Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

hệ thống triết lí trong truyện ngắn của nam cao trước cách mạng tháng tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.68 KB, 56 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM NGỮ VĂN






HỒ CẨM KIM
LỚP DH5C2

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH NGỮ VĂN

HỆ THỐNG TRIẾT LÍ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM



Giáo viên hướng dẫn
Thạc sĩ NGUYỄN VĂN KHƯƠNG





Long Xuyên, 05/2008



















XW
Trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến mẹ em,
người đã sinh thành, dạy dỗ, tạo mọi điều kiện về vật chất lẫn tinh
thần trong suốt quá trình học tập của em.
Em cũng xin cảm ơn tập thể quí thầy cô trong bộ môn Ngữ
văn đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận.
Đặc biệt, em xin tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguy
ễn
Văn Khương. Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn đã
hết lòng giúp đỡ, động viên em hoàn thành khoá luận này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


Hồ Cẩm Kim
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
A. MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học luôn phản ánh đời sống. Nhờ văn học mà bộ mặt nước ta qua từng thời
kì đã hiện ra một cách chân thực và đầy đủ nhất. Những nhà văn hiện thực phê phán giai
đoạn 1930 -1945 đã có công rất lớn trong việc tái hiện một xã hội mà trong đó đầy rẫy
những bất công tàn bạo vô nhân tính. Bên cạnh Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan… thì Nam Cao n
ổi lên như một vì tinh tú sáng chói trên nền trời văn học
việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến. “Sáng tác của Nam Cao đã vượt qua được
những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách càng ngời sáng” (Trần Đăng
Suyền, 2004:17). Có thể nói Nam Cao là một nhà văn lớn đã kết thúc vẻ vang trào lưu
văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 -1945. Ở Nam Cao, chúng ta bắt gặp một
hiện tượng ph
ổ biến trong tác phẩm của ông, đó là đề tài hẹp mà tư tưởng và chủ đề rộng
lớn. Vì thế, tác phẩm của Nam Cao chứa đựng những giá trị hiện thực sâu sắc, đã được
khẳng định qua mọi thời đại. Chính vì những điều đó, Nam Cao cùng nhiều tác phẩm
của ông đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình phổ thông và chiếm một thời lượng
không ít. Như vậy, tài năng của ông đã được khẳng định đúng với giá trị của nó.
Qua các tác phẩm của mình, Nam Cao đã chứng tỏ là một nhà văn từng trải và
có kinh nghiệm sống rất phong phú. Là một nhà văn có tầm nhân loại, “Nam Cao đi tìm
những chân lí, triết lí về cuộc đời tìm ngay trong cuộc sống lấm láp bộn bề với thực tế
diễn ra hàng ngày và diễn đạt nó bằng hình thức nghệ
thuật ngôn từ: truyện” (Phạm
Văn Phúc, 2000:381). Tác phẩm Nam Cao có rất nhiều khía cạnh có giá trị sâu sắc mang
tính thời sự được khá nhiều người quan tâm. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu lâu
dài, chúng tôi nhận thấy triết lí sống trong truyện ngắn Nam Cao là một vấn đề hết sức
thú vị. Những suy nghĩ, những nhận định có tính chất bao quát của Nam Cao về cuộc

đời đã được nhà văn thể hiện trong tác phẩm bằng mộ
t giọng điệu tâm lí riêng hết sức
thâm thúy, chứng tỏ ông là một người có cái nhìn rất sâu sắc. Nhận ra điều đó, chúng tôi
đã chọn đề tài “Hệ thống triết lí trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng
Tám” để nghiên cứu, đi sâu, phân tích, lí giải, một cách hệ thống và toàn diện về vấn đề
này. Việc nghiên cứu sẽ giúp người viết có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc cảm nhận
cũng nh
ư phân tích các tác phẩm của Nam Cao nói chung và truyện ngắn nói riêng. Như
vậy nghiên cứu vấn đề này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho công tác giảng dạy cũng như học
tập sau này. Đồng thời đề tài sẽ góp phần khẳng định thêm những đóng góp của Nam
Cao trong suốt tiến trình phát triển của văn học hiện đại Việt Nam.

Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 1
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung trong tác phẩm của Nam Cao rất đa dạng, phong phú, phản ánh nhiều
lĩnh vực trong cuộc sống. Ở đây, chúng tôi đi sâu nghiên cứu triết lí nhân sinh của Nam
Cao về Đời về Kiếp của con người, về miếng ăn và lòng khinh trọng ở đời, về cái lương
thiện và cái ác, cái xấu, về sự sung sướng và nỗi khổ đau, về
tình yêu và hạnh phúc,…
Đây hẳn là một vấn đề lí thú vì nó tập trung thể hiện những quan niệm, tư tưởng
của nhà văn về cuộc sống.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu hệ thống triết lí trong phạm vi
truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám. Bên cạnh đó, người viết còn tìm
hiểu thêm những tác phẩm sau cách mạng. Đó là cơ sở giúp người viết hiểu sâu s
ắc vấn
đề nghiên cứu.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu đề tài này để thấy được cái nhìn của tác giả về cuộc đời, nhận ra cái
hay, cái sâu sắc của Nam Cao khi thể hiện những triết lí trong tác phẩm. Đồng thời,
người viết có thể nhận rõ một nét tiêu biểu trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Từ
đó đánh giá đúng vai trò của Nam Cao là đã góp phần làm nên sự đa dạng cho nền văn
học nước nhà, giúp b
ổ sung cái nhìn toàn diện về những đặc sắc trong các sáng tác của
Nam Cao.
Bên cạnh đó nghiên cứu để củng cố kỹ năng phân tích, giúp người viết có thêm
kiến thức về nhà văn Nam Cao và các tác phẩm của ông. Ngoài ra nghiên cứu đề tài này
cũng giúp phục vụ cho công tác giảng dạy sau này tốt hơn. Đó cũng là tài liệu cho các
bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề này.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Tìm hiểu nội dung chi tiết hệ thống tri
ết lí thể hiện trong truyện ngắn của Nam
Cao trước cách mạng tháng tám: triết lí về sự sống cái chết, về Đời về Kiếp con người,
triết lí về sự sung sướng và nỗi khổ đau, triết lí về cái lương thiện và cái ác, cái xấu, triết
lí về miếng ăn và lòng khinh trọng ở đời, triết lí về tình yêu và hạnh phúc. Qua đó người
viết có thể thấy được những tư tưở
ng, quan niệm của Nam Cao có nhiều điểm tiến bộ và
khác biệt so với các nhà văn trước đó và cùng thời.
2. Tìm hiểu nghệ thuật của Nam Cao khi thể hiện những triết lí sống trong các tác
phẩm.

Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 2
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Triết lí sống là một mảng nội dung quan trọng trong truyện ngắn của Nam Cao.
Nghiên cứu đề tài này sẽ giúp hiểu sâu sắc hơn các tác phẩm của ông. Ngoài ra, đề tài sẽ
giúp ích rất nhiều cho công tác giảng dạy sau này, giúp học sinh hiểu được một khía
cạnh trong truyện ngắn Nam Cao, tăng cường hiệu quả cảm thụ và phân tích tác phẩm.

Bên cạnh đó, đề tài còn góp phần bổ sung cái nhìn toàn diện về nhữ
ng đóng góp
của Nam Cao đối với nền văn học dân tộc. Đề tài thành công, có thể là tài liệu hết sức bổ
ích cho các bạn sinh viên, học sinh khi cần đi sâu tìm hiểu Nam Cao và các tác phẩm của
ông.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp đọc tài liệu
Phương pháp này được tiến hành bằng cách đọc và chọn lọc những chi tiết,
những từ ngữ, nhận định, ý kiến… có liên quan đến vấn đề nghiên cứu từ các nguồ
n tài
liệu như: sách, báo, tạp chí…
2. Phương pháp thống kê
Sau quá trình đọc tài liệu người viết tiến hành tổng hợp, thống kê tài liệu đã sưu
tầm được, minh chứng cho những vấn đề đã đưa ra.
3. Phương pháp phân tích
Đây là phương pháp cơ bản khi tiến hành nghiên cứu đề tài. Từ những tài liệu
đã tập hợp và thống kê đầy đủ, người viết tiến hành phân tích hệ thống triết lí và nghệ

thuật thể hiện triết lí trong tác phẩm của Nam Cao. Từ đó thấy được những chiêm
nghiệm của Nam Cao về cuộc đời, đồng thời làm rõ giá trị nội dung và nghệ thuật trong
các sáng tác của ông.
4. Phương pháp so sánh
Trong quá trình vận dụng phương pháp phân tích, người viết tiến hành liên hệ
những triết lí của Nam Cao với những tác gia khác. Như vậy sẽ giúp cho đề tài thêm sức
thuyết phục và khẳng định được tài nă
ng cùng những đóng góp của Nam Cao trong tiến
trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.

