Hương
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà Lùng, anh chị được hưởng di sản bằng
nhau, mỗi người được hưởng giá trị bằng tiền là 37.423.857 đồng (261.967.000
đồng : 7 người) giao cho anh Được sở hữu di sản nhà đất, anh Được phải có

trách nhiệm thanh tốn bằng tiền cho anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, anh
Nhành, chị Hoa và chị Hương mỗi người 37.423.857 đồng (tính trịn là
37.424.000 đồng), nhưng anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa không nhận
di sản mà cho lại anh Được. Vì vậy anh Được được sở hữu phần của anh Thảo,
anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa và phần của anh Được tổng số là 187.120.000
đồng, anh Được phải thanh toán cho anh Tân, chị Hương mỗi người là
37.424.000 đồng.
4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Tòa án chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng trong
đoạn:
Bà Lùng là mẹ anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được
và chị Hương, bà Lùng chết ngày 08 tháng 12 năm 2005, di sản bà Lùng gồm
có căn nhà diện tích 57,25 m 2 kết cấu móng cột xây gạch, tường xây gạch, mái
tole xi măng, xà gồ gỗ, nền lát gạch Ceranic, cửa sắc trên diện tích 86 m 2 thửa
số 27 - tờ bản đồ số 25 Thị trấn Long Thành, kết quả thẩm định giá ngày 05
tháng 8 năm 2009 của công ty cổ phần thẩm định giá tỉnh Đồng Nai với số tiền
261.967.000 đồng. Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà
đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được là người
đang quản lý di sản, hiện tại có 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di
sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
Trả lời:
Thứ nhất, người lập di chúc có dành một phần làm di sản thờ cúng thì phần di
sản đó giao cho người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa
kế thỏa thuận giao cho một người quản lí. Như vậy, cần phải hiểu thế nào là
một phần di sản và nếu người lập di chúc định đoạt vượt quá một phần thì di
chúc có giá trị hay khơng.

Theo quy định, tồn bộ tài sản của người chết là một khối di sản, một phần của
một khối di sản đó sẽ là: nếu chia di sản ra làm hai hay nhiều phần thì người
lập di chúc không được dành lại quá một phần của khối di sản đó. Do vậy, nếu
người lập di chúc định đoạt vượt quá 1/2 di sản, khi mở thừa kế sẽ để lại 1/2 di
sản để thờ cúng, phần còn lại chia theo di chúc hoặc chia theo pháp luật. Vấn
đề này cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh việc áp dụng tùy tiện.


19

Thứ hai, tại đoạn 3 khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự quy định:
“…Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đã chết thì phần
di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.
Quy định này có thể hiểu là người để lại thừa kế phải lập di chúc cho tất cả
người thừa kế hàng thứ nhất, sau khi những người này chết, di sản dùng vào
việc thờ cúng thuộc về người thừa kế đang quản lí di sản. Quy định này chưa
phù hợp với thực tế và mâu thuẫn với Điều 645 Bộ luật dân sự như trường hợp
những người thừa kế theo di chúc đều chết nhưng thời hiệu thừa kế chưa hết thì
tại sao di sản lại thuộc về người đang quản lí di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì
những lí do đó, cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định khác
về thừa kế và phong tục tập quán của nhân dân ta.
Hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên là đúng vì theo di nguyện của
người đã mất thì di sản đó dùng cho việc thờ cúng nếu chia ra thì di sản đó sẽ
khơng còn trọn vọn cho việc thờ cúng nên Tòa đã quy ra thành tiền là hoàn
toàn hợp lý.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại

học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương II;
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương VI;
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 44-47,
52-55, 56-59, 60-61, 66-69, 84-87, 88-91;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.253 đến 258;



×