Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bình luận luận điểm “mặc dầu về bản chất, vàng và bạc không phải là tiền, nhưng tiền, về bản chất thì lại là vàng và bạc” ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.64 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC
-------------------------

BÀI THU HOẠCH
(thay thế Tiểu luận)

Mơn: Q TRÌNH SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Câu hỏi:
Bình luận luận điểm: “Mặc dầu về bản chất, vàng và bạc không phải là
tiền, nhưng tiền, về bản chất thì lại là vàng và bạc”. Ý nghĩa

Học viên

: Phan Nhật Huy

Mã học viên

: MP127060026

Lớp : Kinh tế chính trị - K27

Hà Nội, 10 - 2021

download by :


MỤC LỤC
TRANG

MỞ ĐẦU


NỘI DUNG
I. Bản chất quan hệ Tiền tệ - Vàng bạc
II. Ý nghĩa
KẾT LUẬN

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO

15

download by :

1
2
2
13


MỞ ĐẦU
Trải qua trình lịch sử lâu dài phát triển hình thái tiền tệ cho ta thấy vàng
hình thái cuối có ưu điểm giá trị sử dụng cao (trang sức, mĩ nghệ…), giá trị
(đo lượng LĐXH cần thiết để sản xuất nó, khai thác, tìm kiếm…), đóng vai
trị làm vật ngang giá Vàng có thuộc tính tự nhiên đặc biệt: Thuần nhất, khơng
hư hỏng, dể chia nhỏ, tích nhỏ giá trị lớn. Dựa vào phát triển hình thái tiền tệ
ta thấy xuất đời sống xã hội vàng giống vật dụng quý giá khác mà trải qua
hàng trăm năm vàng khoác lên vai trị lịch sử đứng lên đóng vai trị tiền tệ
giới hàng hóa phân thành cực. Vàng từ vật dụng trở thành hàng hóa q trình
lâu dài. Tiền ra đời theo yêu cầu xã hội. Tiền là sản phẩm tự phát kinh tế hàng
hóa, đóng vai trị làm vật ngang giá, vật trung gian cho tất cả hàng hóa mang

ra trao đổi bao gồm chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện cất giữ, phương tiện thanh tốn, tiền tệ quốc tế. Bản chất vàng
bạc khơng phải là tiền mà chỉ được biểu hiện ra bằng tiền. Tiền mới chính là
thước đo giá trị. Tiền thay thế cho vàng bạc lưu thơng, trao đổi hàng hóa, vì
vậy : “ Mặc dầu về bản chất, vàng và bạc khơng phải là tiền, nhưng tiền, về
bản chất thì lại là vàng và bạc”

1

download by :


NỘI DUNG
I. Bản chất quan hệ Tiền tệ - Vàng bạc
Xem kĩ lại phát triển hình thái Tiền tệ - Vàng hình thái cuối có ưu điểm
giá trị sử dụng cao; Hàm lượng giá trị ( hao phí lao động cần thiết) cao; Bền
vững mặt hóa học. Dựa vào phát triển hình thái Tiền tệ, khi mới xuất hiện
trong đời sống XH, vàng giống vật dụng quý khác, trải qua thời gian dài
( ngàn năm ) vàng khốc vai trị trị lịch sử đứng lên đóng vai trị tiền tệ, gọi
Tiền Thực Chất. Thế giới hàng hóa phân thành 2 cực: bên Tiền Tệ ( vàng) bên
Các Hàng Hóa Cịn Lại để thực hiện 1 số chức năng tiền tệ như: Thước đo giá
trị; Chuyển tải Giá trị vai trò Trung gian trao đổi hàng hóa vàng khơng cần
xuất để tham gia trực tiếp mà ủy thác cho đại diện tờ bạc. Các tờ bạc này gọi
là Tiền danh nghĩa, Dấu hiệu giá trị, Tín tệ … tức mang giá trị quy ước đại
diện cho Số lượng vàng ( tiền thực chất ) nhất định và không hàm chứa Giá trị
( hao phí lao động cần thiết ) đúng như danh nghĩa của nó, đúng như số lượng
vàng mà nó đại diện.
Tóm lại : Vàng từ giới vật dụng bước vào giới hàng hóa, từ từ bước lên
làm thủ lĩnh TG hàng hóa là cả 1 q trình đào thải, chọn lọc lâu dài .Còn
Tiền được ra đời theo yêu cầu đặt trước của vàng và ngay từ khi ra đời đã