VII. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc, điều này không một ai có thể phủ

nhận. Ngay từ khi tên tuổi của Nam Cao được khẳng định qua tác phẩm Chí Phèo, cho
đến nay đã có hơn hai trăm bài báo và công trình nghiên cứu viết về Nam Cao cùng các
sáng tác của ông. Trong đó có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến h
ệ thống triết lí
trong truyện ngắn của Nam Cao. Chúng tôi đã tập hợp được một số ý kiến cơ bản xoay
quanh vấn đề này.
Nhiều nhà phê bình nghiên cứu đã thâm nhập sâu vào thế giới nghệ thuật của
Nam Cao và nhận định: những triết lí sống trong truyện ngắn của Nam Cao là một
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 3
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
phong cách riêng của ông. Có nhiều ý kiến đã gặp nhau khi nói về vấn đề này, có thể kể
đến như sau:
Hà Minh Đức (1998: 234) đã chỉ ra rằng: “Chất suy nghĩ và triết lí trong sáng
tác của Nam Cao là một mặt mạnh của ngòi bút góp phần tạo nên điểm riêng của tác
phẩm”.
Bùi Công Thuấn (1997: 65-68) thì nhận xét: “Khuynh hướng triết lí là một
trong những yếu tố làm nên phong cách Nam Cao”. Ông kết luận: “Nam Cao là một cây
bút tâm lí, triết lí, đó là đặc trưng phong cách Nam Cao”.
Trần Đă
ng Suyền (2004: 240) người có nhiều công trình nghiên cứu về Nam
Cao và các tác phẩm của ông đã kết luận:
Đọc Nam Cao, ta bắt gặp tiếng nói của một con người mà vầng trán
không bao giờ thanh thản còn tâm hồn thì nặng trĩu ưu tư. Đặc điểm ấy của con
người Nam Cao đã góp phần tạo nên giọng điệu triết lí suy ngẫm sâu xa, một
giọng điệu làm nên phong cách độc đáo trong sáng tác của ông.
Trong các tác phẩm củ
a Nam Cao, những câu triết lí về những vấn đề bình
thường trong cuộc sống được viết ra không quá phức tạp mà nó hết sức giản dị, rõ ràng,
dễ hiểu. Triết lí của Nam Cao gắn liền với cuộc sống thường ngày. Từ đó Nam Cao
muốn đưa ra những quan điểm sống, những bài học nhân thế mà ông muốn gởi gắm đến

cho mọi người. Nhiều nhà nghiên cứu văn học
đã nhận xét điều đó như sau:
Hà Minh Đức (1998: 264) nhận thấy ở những phương diện nào trong tác phẩm
của Nam Cao cũng nổi lên tính triết lí: “Tác giả triết lí, nhân vật triết lí, câu chuyện tự
nó cũng toát lên tính chất triết lí. Nam Cao không thuyết lí dài dòng, không biện luận
một cách trừu tượng mà triết lí về cuộc sống và để cho cuộc sống gợi lên ý nghĩa triết lí
của nó”.
Trần Đăng Suyền (1998: 67) đ
ã nhìn nhận “ Trước cách mạng tháng tám, không
có một nhà văn nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm tâm lí, tổng hợp khái quát cao về tình
trạng chết mòn của con người như nhà văn lớn Nam Cao”.
Bùi Thị Anh Thơ (2005: 17-18) trong bài viết của mình có đề cập đến triết lí
sống trong truyện ngắn Nam Cao “Nét riêng nhân vật Nam Cao là giàu suy lí, luôn triết
lí trong mọi cách suy nghĩ, hành động của mình” và đưa ra kết luận “Văn Nam Cao
mang đầy sự chiêm nghiệm, triết lí”.
Phong Lê (1997: 109) nhận xét về Nam Cao như sau: “Khi kiên nhẫn hoặ
c nhẩn
nha dõi theo lịch sử một đời, hoặc thâu tóm một đời vào một khoảng hẹp thời gian, hoặc
một tình huống truyện, tác giả như muốn nhằm vào một triết lí sống, một bài học nhân
thế”.
Lê Thị Đức Hạnh(1993: 112-119) thì cho rằng trong truyện ngắn Nam Cao,
chất triết lí là “một đặc điểm phổ biến nổi đậm” và nói thêm “trong khi phản ánh hiện
thực, Nam Cao thường hay đi vào nh
ững chủ đề mang tính suy ngẫm, thiên về truy tìm,
đúc kết ra một triết lí cho cuộc sống”.
Phan Diễm Phương (1992: 135) thì kết luận:
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 4
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Khi đã khảm vào tâm trí người đọc thật nhiều những chi tiết có vẻ vụn
vặt về các số phận, cảnh đời rồi, ông nhẹ nhàng đưa ra những câu khái quát,

triết lí […] Những khái quát triết lí đó đã được chắt ra từ cuộc sống, là kết
quả của cả một quá trình chiêm nghiệm đời sống đó.
Giá trị của các yếu tố triết lí trong truyện ngắn của Nam Cao cũng
đã đựơc
nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học nhận xét và đánh giá cao.
Hà Minh Đức (1999: 415) nhấn mạnh:
Nam Cao không rơi vào lối viết luận đề. Chủ đề và ý nghĩa triết học của
sáng tác nổi lên nhưng không ở dạng sắp đặt trước. Sức thuyết phục chủ yếu
của câu chuyện là ở sự sống và phần máu thịt của câu chuyện. Ý nghĩa triết lí
như sợi chỉ
nhỏ chạy xuyên từ ngọn nến nơi đặt điểm sáng của ngọn lửa sáng
tạo tỏa ra tác phẩm.
Nguyễn Đăng Mạnh (2001: 90) thì nhận xét:
Đọc Nam Cao, thấy ông hay triết lí, thích khái quát. Dĩ nhiên sức hấp dẫn
không thể có được nếu ông chỉ lặp lại những nguyên lí chung chung, quen
nhàm. Nói cho đúng, những lí lẽ ông nói ra không phải bao giờ cũng hay ho,
chính xác cả, nhưng quả là những tìm tòi, những phát hiện của riêng ông về
cu
ộc sống, nghĩa là nó mang đẫm mồ hôi của tâm não ông. Cho nên triết lí
mà không khô khan, triết luận mà như mở ra những chân trời thơ bát ngát.
Từ những ý kiến, nhận định trên, ta thấy yếu tố triết lí trong truyện ngắn Nam
Cao là một vấn đề được nhiều người quan tâm và đã có sự nghiên cứu bước đầu. Tuy
nhiên những nghiên cứu đó còn riêng lẻ, chưa lập thành một hệ thống đầy đủ, sâu sắc và
toàn di
ện. Vấn đề đặt ra là cần có sự hoàn chỉnh hơn về hệ thống triết lí trong truyện
ngắn Nam Cao trước cách mạng tháng tám. Trên cơ sở hệ thống hóa, tiếp nhận ý kiến
của các nhà nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu đầy đủ
mọi nội dung, khía cạnh của triết lí trong các sáng tác của Nam Cao. Qua đó làm rõ nét
hơn một đặc trưng phong cách của nhà văn lớn Nam Cao, góp phần đánh giá đ
úng vai

trò và những đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 5
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…

VIII. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài nghiên cứu bao gồm các nội dung chính sau:
Chương I: Cội nguồn triết lí và triết lí trong văn học
I. Cội nguồn của triết lí
II. Văn học, một phương tiện triết lí
Chương II: Tính triết lí trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám
I. Hệ thống triết lí trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám
1. Tri
ết lí về sự sống –cái chết
2. Triết lí về Đời, về Kiếp của con người
3. Triết lí về sự sung sướng và nỗi khổ đau
4. Triết lí về cái lương thiện và cái ác, cái xấu
5 Triết lí về miếng ăn và lòng khinh trọng ở đời
6. Triết lí về tình yêu và hạnh phúc
7.Triết lí về nghệ thuật
II. Nghệ thuật thể hiện triết lí trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách m
ạng tháng
tám
1.Triết lí của nhân vật
2.Triết lí của người dẫn chuyện
3.Triết lí của cả tác phẩm
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 6
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I

CỘI NGUỒN TRIẾT LÍ VÀ TRIẾT LÍ
TRONG VĂN HỌC

I. CỘI NGUỒN TRIẾT LÍ
Theo Đại từ điển Tiếng việt, “triết lí” là “quan niệm chung và sâu sắc nhất của
con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội”. Cùng với sự ra đời của triết lí là sự
xuất hiện các khái niệm về triết gia, triết học. Triết học là môn học nghiên cứu những
qui luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy.Triết gia là ngườ
i nghiên
cứu sâu về triết học.
Như vậy triết lí là một vấn đề được sự quan tâm và nghiên cứu rất nhiều.
1. Triết lí của dân gian
Việt Nam là một đất nước bốn nghìn năm văn hiến, có một bề dày lịch sử
chống giặc ngoại xâm khiến nhiều quốc gia láng giềng phải khâm phục. Trên thế giới,
Việt Nam được cho là một đất nước giàu đẹp. Tuy nhiên,
đất nước ta cũng đã phải chịu
những hậu quả nặng nề do thiên tai, dịch họa kéo dài. Chính những điều đó đã gây biết
bao khó khăn trong quá trình tồn tại và sinh sống của con người Việt Nam. Nhưng với
trí thông minh và đầu óc nhanh nhạy sẵn có, người Việt Nam đã sáng tạo ra những cách
ứng phó với các hiện tượng thiên nhiên như mưa bão, lũ lụt, hạn hán… và chống giặc
ngoại xâm. Con ngườ
i Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước mọi gian khổ,
nguy hiểm và khó khăn. Không những vậy, với trí tuệ siêu việt, người Việt Nam đã khái
quát những kinh nghiệm từ các hiện tượng riêng lẻ, tạo nên một kho triết lí tồn tại trong
dân gian. Người xưa đã không nhìn sự vật hiện tượng một cách đơn giản bình thường
như nó vốn có mà luôn nhìn nhận nó ở một khía cạnh khác một cách rất thâm thúy và
sâu xa. Cha ông ta đã rất thông thái khi đúc kết nên những triết lí sống có giá trị. Không
chỉ có giá trị về mặt nội dung mà hình thức thể hiện cũng hết sức độc đáo (có vần, có
nhịp nên rất dễ nhớ). Đây là một kho tàng quí báu mà cha ông ta đã tốn biết bao công
sức để tạo nên và truyền lại cho con cháu đời sau. Những triết lí của người xưa luôn dạy

cho con người những điều hay lẽ ph
ải, những kinh nghiệm bổ ích trong cuộc sống.
1.1.
Triết lí về khối đại đoàn kết
Trải qua hàng ngàn năm, người xưa đã nhận thấy để chiến thắng giặc ngoại
xâm và chinh phục được thiên nhiên, điều cần thiết là con người cần phải gắn bó, đoàn
kết chặt chẽ với nhau thành một khối thống nhất, đó chính là sức mạnh giúp chiến thắng
tất cả. Trong văn học dân gian, câu chuyện bó đũa đã được lưu truyền cho đến tận ngày
nay về sức mạnh của tình đoàn kết. Mỗi con người chúng ta nếu là một chiếc đũa lẻ loi,
đơn độc thì sẽ rất dễ dàng bị các thế lực khác bẻ gãy, đánh gục. Nhưng nếu con người
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 7
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
biết đoàn kết lại với nhau giống như một bó đũa chắc chắn thì không bao giờ bị thất bại.
Tinh thần này, nhiều lần được đề cập đến trong tục ngữ, chẳng hạn:
“Đoàn kết là sống chia rẽ là chết”
“Đoàn kết là sức mạnh”
Đây là những kinh nghiệm vô cùng quí báu mà chúng ta cần giữ gìn và phát
huy. Trong những cuộc kháng chiến ác liệt chống giặc ngoại xâm cũng nh
ư vật lộn với
thiên nhiên để tồn tại, chính đoàn kết là sức mạnh vô biên giúp cho người Việt Nam đủ
sức chống lại và chiến thắng tất cả. Đoàn kết có thể không là yếu tố quyết định nhất
nhưng nó có một vai trò quan trọng không thể thiếu. Sức mạnh của sự đoàn kết không gì
so sánh được. Ca dao cũng đã có câu:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
B
ất kì thời kì nào, sự đoàn kết vẫn giữ nguyên sức mạnh và giá trị của nó.
Thiếu đi sự đoàn kết, con người không thể nào vượt qua được những khó khăn thử thách
“Thương người như thể thương thân”
“Lá lành đùm lá rách”

Đó là những lời động viên, kêu gọi tinh thần đoàn kết của mỗi con người. Nó
có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhất là trong những lúc hoạn nạn, khó khăn. Thông điệ
p ấy là
một chiếc cầu nối liền mối quan hệ giữa người và người. Mỗi người hãy làm một viên
gạch nhỏ góp phần tạo dựng nên bức tường thành đoàn kết to lớn không gió mưa giông
bão nào có thể quật ngã được. Lời khuyên của cha ông có giá trị thật to lớn. Triết lí về
khối đại đoàn kết là nền tảng làm nên sức mạnh giúp cho con người vượt qua mọi hoàn
cảnh khó khă
n.
1.2.
Triết lí về lối sống và cách sống
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết lại hiểu biết và kinh
nghiệm sống quí báu, truyền đạt từ đời này đến thế hệ sau. Văn học dân gian là một
phương tiện quan trọng và chủ yếu chuyên chở những quan niệm, triết lí của cha ông ta.
Xuất phát từ tấm lòng nhân ái, hiền hậu, và có ảnh hưởng ít nhiều bởi giáo lí
đạo Phật, nhân dân ta đã cổ vũ cho cái thi
ện và lên án cái ác cái xấu. Ông cha ta yêu cầu
con người sống trong cộng đồng cần phải tích cực hành thiện, không gian dối lọc lừa,
mà phải yêu thương giúp đỡ nhau, có tấm lòng nhân hậu… Quan niệm này đã được thể
hiện như sau qua các câu ca dao, tục ngữ:
“Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai”
“Ở hiền thì lại gặp lành
Nếu ai ở ác tội đành vào thân”
Ông cha ta khuyên dạy mọi người:
“Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng g
ặp để dành kiếp sau”
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 8
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…


làm người nên
“Ăn ngay ở thật”
“Cải ác hoàn lương”
và sống sao phải đạo để lưu lại cái đức cho con cháu đời sau, bởi:
“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”
“Một đời làm hại, bại hoại ba đời”
Điều răn dạy của cha ông ta có ý nghĩa ở mọi thời đại, nhất là trong xã hội thực
dân nửa phong kiến, khi mà các giá trị đã bị đảo lộn, không còn phân biệ
t được giữa
thiện và ác, giữa lành và dữ, con người bị trượt trên hố sâu hủy hoại nhân tính.
Việt Nam là một đất nước sống giàu tình nghĩa và rất mực thủy chung. Bất kì
những ai thuộc dòng giống tiên rồng đều nhớ rõ những lời giáo huấn của cha ông ngàn
đời trước:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Uống nước thì phải nhớ nguồn chảy ra”
“Ăn cây nào, rào cây ấy”
“Uố
ng nước nhớ nguồn”
Qua những câu ca dao, tục ngữ mang ý nghĩa biểu trưng, nhân dân ta quan niệm
con người sống phải luôn hướng về cội nguồn. Đây là một truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta cần được kế thừa và phát huy. Bên cạnh đó, người Việt Nam luôn đề cao chữ hiếu,
coi trọng công ơn sinh thành của cha mẹ:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn ch
ảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Ngoài ra, “Các câu chuyện cổ tích còn dạy con người về các giá trị quí báu, như
truyện trầu cau giáo dục tình nghĩa thủy chung giữa anh em, vợ chồng, truyện cây khế là
bài học lòng vị tha và thói tham lam” ( Phương Lựu, 2002:108).

Cha ông ta chủ trương “dĩ hòa vi quí”, con người cần chung sống hòa thuận,
bởi “một câu nhịn chín câu lành”, điều này đã trở thành mộ
t nét tâm lí của nhân dân ta.
“Tâm lí ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn:
Một sự nhịn chín sự lành,
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê”. ( Phương Lựu, 2002:159)
Sự tôn trọng tinh thần hòa thuận đã giúp cho đất nước Việt Nam luôn sống
trong không khí hòa bình, ấm áp tình thương. Chính vì vậy, hiện nay Việt Nam đã được
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 9
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
công nhận là một nước có trật tự vào bậc nhất trên thế giới. Có thể thấy quan niệm tư
tưởng của cha ông ta luôn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó trong mọi thời đại.
Mặt khác, cha ông ta đề cập đến sự ảnh hưởng của hoàn cảnh đối với nhân cách
con người, khuyên con cháu nên tránh xa cái xấu, cái ác, chỉ nên sống trong môi trường
tích cực có thể giáo dục con người theo chiều hướng tốt. Bởi trong nhiều tr
ường hợp,
ảnh hưởng của hoàn cảnh là rất lớn:
“Đi với bụt mặc áo cà sa
Đi với ma mặc áo giấy”
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
Qua những câu tục ngữ, thành ngữ trên, cha ông ta muốn nhấn mạnh vai trò của
hoàn cảnh đối với tính cách con người. Vấn đề này cũng trở nên ám ảnh trong nhiều tác
phẩm của Nam Cao mà chúng tôi sẽ đề cậ
p đến ở phần sau.
Song song với vấn đề trên, cha ông ta không nhìn nhận một cách chủ quan,
phiến diện, một chiều mà nhận ra rằng sự cao đẹp trong tâm hồn con người có thể chiến
thắng hoàn cảnh và không bị hoàn cảnh tác động làm mất đi những giá trị tốt đẹp:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Điều này cũng được thể
hiện rõ nét trong nhiều sáng tác của Nam Cao, nói lên
tinh thần nhân đạo của tác giả.
Ngoài ra, nhân dân ta còn nêu lên những quan niệm sống, những tư tưởng, triết
lí thể hiện sự khôn ngoan của trí tuệ. Câu tục ngữ “bắt đứa có tóc ai bắt đứa trọc đầu” là
một triết lí sống có nhiều ý nghĩa đã được nhân vật của Nam Cao kế thừa và phát huy
một cách triệt để trong truyện ngắn Chí Phèo. Cha ông ta cũng giúp cho mọi ngườ
i hiểu
rõ một chân lí hết sức đơn giản mà rất sâu sắc: “mạnh được yếu thua”. Trong cuộc sống,
nếu có được thế mạnh về nhiều mặt: tiền bạc, sức mạnh, quyền thế, sự khôn ngoan…
con người ta ắt hẳn sẽ có được ưu thế trong nhiều lĩnh vực.
Những triết lí sống mà lớp người đi trước để lại cho con cháu đời sau th
ể hiện
bằng văn học: truyện, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, … luôn mang một ý nghĩa răn dạy
hoặc phê phán. Tất cả đều hướng con người đến những giá trị đạo đức tốt đẹp, giúp mọi
người có cuộc sống tốt hơn.
2. Triết lí của người Việt trong quan hệ với những luồng tư tưởng ở Việt Nam
Tôn giáo là một hợp thể bao g
ồm những lí tính và cách thức hành đạo, thường
gắn liền với quyền lực siêu nhiên hình thành hoặc chi phối qui luật sinh tử của con
người. Theo một tôn giáo (hay theo đạo) hàm nghĩa là tin vào một lực lượng thần thánh
và tuân theo những chỉ dẫn đạo đức mà tôn giáo đó đưa ra cho tín hữu.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 10
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Tam giáo Nho, Phật, Lão được du nhập vào nước ta cách đây gần hai ngàn
năm. Cả Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều có những yếu tố bổ sung cho nhau và trong
mỗi học thuyết đều chứa đựng những giá trị mang tính phổ quát. Qua quá trình tiếp biến

với các yếu tố bản địa, dần dần tam giáo đã trở thành những trụ cột của tư tưởng Việt
Nam truyền thống.
2.1.
Đạo Phật
Đạo Phật (buddha, tiếng Ấn là giác ngộ) phát sinh và thế kỉ VI –V TCN ở miền
bắc Ấn Độ, trong vương quốc Kavilavasttu gần biên giới Nêpan. Người sáng lập đạo
Phật là Siddharthagautama (Tất Đạt Đa Cồ Đàm), ông sinh năm 624 TCN. Tất Đạt Đa
xuất thân từ gia đình quyền quí Ấn Độ. Ngài được trông chờ sẽ trở thành lãnh đạo của
dân chúng và gắn kết với cuộc sống nhung lụa quyền th
ế. Lúc này ở Ấn Độ, đạo Bà la
môn (Brahmaanism) đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Do
sự bất bình về phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của muôn dân,
Tất Đạt Đa đã từ bỏ của cải, địa vị cao sang để sống đời đạo hạnh, mong đạt đến giác
ngộ để thoát khỏi vòng luân hồi của sinh tử
, đầu thai dẫn đến sự hình thành một tôn giáo
mới. Đạo Phật phản ánh lòng bất bình của quần chúng đối với chế độ đẳng cấp hà khắc
và quyền uy độc đoán của đẳng cấp thống trị Bà La Môn.
Phật giáo là tôn giáo duy nhất bàn trực diện đến con người, lấy con người làm
trung tâm, phân tích ngọn nguồn cuộc sống tâm lí tinh thần của nó để tìm ra phương
sách tự giải thoát, giải thoát cho con người và cho cả
chư thiên. Đạo Phật chủ trương
pháp tính bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể thành Phật. Phật
khuyên mọi người nên tiết chế dục vọng, có tinh thần vô ngã, vị tha, làm điều lành tránh
sự ác. Phật là biểu tượng của sáng suốt và từ bi.
Đức Phật là người đã chỉ cho chúng sinh phương cách thoát khỏi vòng luân hồi
của sự chết và đầu thai bằng việc đạt đến giác ngộ.
Để làm được như vậy, đức Phật dạy
các môn đồ về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, kết hợp lời giảng dạy đạo lí với những
hướng dẫn về suy niệm và thiền định.
Tứ Diệu Đế (bốn chân lí kì diệu) hay Tứ Thánh Đế (bốn chân lí thánh) chính là:

Khổ Đế, Nhân Đế, Diệt Đế, Đạo Đế.
Bát Chánh Đạo (tám nẻo đường chân chính) là: Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạ
ng, Chánh niệm, Chánh định, Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tinh tấn.
Như vậy, thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát.
Theo triết lí của nhà Phật, con người cần phải tu tâm dưỡng tính, làm nhiều việc thiện,
tránh điều ác để tạo được nghiệp tốt. Từ đó, con người mới có sự tốt đẹp lâu dài về sau,
thoát được vòng luân hồi khổ
ải.
Với những ưu điểm và những nét tích cực đó, giáo lí của nhà Phật đã được mọi
người tiếp nhận rộng rãi. Tư tưởng Đạo Phật đã ăn sâu vào tiềm thức của hầu hết người
dân Việt Nam. Chính vì vậy, trong kho tàng văn học dân gian và văn học truyền miệng
đã xuất hiện rất nhiều những câu triết lí về hành động làm điều thi
ện, tránh điều ác,…


Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 11
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
2.2. Đạo Nho
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, “nho” là một danh hiệu chỉ những người có học
thức, biết lễ nghi. Nho giáo là một hệ thống những tư tưởng triết lí, đạo đức, thể chế cai
trị đã có ở Trung Hoa từ đời Tây Chu với sự đóng góp rất lớn của Chu Công Đán. Đến
cuối đời Xuân Thu (thế kỉ VI-V TCN), Nho Giáo được Khổng Tử và các môn đệ của
ông hệ thống hóa rồ
i sau này ổn định lại trong Ngũ kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Tứ Thư: Luận ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử,
tạo thành những kinh điển của Nho gia.
Nho giáo (còn gọi là Khổng giáo) từ đời Hán trở đi dần dần trở thành ý thức tư
tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa. Nho giáo chủ trương “tôn quân, đạo
thống nhất”. Ba cương lĩnh cơ bản của Nho giáo (tam cươ

ng) là: đạo vua –tôi, đạo cha –
con, đạo chồng –vợ. Cùng với tam cương là ngũ thường (năm phép ứng xử luân lí và
đạo đức): nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Lễ được đặc biệt đề cao, “tiên học lễ”, tức là tôn trọng
trật tự đẳng cấp xã hội hiện hành. Người mẫu của đạo Nho là người quân tử, tức là người
tuân theo mệnh trời (Thiên mệnh), trung với vua, hiếu với cha mẹ.
Bổn phận c
ủa người quân tử là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Sau khi
tu sửa, chỉnh đốn bản thân, người quân tử cần hành động. Kim chỉ nam cho mọi hành
động trong công việc cai trị là hai phương châm:
1. Phương châm thứ nhất là nhân trị. Nhân là tình người; nhân trị là cai trị bằng
tình người, coi người như bản thân mình.
2. Phương châm thứ hai là chính danh: chính danh là sự vật phải ứng với tên
gọi, mỗi người phải làm đúng với chức phận c
ủa mình. Chính danh trong cai trị là phải
làm sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (luận ngữ).
Khổng Tử nói: con em ở trong nhà thì hiếu, ra ngoài thì kính trọng người tôn
trưởng (đễ), nói năng phải cẩn thận và tín thực, yêu thương rộng rãi mọi người mà thân
cận người nhân. Làm những điều đó dễ dàng (có thừa năng lực) thì cho học văn; kẻ quân
tử học rộng rãi ở văn, kết thúc bằng lễ thì có thể không trái đạo nghĩa.
Nh
ư vậy, quan tâm hàng đầu trong mục tiêu đào tạo con người của Khổng Tử là
có đạo đức, trước hết là trung, tín, hiếu, đễ, cao hơn là yêu thương mọi người, là hướng
về điều Nhân. Theo Khổng Tử, gia đình hạnh phúc sẽ tạo nên cuộc sống yên bình,
Khổng giáo quan niệm sự trợ giúp và tôn trọng lẫn nhau sẽ làm cho gia đình êm ấm,
thuận hoà rồi từ đó xã hội sẽ có tôn ti trật tự
, thanh bình. Nói chung “Nho giáo là một
học thuyết đạo đức, nhấn mạnh đến đạo nghĩa chỉ hướng vào cõi người, chú mục hàng
đầu những nguyên tắc ứng xử xã hội” ( Trần Ngọc Vương, 1998:70).
Đạo Nho có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng và có khoảng thời gian tồn
tại lâu dài trong hệ tư tưởng của người Việt. Những triết lí của Đạo Nho chủ yếu phục

vụ cho quyền lợ
i của giai cấp thống trị phong kiến. Vì vậy, nó không có sức ảnh hưởng
sâu sắc như giáo lí của Đạo Phật. Khi thời thịnh trị của giai cấp phong kiến đã qua, nó
phần nào đã trở nên lạc hậu.


Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 12
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…

2.3.
Đạo Lão
Đạo Lão được hình thành trong phong trào khởi nghĩa vùng nam Trung Hoa
vào thế kỉ II SCN. Cơ sở lí luận của nó là đạo gia – triết thuyết do Lão Tử đề xướng và
do Trang Tử hoàn thiện (học thuyết Lão –Trang). Đạo giáo chủ yếu chỉ đề cập đến hai
vấn đề chủ yếu là Đạo và Đức.
Đạo của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một
cách tự nhiên. Nó là nguồn gốc của vạ
n vật.
Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, những
làm cho vật nào ra vật ấy là tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái tĩnh vô
hình thì Đức là cái động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là
cấu tạo và tồn tại của vũ trụ.
Đạo cùng vớ
i Đức làm nên nền tảng của thế giới mà Lão Tử gọi là Trời và Đất.
Đạo và Đức chính là thiên nhiên, thiên nhiên này sẽ đem lại cho con người một tác lực
phi thường nếu con người biết thuận theo tự nhiên.
Triết lí Đạo gia quan niệm mọi vật trong vũ trụ là do âm và dương cấu thành.
Để có cuộc sống thư thái, con người cần hai yếu tố này hài hoà và cân bằng. Cách sống
lí tưởng của Đạo gia là sống hoà hợp theo Đạ
o, không bận tâm đến vật chất, hoà nhập

với thiên nhiên và hoà hợp với cơ thể của mình. Như vậy, Đạo của Đạo gia không giống
Đạo của Nho gia. Nho gia đề cao “Trung chính”, Đạo của Lão –Trang là Đạo tự nhiên.
Nho gia quan niệm về xã hội cũng khác Đạo gia. Nho gia cho rằng kẻ trị vì theo đường
lối chân chính sẽ có nhiều người về theo, con người sống có đức sẽ hạnh phúc lớn, còn
bổng lộc gắn liền v
ới danh vọng, muốn đạt được danh vọng con người cần phải học, đi
từ tu thân, đến tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong đó Đạo gia quan niệm xã hội lí
tưởng là xã hội dân ít, nước nhỏ, con người phải sống nhu thuận, không nên tranh giành
nhau. Đặc biệt, điểm tích cực có ý nghĩa muôn thuở của Đạo gia là tư tưởng chống chiến
tranh, tức là chống sự tàn phá thiên nhiên, chống mọi nguyên nhân gây ra do con người
tính tham, tính tranh giành và tiêu di
ệt nhau.
Triết lí sống tối ưu của Lão Tử suy ra là muốn làm việc gì phải đi từ điểm đối
lập, phải “vô vi”. Vô vi không phải có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hoà nhập
với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm dương “Vật cực tắc
phản”, kết quả thu được còn tệ hại hơn là không làm gì. Theo quan niệm của Đạo gia,
phúc hoạ luôn ỷ phục trong nhau, ranh giới giữa chúng rất khó phân biệt, muốn biết phải
có lòng chí thành.
Quan niệm của Đạo gia phần nào hợp với qui luật của cuộc sống. Tiếp thu
những triết lí sống tích cực của Đạo gia, con người sẽ sống trong hòa bình, không có
chiến tranh. Đây là những triết lí đã được mọi người tiếp nhận và đã đi và đời sống tinh
thần của không ít người dân Việt Nam.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 13
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
II. VĂN HỌC, MỘT PHƯƠNG TIỆN TRIẾT LÍ
Qua cả một quá trình đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm,
ông cha ta đã tích lũy được những kinh nghiệm sống, những triết lí sống vô cùng quí
báu. Để lưu truyền lại cho con cháu đời sau, tổ tiên ta đã dùng hình thức truyền miệng là
chủ yếu. Hình thức này đã tạo ra nhiều biến dị trong nhiều câu thành ngữ, quán ngữ…
Đến khi có sự ra đời của vă

n học dân gian, tất cả những triết lí sống đã được văn học dân
gian thể hiện một cách đầy đủ nhất.
Văn học dân gian có nhiều thể loại: vè, ca dao, phong dao, tục ngữ, truyện cổ
tích, truyện ngụ ngôn… Và hầu như ở thể loại nào, đề tài nào cũng đều có triết lí. Như
vậy có thể nói văn học dân gian là phương tiện thể hiện những tư tưởng tri
ết lí của người
Việt. Đi sâu tìm hiểu văn học dân gian, cụ thể là ở những câu tục ngữ, ca dao, ta sẽ nhận
ra nhiều nội dung triết lí hết sức thâm thúy, sâu xa, mang đầy ý nghĩa của người xưa.
Họa tòng khẩu xuất,
Đa ngôn đa quá,
Sai một li đi một dặm,
Sai con toán bán con trâu,
Tích tiểu thành đa,
Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ…
Đó là những bài học quí báu mà cha ông ta muốn gởi gắm đến thế h
ệ sau. Điều
răn dạy đó luôn có ý nghĩa trong mọi thời đại, giúp con người có cuộc sống tốt đẹp.
Những vấn đề đó không phải dễ dàng đúc kết nên được mà phải trải qua một quá trình
thử thách đầy gian khổ.
Với vai trò là một phương tiện thể hiện tư tưởng tình cảm của con người, văn
học dân gian có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh th
ần của người dân. Có thể với
một lời khuyên răn bình thường lại không đem đến hiệu quả cao, nhưng khi ở hình thức
là một thể loại của văn học dân gian, con người lại dễ dàng tiếp nhận hơn.
Bên cạnh thơ ca đã được đề cập đến ở phần trên thì truyện ngụ ngôn, truyện cổ
tích cũng là một phương tiện không thể thiếu để
thể hiện triết lí của cha ông ta. Về
truyện cổ tích, đã có hàng trăm câu chuyện khác nhau được người xưa sáng tạo ra và ẩn
trong đó là những vấn đề dễ hiểu về sức mạnh của cái thiện, sự diệt vong của cái ác, là
những bài học kinh nghiệm quí báu ở đời. Truyện Tấm Cám là một ví dụ tiêu biểu cho