nhập vai diễn đóng thế cho Vàng ở 1 số chức năng mà nó có thể đảm nhiệm.
Tiền là sản phẩm tự phát kinh tế hàng hóa, nó đóng vai trị vật ngang giá
chung cho tất hàng hóa mang ra trao đổi tiền bao gồm chức năng:" thước đo
giá trị,phương tiện lưu thông, phương tiện dự trữ giá trị, phương tiện toán,
phương tiện trao đổi quốc tế và tiền thế giới "
Hình thái tương đối đơn giản, hay đơn nhất, của giá trị một hàng hóa
làm cho một hàng hóa khác trở thành vật ngang giá đơn nhất. Hình thái mở
rộng của giá trị tương đối, - biểu hiện giá trị của một hàng hóa bằng tất cả các
hàng hóa khác, - làm cho các hàng hóa này mang hình thái những vật ngang
2

download by :


giá đặc thù khác nhau. Cuối cùng, một loại hàng hóa đặc thù nhận được cái
hình thái vật ngang giá phổ biến, vì tất cả các hàng hóa khác đều lấy nó làm
vật liệu cho hình thái giá trị phổ biến duy nhất của chúng.
Loại hàng hóa đặc biệt mà về mặt xã hội, hình thái tự nhiên của nó dần
dần gắn liền với hình thái vật ngang giá, thì sẽ trở thành hàng hóa – tiền, hay
làm chức năng tiền. Chức năng xã hội đặc biệt của nó, và do đó, độc quyền xã
hội của nó, là đóng vai trò vật ngang giá phổ biến trong thế giới hàng hóa. Cái
địa vị đặc quyền đó trong các hàng hóa đã đóng vai trị những vật ngang giá
đặc thù của vải trong hình thái II, và đã cùng nhau biểu hiện giá trị tương đối
của mình bằng vải trong hình thái III, - cái địa vị đặc quyền ấy trong lịch sử
đã bị một hàng hóa nhất định giành được: đó là vàng.
20- vng vải

=

1 cái áo


=

10 pao chè

=

40 pao cà-phê

=

1 qc-tơ lúa mì

=

1/2 tấn sắt

=

x hàng hóa A

=

2 ơn-xơ vàng

Vàng cũng đóng vai trị giống như vải trong hình thái III: đó là vai trị
vật ngang giá phổ biến. Sự tiến bộ chỉ là ở chỗ, do tập quán của xã hội, cái
hình thái có thể trực tiếp trao đổi được một cách phổ biến, hay hình thái vật
ngang giá phổ biến, bây giờ đã gắn liền hẳn với cái hình thái tự nhiên đặc biệt
của hàng hóa - vàng.

Sở dĩ vàng đối diện với các hàng hóa khác với tư cách là tiền, thì đó
chỉ là vì trước kia nó đã từng đối diện với các hàng hóa đó với tư cách là
hàng hóa. Cũng giống như tất cả các hàng hóa khác, vàng trước kia cũng
làm chức năng vật ngang giá, làm vật ngang giá đơn nhất trong những hành
vi trao đổi đơn nhất và làm vật ngang giá đặc thù bên cạnh những hàng hóa
– vật ngang giá khác. Dần dần vàng bắt đầu làm chức năng vật ngang giá
phổ biến trong những phạm vi ít nhiều rộng lớn hơn. Khi nó đã độc chiếm
được vị trí ấy trong biểu hiện giá trị của thế giới hàng hóa thì nó trở thành
3

download by :


hàng hóa – tiền, và chỉ từ khi vàng trở thành hàng hóa – tiền như thế, nói
một cách khác, hình thái phổ biến của giá trị mới biến thành hình thái tiền.
Biểu hiện giá trị tương đối đơn giản của một hàng hóa, ví dụ như của
vải chẳng hạn, ở trong một hàng hóa đã làm chức năng hàng hóa – tiền, như
vàng chẳng hạn, thì đó là hình thái giá cả. Do đó, “hình thái giá cả” của vải là
như sau:
20 vuông vải = 2 ôn-xơ vàng,
Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt đóng vai trị làm vật ngang giá chung
biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa.
Phân tích giá cả các hàng hóa dẫn đến việc xác định đại lượng của giá
trị, và chỉ có biểu hiện chung bằng tiền của các hàng hóa mới dẫn đến chỗ cố
định được tính chất giá trị của cải hàng hóa. Nhưng chính cái hình thái hồn
chỉnh ấy của thế giới hàng hóa – hình thái tiền – lại che giấu tính chất xã hội
của các lao động tư nhân vào đằng sau lưng các vật, và do đó che giấu cả
những quan hệ xã hội của những người lao động tư nhân, trong lúc lẽ ra
phải bóc trần những quan hệ ấy.
Trong thế giới hàng hóa, các sản phẩm do bàn tay con người làm ra thể