sự chiến thắng của cái thiện. Cô Tấm, một nhân vật t
ượng trưng cho sự lương thiện có
lúc tưởng chừng như đã bị các thế lực hiểm ác đánh bại. Nhưng thật ra, đó chỉ là những
hóa thân của Tấm để chống trả lại những mưu mô xảo quyệt của mẹ con Cám. Sự trở về
của nàng Tấm xinh đẹp và kết cục bi thảm của mẹ con Cám như là một minh chứng sinh
động về sức m
ạnh của cái thiện. Nó cổ vũ mọi người hãy làm điều thiện, tránh điều ác
để có những kết cục tốt đẹp về sau. Chủ đề nổi bật trong câu chuyện Cây Khế lại là một
bài học về sự tham lam. Cây Khế toát lên ý nghĩa triết lí giáo dục mọi người từ bỏ tính
tham, biết hài lòng với những gì mình có. Ngoài ra, truyện Thạch Sanh – Lý Thông, Cây
Tre Trăm Đốt, Sự
Tích Trầu Cau,… còn ẩn chứa những bài học răn dạy con người về sự
thật thà, lòng lương thiện, tình nghĩa thủy chung,…
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 14
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Bên cạnh đó, truyện ngụ ngôn tuy có một số lượng câu chữ ít hơn nhưng lại
mang một ý nghĩa sâu xa về những bài học nhân thế của cuộc đời. Truyện ngụ ngôn là
một thể loại dễ tiếp nhận và được khá nhiều người quan tâm. Nhiều lúc truyện ngụ ngôn
mang sắc thái châm biếm trào phúng tạo nên tiếng cười mỉa mai đối với những nhân vật
ích kỉ, keo kiệt, hà tiện, ngu dốt… nh
ưng cuối cùng ý nghĩa thật sự của truyện ngụ ngôn
vẫn là một lời khuyên dạy kín đáo. Với Tam đại con gà, tác giả dân gian tỏ thái độ mỉa
mai, châm biếm những kẻ ngu dốt nhưng lại tỏ ra là hiểu biết. Anh thầy đồ trong câu
chuyện ngụ ngôn trên là một trò cười cho mọi người vì thói sĩ diện hão. Đáng trách hơn
là lão nhà giàu keo kiệt trong truyện Thà chết còn hơn. Vì tiết kiệm mấ
y đồng bạc lão ta
thà chết chứ không chịu để ai cứu mình. Đây là hậu quả đau đớn của thói keo kiệt bủn
xỉn. Không lớn tiếng chê trách, ở Lợn cưới áo mới lại là một nụ cười châm biếm nhẹ
nhàng về thói khoe khoang của hai nhân vật. Trên đây là một số bài học từ những câu
chuyện ngụ ngôn mà cha ông để lại cho chúng ta. Còn rất nhiều câu truyện khác với vô

vàn bài học khác mà ở
đây do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, người viết
không thể liệt kê hết được. Nhưng rõ ràng, văn học dân gian có vai trò vô cùng quan
trọng. Nhờ nó, những triết lí, tư tưởng, tình cảm, kinh nghiệm sống… của cha ông ta vẫn
còn lưu truyền và được gìn giữ cho đến tận ngày nay. Cho nên hiện tại ta vẫn có thể hiểu
và cảm nhận được những suy nghĩ tâm tư và nguyện vọng của tổ tiên, từ đó có sự kế
thừa và phát huy đúng hướng.
Tóm lại, những câu thành ngữ, tục ngữ, những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn là
một phương tiện để con người biểu hiện triết lí của bản thân về cuộc đời để răn dạy, để
xử thế. Từ nhiều triết lí riêng lẻ của mỗi cá nhân, cha ông ta đã tập trung lại và hợp
thành một hệ thống, tạo nên kho tàng quí báu truyền lại cho thế h
ệ sau. Đây là những
triết lí đúng đắn có giá trị mang tính khuôn mẫu. Có thể nói đây là một thứ tài sản vô giá
mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta.
Đến thời kì văn học trung đại, yếu tố triết lí vẫn còn tồn tại và tiếp tục xuất hiện
trong các sáng tác của các tác gia lớn như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi… Các
ông hay triết lí những vấn đề về nhân cách, về sự chi phối của thế lự
c đồng tiền, qua đó
đề cao khí tiết của bản thân, của người quân tử, của đạo làm người. Đến thời thực dân
nửa phong kiến, nhiều vấn đề xã hội đã nảy sinh là tiền đề tạo nên triết lí trong nhiều tác
phẩm của các nhà văn ở giai đoạn văn học hiện thực 1930-1945. Trong cái xã hội đầy
rẫy sự bất công áp bức, nhiều nhà văn, nhà thơ đ
ã đưa ra những triết lí sống có ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc. Mỗi người có một phong cách, một cách giải quyết vấn đề xã hội
khác nhau khi cùng đứng trước một tình huống. Bên cạnh những triết lí của Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan… thì những vấn đề do Nam Cao đặt ra thật sự gợi biết bao
suy nghĩ, trăn trở trong lòng người đọc về nhiều điều rất đỗi bình thường trong cuộc
sống. Từ những cái hết sức đời thường, Nam Cao đã đưa vào trong trang văn của mình
và biến nó thành những vấn đề có ý nghĩa mang đầy cá tính sáng tạo của bản thân ông.
Ông đã tiếp thu, kế thừa trọn vẹn những tư tưởng, triết lí, quan niệm sống của các tôn

giáo, của truyền thống dân gian và phát huy những giá trị vốn có của nó, tập hợp thành
một hệ thống triết lí toàn diện trong các sáng tác của mình. Nam Cao
đã làm thành một
nét phong cách sáng tác “hiện lên lừng lững, không lẫn vào đâu được và dường như trở
thành một trong những đầu nguồn của những dòng phong cách truyện ngắn sau Cách
mạng tháng Tám” (Bùi Công Thuấn, 1997:16).
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 15
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…

CHƯƠNG II
HỆ THỐNG TRIẾT LÍ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

I. TÍNH TRIẾT LÍ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM
Nhà văn là những người lăn lộn, trải nghiệm cuộc sống, rút ra những vấn đề có
ý nghĩa nhân sinh sâu sắc và phản ánh nó vào trong tác phẩm văn học. Như vậy tác
phẩm văn học là nơi thể hiện quan điểm, cách nhìn, suy nghĩ của nhà văn về cuộc đời.
Để đưa vào tác phẩm tất cả những tư tưởng, tình c
ảm,… nhà văn dùng phương tiện chủ
yếu là ngôn ngữ tác động trực tiếp vào bạn đọc. Trong đời sống, ngôn ngữ là cái vỏ vật
chất của tư duy, là kí hiệu của tư duy. Mọi suy nghĩ, tư tưởng của mỗi người đều thông
qua ngôn ngữ thì người khác mới có thể hiểu và biết được. Trong văn học, ngôn ngữ là
chất liệu chủ yếu và duy nhất. Ngôn ngữ giúp chuyển tả
i tất cả những gì nhà văn cần nói
đến với mọi người. Trong đó, triết lí là vấn đề dễ bộc lộ trực tiếp nhất.
Trong văn học có sự hiện diện và tồn tại của hai loại ngôn ngữ, đó là ngôn ngữ
người dẫn chuyện (tác giả) và ngôn ngữ nhân vật. Hai ngôn ngữ này có lúc tách bạch rõ
ràng, có lúc đan xen vào nhau tạo nên lời văn nửa trực tiếp. Triết lí sống bộ
c lộ chủ yếu

qua ngôn ngữ của hai đối tượng trên. Nam Cao là một nhà văn thích triết lí và hay triết
lí. Trong các tác phẩm của Nam Cao, tính triết lí là một yếu tố nổi bậc và dễ cảm nhận.
Là một người từng trải nghiệm, có hiểu biết sâu sắc, Nam Cao đã đi sâu vào ngõ ngách
tâm hồn của mỗi nhân vật trong các tác phẩm của ông. Đặc biệt, Nam Cao thường tập
trung viết về cuộc đời đau khổ
, khốn cùng của những người nông dân chân lấm tay bùn
cũng như có sự cảm thông đối với cuộc sống “bị áo cơm ghì sát đất” của tầng lớp trí
thức tiểu tư sản nghèo thành thị. Từ đó, ông đã khái quát những vấn đề trong cuộc sống
hàng ngày thành những triết lí sống có ý nghĩa sâu sắc và có giá trị.
Nội dung triết lí trong những truyện ngắn của Nam Cao khá phong phú và đa
dạng. Ông triết lí về
rất nhiều vấn đề được khá nhiều người quan tâm: về sự sống và cái
chết, về Đời và Kiếp con người, về sự sướng khổ ở đời, về cái lương thiện và cái ác, cái
xấu… Tất cả những vấn đề đó đã được Nam Cao thể hiện bằng một giọng điệu rất riêng
mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn, tạo nên mộ
t phong cách riêng không lẫn
vào đâu được.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 16
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…

1.Triết lí về sự sống- cái chết
Bất cứ một người nào tồn tại trên cõi đời này đều phải trải qua vòng luân hồi
của sinh lão bệnh tử. Đây là một qui luật đã được đề cập đến trong triết lí của đạo Phật.
Như vạn vật tự nhiên, con người được sinh ra, tồn tại, phát triển vào sau đó lại trở về với
cát bụi. Những t
ưởng đây là một vấn đề hiển nhiên theo đúng qui luật khách quan,
không có gì phải tranh luận, bàn cãi hay mở rộng thêm. Thế nhưng đến Nam Cao, với
những tư tưởng, những triết lí trong các tác phẩm của mình, ông đã cho mọi người thấy
được xoay quanh sự sống chết còn rất nhiều vấn đề cần được nhân loại quan tâm. Những
triết lí ông đưa ra mang ý nghĩa sâu xa và rộng lớn. Dù đó là những vấn đề không phải

là hoàn toàn mới mẻ, đó là sự kế thừa những triết lí đã có từ trước về vấn đề sinh tử, thế
nhưng Nam Cao đã đặt chúng trong một ngữ cảnh thích hợp và khái quát, đúc rút ra
những chân lí xoay quanh việc sống như thế nào và chết như thế nào cho có ý nghĩa.
Cuộc đời này tươi đẹp và đáng sống biết bao, vì vậy Nam Cao đã rút ra triết lí
“sống khổ đến đâu cũ
ng còn hơn chết” và khẳng định “cái tâm lí chung của người đời
như vậy” (Điếu văn). Nhân vật tôi khi phát ngôn câu nói này mang một tâm trạng đau
đớn khôn nguôi khi nhận được tin bạn mình –anh Phúc đã chết. Cả cuộc đời anh Phúc,
từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành là một chuỗi ngày khốn khổ, gian truân, không được
một giờ nào sung sướng. Nếu lúc nhỏ anh phải cố gắng làm lụng vất vả
cho một bà chủ
khó tính để mưu cầu miếng ăn thì đến khi lập gia đình anh phải cung phụng cho một
người vợ không chung tình. Đó có lẽ là những nguyên nhân đau thương dẫn đến cái chết
của anh Phúc. Mỗi người khi chứng kiến hoàn cảnh, cuộc đời của anh đều không khỏi
chạnh lòng, xót xa. Sự tàn nhẫn của người chủ và cuộc hôn nhân không tình yêu đã dần
phá hoại cuộc đời của anh. Anh đ
ã chết khi tuổi đời còn quá trẻ, anh lại còn bỏ lại hai
đứa con “ẻo lả như một cái lá úa và buồn như một tiếng thở dài”. Sự xót thương của
nhân vật tôi cũng là của Nam Cao đối với số phận một con người. Nam Cao tỏ ra tiếc
nuối về cuộc đời của anh Phúc, nó quá ngắn ngủi. Nam Cao đã đặt sự sống và cái chết
lên bàn cân để cân đo, tính toán và kết luận: sự s
ống, dù là khổ cực, vất vả vẫn hơn là
chết. Triết lí của ông mang nặng tình yêu đời và khát khao cuộc sống.
Cái chết quả là đáng sợ, nó là một lực lượng siêu hình có sức mạnh vạn năng
“Chao ôi! Cái chết còn hung bạo hơn những thằng hung bạo. Những kẻ hung bạo chết
cũng đáng lòng thương hại. Những kẻ hung bạo chết cũng là người chết, nạn nhân của
một sức mạnh mù quáng và khốc liệt”. Ngay cả Trương Rự -một kẻ cướp, một tên đồ tể
khát máu cũng phải khuất phục trước sức mạnh này. Từ ngoại hình đến tính cách, hắn
khiến ai cũng phải ghê sợ. Thế nhưng một cái chết đến đột ngột đã đặt dấu chấm hết cho
cuộc đời Trương Rự. Trương Rự, nỗi kinh hoàng c

ủa cả làng cuối cùng cũng trở nên
hoàn toàn yên lặng. Với một tinh thần nhân đạo sâu sắc, Nam Cao đưa ra triết lí “Những
người chết đều đáng kính bởi những người chết không còn đủ sức mà hại ai”. Phải
chăng ông muốn khuyên mọi người nên bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của Trương Rự, bởi
“chết là hết”, những linh hồn có làm hại bất kì ai nữa đ
âu? Con người không nên cứ dựa
vào cái quá khứ bất lương của một người chết để xét đoán, đánh giá những người còn lại
đang tồn tại trên đời. Đây còn là một triết lí về sự khoan dung độ lượng, lòng vị tha.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 17
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Ở tác phẩm Mua nhà, Nam Cao nói về cái chết nhưng lại hàm ý về cuộc sống.
Ông quan niệm “Trước sau thì cũng chết. Ai cũng chết. Mà ai cũng chỉ chết một lần mà
thôi. Sống sẻn so làm gì?”. Một vấn đề đơn giản thế nhưng không phải bất cứ người nào
cũng nhận ra. Một câu chuyện cổ tích thời xưa đã chứng minh cho điều này. Trong
truyện, nhân vật chính là lão nhà giàu thà chị
u chết đuối trên sông chứ không bỏ thêm
đồng nào để người ta cứu mình.
Một tác phẩm của Nam Cao đã đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa lớn lao về
cách sống. Bề ngoài tuy nói về cái chết nhưng thật ra đó là một triết lí về sự sống “Chết
vì bệnh không đáng sợ. Ta nên sợ cái chết trong lúc sống. Cái chết đáng buồn của
những người số
ng sờ sờ ra đấy nhưng chẳng dùng sự sống của mình vào việc gì”. Trong
tiểu thuyết Sống mòn, với một giọng điệu buồn thương, chua chát, pha lẫn uất ức và
chứa đây căm phẫn, vấn đề đó đã được Nam Cao đề cập đến “Chết là thường. Chết ngay
trong lúc sống mới thật là nhục”.
Ở đây, Nam Cao đã thể hiện m
ột tấm lòng nhân đạo cao cả, ông như muốn lên
tiếng kêu cứu về nhân cách con người đang ngày càng tuột dốc một cách thảm hại. Cái
mà Nam Cao muốn nói đến là “cái chết trong lúc sống”. Cái chết này còn khó chịu hơn
so với cái chết thật sự. Khi chết, thể xác của chúng ta đều tan biến và linh hồn đi vào cõi

hư vô, không còn biết gì nữa cả. Còn đối với chết trong lúc sống, đó là khi thể xác chúng
ta vẫn còn tồn tại, ta v
ẫn còn hiện diện trên cõi đời này nhưng thực ra cái tâm hồn đã
không còn nhận biết được những giá trị đích thực của cuộc sống. Chúng ta không nên sợ
cái chết thật sự sẽ đến với mọi người, đó là qui luật của cuộc đời. Thật đáng sợ đối với
cuộc đời mỗi con người khi trông vẻ bề ngoài thì sự sống vẫn còn hiện diện nhưng tâm
hồn thì đã cằn cỗi, khô héo, đã “chết” từ lâu. Với một đầu óc nhạy bén, một cái nhìn có
khả năng bao trùm thực tại xã hội, Nam Cao đã nhận ra một vấn đề tuy đơn giản nhưng
lại mang một ý nghĩa triết lí sâu xa, thâm thúy. Vấn đề chủ yếu mà ông muốn nói đến ở
đây là mỗi con người cần sống như thế nào cho có ý nghĩa.
Đồng thời với việc chỉ ra hi
ện tượng chết trong lúc sống, Nam Cao đã đưa ra
một quan niệm sống hết sức tiến bộ cho nhân loại. Nam Cao lớn tiếng dứt khoát không
chấp nhận một cuộc sống không linh hồn, không tư tưởng. Sống, đúng với ý nghĩa của
nó là một cuộc sống có ước mơ, có lí tưởng, có hoài bão… có sự phấn đấu để đạt được
những hoài bão, khát vọng đó, hơn hết là phải biế
t vượt qua những khó khăn thử thách,
sóng gió trong cuộc đời để thực hiện trong lí tưởng. Sống không nên hiểu chỉ là hưởng
thụ, cũng không phải là những con người hèn mọn chỉ vì vật chất tầm thường mà đánh
mất cả nhân cách và phẩm giá. Nếu hằng ngày, con người cứ bị gánh nặng áo cơm ghì
sát đất, có thể người ta sẽ trở thành nạn nhân của chính bản thân họ. Quan trọng là con
người phả
i biết phấn đấu vượt qua để chiến thắng hoàn cảnh, nếu như buông xuôi và
dừng lại, phó mặc cuộc đời trôi theo những giá trị tầm thường thì khác chi người ta đã tự
giết mình. Đó chính là cái chết trong lúc sống, cái này còn đáng sợ hơn cái chết thật sự,
đây là cái chết trong tâm hồn. Tất cả những người có nhận thức, có cái nhìn bao quát,
rộng lớn đều không thể nào chịu đựng và chấp nhậ
n một cuộc sống như thế.
Nhưng riêng Tự Lãng trong truyện ngắn Chí Phèo lại có một triết lí sống khác,
rất riêng và độc đáo. Đối với lão thì sống là một chuỗi ngày say sưa trong men rượu vì

“Ai chết cũng thành cái mả, say sưa chết cũng thành cái mả, lo gì? Cứ say!”. Xét cho
cùng, cuộc đời Lão Tự quả thật rất buồn đau: vợ chết, con gái thì chửa hoang phải bỏ
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 18
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
làng đi, chỉ còn lại một mình lão trơ trọi trên cõi đời này. Lão đâu còn gì để mất nữa,
không còn vướng bận chi, lão uống rượu thỏa thích. Gặp được Chí Phèo như là vừa tìm
được một bạn tri âm, Lão Tự cứ xách thêm rượu cho Chí, dù cho có uống hết cũng chả
sao, không có gì phải ngại. Giàu có chết rồi cũng thành mả, nghèo đói rồi cũng thành
mả, say sưa cũng thành mả. Lão Tự đã chiêm nghiệm ra lúc sống dù như thế
nào thì cuối
cùng con người vẫn phải chết, đều “thành cái mả” cả. Đây là triết lí của một kẻ bất cần.
Tự Lãng đã cổ vũ Chí Phèo uống rượu bằng cái giọng triết lí của một kẻ chán đời.
Nam Cao thường dùng một đề tài nhỏ, qua đó phản ánh một vấn đề có ý nghĩa
xã hội rộng lớn. Qua câu triết lí “Không dễ mà chết được. Nếu chết mà d
ễ thì ai cũng
chết. Giời đất này, còn có ai muốn sống? Chẳng qua không chết được thì phải sống”
(Tình già), Nam Cao đã lớn tiếng phủ định cái xã hội thực dân nửa phong kiến đương
thời. Cái xã hội tuy không giết người ta một cách trực tiếp bằng gươm đao mà đáng sợ
hơn, nó đã gián tiếp hủy hoại cuộc sống của con người. Trong cái không gian ngột ngạt
của xã hộ
i tối tăm đầy rẫy những bất công ấy, chẳng ai tha thiết với cuộc sống. Các nhân
vật của Nam Cao cứ sống trong tình trạng mòn mỏi, chán chường, nhiều khi chết mòn về
nhân cách. Qua câu triết lí này, Nam Cao muốn đề cập đến vấn đề mỗi con người cần
phải sống như thế nào cho có ý nghĩa. Câu triết lí thấp thoáng một giọng cười mỉa mai,
châm biếm pha lẫn sự chua xót về kiếp ng
ười. Con người phải sống, chỉ là do “không dễ
mà chết được”, chứ không một ai yêu cuộc sống này. Như vậy, con người sống mà
không có lí tưởng, không ước mơ khát vọng, đây cũng có khác gì là cái chết trong lúc
sống? Câu triết lí trên đã thể hiện sự bi quan, bế tắc của Nam Cao đối với xã hội lúc bấy
giờ. Qua đó, ông nhấn mạnh nếu như còn tồn tại cái xã hội ấy thì cuộc số