hiện ra thành những thực thể độc lập, có cuộc sống riêng của chúng, có những
mối quan hệ nhất định với con người và giữa chúng với nhau. Mác gọi cái đó
là tính chất bái vật giáo gắn liền với các sản phẩm lao động khi những sản
phẩm này được sản xuất ra với tư cách là hàng hóa, và do đó, tính chất bái vật
giáo ấy không thể tách rời khỏi phương thức sản xuất hàng hóa được.
Để cho vấn đề được giản đơn, Mác giả định rằng vàng là hàng hóa làm
chức năng tiền.
Chức năng thứ nhất của vàng là đem lại cho thế giới hàng hóa một vật
liệu để biểu hiện giá trị, tức là để biểu hiện giá trị của các hàng hóa thành
những đại lượng có cùng một tên gọi, giống nhau về chất và có thể so sánh
với nhau về lượng. Vậy là vàng làm chức năng thước đo giá trị phổ biến, và
trước hết chính do chức năng ấy mà vàng – thứ hàng hóa ngang giá đặc biệt
đó - đã trở thành tiền.
Không phải tiền làm cho các hàng hóa có thể cùng đo chung được. Trái
lại. Chính vì tất cả các hàng hóa, với tư cách là những giá trị, đều là lao động
4

download by :


của con người đã vật hóa, và do đó, tự bản thân chúng đã có thể đo chung
được, - chính vì thế mà tất cả chúng đều có thể đo lường giá trị của chúng
bằng cùng một thứ hàng hóa đặc biệt, và do đó, đã biến hàng hóa đặc biệt ấy
thành một thước đo giá trị chung cho chúng, nghĩa là thành tiền. Với tư cách
là thước đo giá trị, tiền là hình thái thể hiện tất yếu của cái thước đo giá trị nội
tại của các hàng hóa, - thời gian lao động. Giá cả, hay hình thái tiền của các
hàng hóa, cũng như hình thái giá trị của chúng nói chung, là một cái gì khác
với hình thái vật thể hiện thực của các hàng hóa, có thể cảm thấy được bằng
giác quan, do đó, chỉ là một hình thái trên ý niệm, chỉ tồn tại trong quan niệm
mà thơi.

Giá cả, hay hình thái tiền của các hàng hóa, cũng như hình thái giá trị
của chúng nói chung, là một cái gì khác với hình thái vật thể hiện thực của
các hàng hóa, có thể cảm thấy được bằng giác quan, do đó, chỉ là một hình
thái trên ý niệm, chỉ tồn tại trong quan niệm mà thơi. Vì thế, người giữ hàng
hóa phải cho chúng mượn ngơn ngữ của mình, hoặc phải đính những mẫu
giấy có ghi giá lên hàng hóa để báo giá cả của chúng cho thế giới bên ngồi
biết. Vì biểu hiện giá trị bằng vàng của các hàng hóa chỉ là trên ý niệm, cho
nên trong việc này cũng có thể dùng một thứ vàng chỉ được hình dung ở trong
đầu óc người ta thôi, hay là vàng trên ý niệm. Do đó, trong chức năng làm
thước đo giá trị thì tiền chỉ được dùng với tư cách là tiền trong trí tưởng
tượng, hay tiền trên ý niệm mà thơi. Tình hình này đã đẻ ra những học thuyết
điên rồ nhất về tiền.
Với chức năng thước đo giá trị của tiền làm xuất hiện phạm trù giá cả của
hàng hóa. Giá cả của hàng hóa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Là thước đo giá trị và là tiêu chuẩn giá cả, tiền giữ hai chức năng hoàn
toàn khác nhau. Nếu coi là hiện thân xã hội của lao động của con người thì
tiền là thước đo giá trị, nếu coi là một trọng lượng kim loại cố định thì đó là
tiêu chuẩn giá cả. Với tư cách là thước đo giá trị, chúng dùng để chuyển giá
trị của những hàng hóa vơ cùng khác nhau thành những giá cả, thành những
số lượng vàng tưởng tượng, với tư cách là tiêu chuẩn giá cả, chúng lại đo
lường những lượng vàng đó. Nếu coi là những giá trị, thì hàng hóa được đo
5

download by :


bằng thước đo giá trị, trái lại, tiêu chuẩn giá cả thì đo những lượng vàng khác
nhau bằng một số lượng vàng nhất định, chứ không phải đo giá trị của một
lượng vàng nhất định bằng trọng lượng của một lượng vàng khác.
- Mối quan hệ giữa giá trị và giá cả: đại lượng giá trị của một hàng hóa