ng con người sẽ
không bao giờ có ánh sáng của hy vọng, của ngày mai.
Trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, vấn đề về sự sống và cái chết được nêu
lên như một phần sâu sắc và tâm huyết nhất. Ông tập trung vào vấn đề này nhưng không
chỉ đề cập đến một cách đơn thuần mà qua đó nhằm làm sáng tỏ một lẽ sống, một cách
sống cao đẹp. Những triết lí về sự sống và cái chế
t thấm nhuần tư tưởng nhân văn và
tinh thần nhân đạo của Nam Cao.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 19
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…

2. Triết lí về Đời, về Kiếp của con người
Trong không ít tác phẩm, Nam Cao đã đề cập đến những vấn đề được khá nhiều
người quan tâm: về sự sống, cái chết, về sự bất công, về miếng ăn,… Trong đó, Nam
Cao tỏ ra rất am hiểu về Đời, về Kiếp con người. Nhiều khi, từ một cuộc đời của một cá
nhân, Nam Cao lại khái quát lên được thành những vấ
n đề lớn có ý nghĩa lớn lao về Đời,
về Kiếp của nhiều người trong xã hội. Nhất là đối với những kiếp người nhỏ bé, nghèo
khổ, Nam Cao lại càng tỏ ra hiểu, thông cảm, đồng cảm sâu sắc hơn bao giờ hết. Điều
này đã chứng tỏ ông có một tinh thần nhân đạo, một tầm nhìn sâu sắc so với nhiều nhà
văn đương thời.
Nam Cao là người bă
n khoăn, trăn trở nhiều nhất về Đời, về Kiếp của con
người. Giọng điệu của ông vang lên mang đầy sự buồn thương, chua chát “Chao ôi! nếu
người ta không ăn thì đời sẽ giản dị biết bao”. Nam Cao tỏ ra vô cùng thương cảm, xót
xa cho thân phận của bà cái Tí trong Một bữa no. Phải, đời sẽ thật giản dị khi người ta
không cần phải ăn, không bị cái đói giày vò, hành h
ạ, không nhất thiết vì miếng ăn mà
phải chịu những cái lườm nguýt đầy khinh khi, danh dự bị đánh mất. Bà cái Tí nhục nhã
vì miếng ăn, chết cũng chỉ vì miếng ăn nhưng lí do bà phó Thụ đưa ra thật vô lí “Người

ta đói một bữa cũng không sao nhưng no một bữa là đủ chết”. Đây là triết lí của một kẻ
nhà giàu. Tại sao lại có điều vô lí như vậy? Chỉ
có đi sâu vào tác phẩm tìm hiểu một
cách thấu đáo ta mới có thể nhận ra được.
Theo bà phó Thụ, bà cái Tí đã đói mấy tháng qua nhưng lần hồi thì bà vẫn có
thể tồn tại được, nhưng chỉ vì “một bữa no” tại nhà bà thì bà cái Tí đã chết. Đi sâu vào
nội tâm của bà phó, ta thấy câu triết lí do bà đưa ra đã thể hiện bà là một con người ích
kỉ, keo kiệt. Tại sao bà lại nói như vậy, chẳ
ng qua bà muốn “khuyên” tất cả những kẻ ăn
người ở trong nhà nên ăn ít thôi để bà đỡ tốn, và bà đã dẫn chứng một cách sinh động
bằng kết cục bi thảm của bà cái Tí khi ăn “một bữa no”. Những kẻ giàu trong tác phẩm
của Nam Cao thường hiện lên với một điểm chung như thế: chỉ muốn tất cả mọi người
làm lợi cho mình nhưng khi phải giúp đỡ, ph
ải cho ai một cái gì đó thì lại không muốn.
Bà đâu biết được cái đói nó thật sự như thế nào? Có khi nào bà phải chịu đói đâu, nên bà
xem bà cái Tí là một cái gai trước mắt chỉ muốn nhổ quách đi cho khuất mắt khi đang
ngồi trong buổi cơm. Bà cái Tí đã già rồi mà vẫn phải chịu đựng cái đói liên tục trong
mấy tháng, thật đáng thương. Nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của bà là “một bữa
no”, nhưng thực ra, xét cho đến cùng, bà chết là vì đói quá. Nam Cao đã đưa vào trong
trang văn của mình một cái chết hết sức thương tâm và đau lòng, có sức gợi trong lòng
người đọc, cũng như cái chết của Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, anh đĩ Chuột… Dân
gian có câu “miếng ăn là miếng nhục” và vì cái nhục ấy, bà lão đã chết một cách thương
tâm.
Nếu ở Một bữa no, bà cái Tí chết vì miếng ăn, có lẽ bà vẫn còn
đỡ khổ hơn số
phận bà quản Thích trong Nửa đêm. Suốt cuộc đời lương thiện của bà, bà đã vất vả làm
lụng nuôi Trương Rự và con của hắn. Đây là một việc làm phúc đức. Thế nhưng bà
chẳng có một tuổi già an phận “đã già nua, lại đau yếu, lại đói khát, lại bơ vơ thì khổ
hơn là chết. Khốn nỗi bà cứ số
ng, dai dẳng như nỗi lầm than trên đời”. Nam Cao đã rất

sâu sắc và thấu hiểu cuộc đời khi nhận ra nỗi lầm than như là một con quái vật cứ đeo
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 20
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
bám cuộc đời con người trong xã hội cũ, khiến họ không thể nào thoát ra được. Cách so
sánh như vậy đã làm nổi bậc lên hình tượng bà quản Thích với tất cả những cực khổ,
nhọc nhằn của số kiếp con người.
Xót xa và lòng đầy thương cảm, Nam Cao nhận ra sự bất công của ông Trời,
của cuộc đời này “Tại sao trên đời này lại có nhiều sự bất công đến thế? Tạ
i sao ở hiền
không phải bao giờ cũng gặp lành? Tại sao những kẻ hay nhịn hay nhường thì thường
thường lại chẳng được ai nhịn, nhường mình, còn những kẻ thành công thì hầu hết lại là
những người rất tham lam, chẳng biết nhịn nhường ai, nhiều khi lại xảo trá, lọc lừa và
tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn?”. (Ở hiền). Vấn đề này được Nam Cao đặt ra có sức lan tỏa
rộng lớn, không chỉ đúng ở thời kỳ xã hội lúc bấy giờ, khi mà con người ta đã mất dần
những giá trị nhân cách tốt đẹp, không còn tình thương và lòng nhân ái, chỉ còn lòng
ganh ghét, đố kị và lừa lọc để sống, mà còn đúng ở thời đại chúng ta hiện nay đối với
một số người.
Đặt ra triết lí, Nam Cao đã hoàn toàn phủ nhận những quan niệm mà các tôn
giáo đã từng khẳng định “Ở hiền g
ặp lành”. Nếu ngày xưa, cô Tấm với một tấm lòng
nhân hậu, trung hiếu, qua bao lần hóa thân để đẩy lùi cái ác đã có được một kết cục tốt
đẹp, thì ở đây, Nam Cao đã dẫn người đọc lướt qua cuộc đời của Nhu, một cô gái rất
mực hiền lành bị mọi người hà hiếp, xem thường, coi khinh. Phải chăng “cái nghề đời
hiền quá hóa ngu” (Chí Phèo). Nam Cao đã rất sâu sắc khi nhận ra
điều đó. Khi đặt chữ
hiền và hèn ở cạnh nhau, ta thấy nó khác biệt nhau một cách không đáng kể. Nam Cao
đã khuyên chúng ta muốn tồn tại và để thành công trong cuộc sống, con người cần phải
khôn ngoan, khéo léo khi lựa chọn cách sống và lối sống. Hiền lành là tốt, là lối sống
tích cực nhưng hiền quá mức lại là một lối sống tiêu cực, đó có thể là một biểu hiện của
cái chết trong lúc số

ng.
Mặc khác, Nam Cao đã chỉ ra muốn thành công về mọi mặt trong cái xã hội
thực dân nửa phong kiến, con người cần phải biết lọc lừa, toan tính, mưu mô… như
nhân vật Nhượng trong Ở hiền. Cái xã hội lúc bấy giờ chỉ còn đất dụng võ cho những kẻ
như thế. Trong xã hội của chúng ta ngày nay, cái hiền vẫn có thể tồn tại nhưng ít khi nó
có thể sống được trong xã hội thời ấy. Nam Cao
đã dẫn ra một trường hợp sinh động của
Nhu, số phận đã không hề mỉm cười với cô khi cô đã hiền quá. Như vậy hiền lành nhẫn
nhịn qua mức chỉ chuốc lấy thất bại cho bản thân.
Tính tình của con người có nhiều lúc lại là nguyên nhân của mọi bất công trên
đời “Trời thật bất công khi dựng ra cái đẹp và cái xấu, loài người thích đẹp, ghét xấu đã
phụ họa vào s
ự bất công của Trời” (Điếu văn). Nhận định này của Nam Cao cũng là
những lời lẽ xuất phát từ một trái tim chân tình. Ông tỏ ra xót thương đối với số phận
anh cu Phúc. Lấy được người vợ đẹp đâu hẳn là may mắn, anh Phúc đã phải làm lụng
vất vả đến nỗi hao mòn sức khỏe, người quéo quắt đi trong nỗi tuyệt vọng. Chỉ vì anh thì
xấ
u mà vợ anh thì đẹp quá! Người đời xem việc anh phải cung phụng vợ anh là điều tất
nhiên. Ở đây, cùng với những bất công khác, ông Trời dường như đã vào hùa với cái xã
hội đương thời bóp nát dần cuộc đời của những nông dân, những người dân tuy xấu xí,
quê mùa nhưng rất đỗi lương thiện. Sự bất công ấy như một sợi dây siết chặt vào cuộc
đời của họ
, khiến họ càng vùng vẫy càng không thể thoát ra.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 21
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Nam Cao thấy rõ sự bất công hiện ra rất rõ ở bọn nhà giàu “Cái bọn ngu dốt mà
giàu đáng ghét vô cùng. Chúng chỉ biết có tiền và coi người như rác như rơm” (Sao lại
thế này). Bọn nhà giàu qua con mắt của nhà văn như là một con bạch tuộc có nhiều vòi
chuyên đi bóc lột những người dân lao động nghèo khổ. Chúng sống mà không hề có
tình yêu thương đồng loại, thẳng tay bóc lột một cách tàn nhẫn vô nhân đạo “Cơm nhà

giàu khó nu
ốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra
mà giả họ”. (Một đám cưới). Anh Phúc cũng đã phải làm lụng vất vả, bệnh cũng không
dám nghỉ ngơi, hết sức trung thành trong vai trò một người ở, thế nhưng chủ lại chẳng
chút thương tình. Bọn nhà giàu hầu hết đều giống nhau, Nam Cao khẳng định “Gợi lòng
thương của một người chủ tham lam còn khó lắm thay”. (Điếu văn). Cái ranh giới giàu
nghèo là một bức tường kiên cố không thể nào phá vỡ nổi, tạo nên sự bất công của cuộc
đời. Khó có một sức mạnh nào giải quyết được vấn đề này một cách thỏa đáng. Bởi
chẳng có giải pháp nào cho cuộc đời, cho số phận con người nên ông buông xuôi với
một cái nhìn cam chịu trong một cuộc sống khép kín “Ông cũng vậ
y mà tôi cũng vậy, ít
ra chúng ta cũng còn một xó để tự do. Khi cửa nhà chúng ta khép kín, ta có thể lố lăng
mà không bận vì đến ai” (Đôi móng giò).
Trong những truyện ngắn của Nam Cao, hầu hết các câu chuyện rất ít những sự
kiện, biến cố. Những sự kiện biến cố lại thường diễn ra theo cái nhịp điệu đều đều, buồn
tủi, lặp đi lặp lại tạo nên âm đ
iệu của cuộc sống quẩn quanh, bế tắc không lối thoát.
Nhân vật trước những sự kiện không bao giờ có những hành động quyết liệt để đấu
tranh, phản kháng. Dì Hảo trong truyện ngắn cùng tên chỉ biết làm lụng vất vả, không
một lời than, một tiếng oán trách, chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng. Sự nhẫn nại ấy cứ lặp đi
lặp lại nh
ư một điệp khúc buồn thảm trong cuộc đời nhân vật. Khi người chồng phụ bạc
đưa về một người đàn bà trơ tráo thì dì Hảo “ngạc nhiên. Rồi thì dì tức tối. Sau cùng thì
dì nhẫn nại; phải, nhẫn nại là hơn: nếu hắn không về thì cũng thế”. Đến khi tất cả bỏ đi
thì dì Hảo cũng “ngạc nhiên. Rồi thì dì tức tối. Sau cùng thì dì nhẫn nại; phả
i, nhẫn nại
là hơn: nếu hắn không về thì cũng thế”. Nhân vật Nhu trong Ở hiền cũng sống một cuộc
đời buồn thảm, nhàm chán, không hề có ánh sáng niềm vui và cũng nhẫn nhục chịu
đựng giống hệt như dì Hảo “cả đời chỉ biết cúi đầu cúi cổ nai lưng ra làm”. Cuộc đời
của nhân vật cứ như cánh bèo trôi nổi bị dòng đời xua đẩy, cứ khô héo và tàn lụ

i dần. Cứ
như thế nhân vật buông xuôi phó thác cuộc đời cho số phận, một cuộc đời bế tắc, nhẫn
nhục, mỏi mòn.
Qua từng câu truyện của Nam Cao, ta thấy vang lên một giọng điệu buồn
thương da diết. Ông chua chát thốt lên “Chao ôi! Ở trên đời này có cái gì bền vững mãi
đâu (Làm tổ). Từ một hiện tượng khách quan: thời tiết, đời sống… bây giờ đã khác xưa,
Nam Cao
đã đúc rút ra một qui luật của cuộc đời: cuộc đời này quá đỗi mong manh, sức
mạnh hữu hạn của con người chẳng thể nào kéo giữ nỗi sự tuần hoàn, biến đổi của cuộc
đời. Chính vì vậy, Nam Cao đã đưa ra một sự thật chua xót: “Đời bực lắm!” (Lang Rận).
Cuộc đời chỉ đem lại cho con người những trớ trêu không thể nào lường trước
được,
nhất là những con người bần cùng dưới đáy xã hội.
Là hai con người xấu xí, mụ Lợi và Lang Rận dường như đã bị mọi người bỏ
rơi trong khinh rẻ. Mụ Lợi thì “béo trục, béo tròn, mặt mũi như tổ ông bầu, mắt trắng
môi thâm, mà đen như thằng quỷ”, còn Lang Rận thì có gì hơn, ngoại hình anh là một trò
trêu ngươi của tạo hóa “mặt gì mà nặng chình chĩnh như m
ặt người phù, da như da con
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 22
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn, lại gồ lên.
Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề…”. Với một cái nhìn nhân đạo mang đậm tính nhân
văn, Nam Cao đã nhận ra đằng sau những gương mặt xấu xí ấy là một tâm hồn nhạy cảm
và khao khát yêu thương. Hai người gần như bị mọi người ruồng bỏ đã đến với nhau.
Th
ế nhưng sự đời không đơn giản và diễn ra không suôn sẻ như họ mong muốn. Vì một
trò đùa quái ác, bà Cựu và cô Đính đã phá hủy tất cả, họ đã giết chết một mạng người.
Nam Cao đã đưa ra một triết lí rất đúng, ít nhất là trong trường hợp này “Khi hai người
con gái lớn ở với nhau cùng một nhà thì họ thành tinh”. Qua cái chết của Lang Rận,
Nam Cao dường như muốn nh

ắn nhủ với tất cả mọi người: đừng nên vì thỏa mãn thú vui
bản thân mà đùa quá trớn, nó có thể gây tổn thương cho rất nhiều người khác. Và hãy
nên có thái độ trân trọng đối với từng con người ở xung quanh ta.
Trong Lão Hạc, triết lí về Đời về Kiếp con người vang lên bằng một giọng
buồn thương, ngậm ngùi, tiếc nuối: “Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậ
y đấy. Người ta
định ra chẳng bao giờ người ta làm được”. Trong truyện ngắn này, Lão Hạc là một
người cha rất mực thương con và giàu lòng tự trọng, đây là một nhân vật đẹp mang tính
nhân văn cao cả của Nam Cao. Cuộc sống nghèo khổ khốn cùng cứ dai dẳng đeo bám,
bóp chết cả ước mơ, hi vọng của gia đình Lão Hạc. Chỉ có mảnh vườn là tài sản duy
nhất do vợ để lại, Lão Hạ
c không nỡ bán đi vì nếu bán đi rồi, dù đủ tiền cưới vợ, vợ
chồng con trai lão cũng chẳng biết ở đâu. Tất cả dự định, mong muốn của Lão Hạc đổ
vỡ tan tành khi con trai lão phẫn chí ra đi, để lại một mình lão bơ vơ ngồi đếm tháng
ngày trôi.
Có một gia đình sum vầy, con cháu quây quần bên cạnh lúc tuổi già là một ước
muốn tưởng chừng như đơn giả
n với tất cả mọi người, thế nhưng đối với Lão Hạc, đó lại
là một ước mong quá đỗi xa vời. Nỗi đau khổ của Lão Hạc đâu chỉ có thế, vì “Đời người
ta không chỉ khổ một lần”. Câu triết lí hoàn toàn đúng đối với từng nhân vật trong truyện
ngắn Lão Hạc của Nam Cao. Cả vợ chồng ông giáo và Lão Hạc đều có một số phận h
ẩm
hiu, một cuộc đời nghèo khổ. Vì khó khăn, ông giáo phải bán cả áo quần và nhiều thứ
khác, trừ những quyển sách mà ông rất quí vì nó chứa đựng tất cả những ước mơ, hoài
bão, lí tưởng của tuổi trẻ. Nhưng cuối cùng, túng bấn, cùng quẫn trong cuộc sống gia
đình, ông giáo đã bán nốt mấy quyển sách quí.
Ông giáo đã từng có ý nghĩ, sự đau xót của Lão Hạc khi mất con chó vàng
không sao sánh bằng nỗi đau khi ông m
ất những quyển sách quí. Nhưng có đi sâu vào
tác phẩm, thấu hiểu hết Lão Hạc ta mới nhận ra những nỗi đau to lớn mà Lão Hạc phải

chịu đựng. Sau khi con trai bỏ đi vào làm ở đồn điền cao su, lão đã đau đớn khôn nguôi.
Với tinh thần trách nhiệm cao cả của một người làm cha, Lão Hạc như cảm thấy có lỗi
với con trai. Lão sống hết sức dè sẻn, tiết kiệm, mụ
c đích là để lại một ít tài sản cho con
trai cùng với mảnh vườn. Cuộc đời lão quả thật rất đáng thương “Già rồi mà ngày cũng
như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chẳng phải buồn”.
Sống cô đơn, Lão Hạc chỉ biết trò chuyện để giải khuây với ông giáo và bầu
bạn với con chó Vàng mà ông rất mực quí mến, thương yêu. Lão bắt rận, tắm cho nó, lão
ăn cái gì nó cũng có phần “
Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu
tự”. Tìm hiểu kĩ, ta có thể hiểu tại sao lão lại quí con Vàng đến như vậy. Nó chính là
thằng con trai lão, là cháu nội trong tưởng tượng của lão. Con chó Vàng không đơn giản
chỉ là một con vật nuôi trong nhà mà đã trở thành một thành viên trong gia đình. Lão
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 23

×