biểu hiện mối quan hệ tất yếu, vốn có của bản thân q trình tạo ra hàng hóa
đó, với thời gian lao động xã hội. Khi đại lượng của giá trị biến thành giá
cả thì mối quan hệ tất yếu đó thể hiện ra thành mối quan hệ trao đổi giữa
hàng hóa đó với hàng hóa tiền, nằm ở bên ngồi hàng hóa ấy. Do đó, khả năng
có sự khơng nhất trí về lượng giữa giá cả và đại lượng giá trị, hay khả năng có
sự chênh lệch giữa giá cả và đại lượng giá trị, đã nằm ngay trong bản thân
hình thái giá cả rồi. Nhưng hình thái giá cả khơng chỉ bao hàm khả năng có sự
khơng nhất trí về lượng giữa đại lượng giá trị và giá cả, nghĩa là giữa đại
lượng giá trị và biểu hiện bằng tiền của bản thân nó, mà hình thái giá cả cịn
có thể che giấu một mâu thuẫn về chất làm cho giá cả nói chung khơng cịn là
biểu hiện của giá trị nữa mặc dù tiền chỉ là một hình thái giá trị của các hàng
hóa.
Một biến đổi trong giá trị của vàng khơng tác hại gì đến chức năng tiêu
chuẩn giá cả của nó cả. Dù cho giá trị của vàng có biến đổi như thế nào chăng
nữa nhưng giá trị những lượng vàng nhất định bao giờ cũng vẫn giữ nguyên
một tỷ lệ như thế giữa chúng với nhau. Mặt khác, vì khi giá trị của vàng tăng
hay giảm thì trọng lượng của một ơn-xơ vàng vẫn khơng thay đổi, cho nên
trọng lượng những phần nhỏ của một ôn-xơ cũng sẽ không thay đổi; do đó,
nếu coi là tiêu chuẩn cố định của giá cả, thì vàng bao giờ cũng có cùng một
cơng dụng, mặc dù giá trị của nó thay đổi như thế nào chăng nữa. Vì tiêu
chuẩn tiền tệ, một mặt, hồn tồn có tính chất quy ước, và mặt khác, lại
phải được toàn xã hội cơng nhận, cho nên cuối cùng nó phải do pháp luật
quy định. Trước cũng như sau, những trọng lượng kim loại nhất định vẫn là
tiêu chuẩn đo lường của tiền kim loại. Chỉ có cách chia nhỏ và tên gọi các
phần nhỏ đó là thay đổi mà thơi.
Giá cả là tên tiền tệ của số lao động đã vật hóa trong hàng hóa. Do đó,
nói rằng hàng hóa và lượng tiền mà ta gọi là giá cả của hàng hóa ấy, là ngang
6

download by :



giá với nhau, thì đó chỉ là một sự trùng lặp mà thơi, cũng giống như nói rằng,
nói chung, biểu hiện tương đối của giá trị một hàng hóa bao giờ cũng là biểu
hiện của sự ngang giá của hai hàng hóa.
Hình thái giá cả giả định rằng các hàng hóa có thể chuyển nhượng
được để lấy tiền, và giả định cần phải có sự chuyển nhượng đó. Mặt khác,
vàng làm chức năng thước đo giá trị trên ý niệm chỉ là vì trong quá trình
trao đổi, vàng đã lưu thơng với tư cách là một hàng hóa tiền rồi. Như vậy là
đồng tiền kim loại đã nấp sẵn trong cái thước đo giá trị trên ý niệm rồi.
Chức năng:
Phương tiện lưu thơng
* Sự biến đổi hình thái của hàng hóa
Vàng, chỉ với tư cách là một hàng hóa, thì chưa phải là tiền, và trong
giá cả của chúng, các hàng hóa khác coi vàng như là hình ảnh tiền của bản
thân chúng. Quá trình trao đổi làm cho hàng hóa phân đơi thành hàng hóa và
tiền, đẻ ra sự đối lập ở bên ngồi mà hàng hóa dùng để biểu hiện sự đối lập
nội tại của nó giữa giá trị sử dụng và giá trị. Trong sự đối lập đó, với tư cách
là những giá trị sử dụng, hàng hóa đứng đối diện với tiền, coi như là giá trị
trao đổi. Mặt khác, cả hai mặt của sự đối lập ấy lại là hàng hóa, tức là sự
thống nhất của giá trị trao đổi đối với giá trị.
Quá trình trao đổi hàng hóa diễn ra dưới dạng thay đổi hình thái như
sau đây:
Hàng hóa – Tiền – Hàng hóa (H - T - H)
Xét về mặt nội dung vật chất của nó thì sự vận động ấy là H – H, tức là
sự trao đổi hàng hóa lấy hàng hóa là sự trao đổi chất của lao động xã hội,
trong kết quả của nó, bản thân q trình cũng chấm dứt.
H – T. Sự biến đổi hình thái thứ nhất của hàng hóa, hay việc bán. Sự
chuyển hóa của hàng hóa thành tiền đồng thời cũng là sự chuyển hóa của tiền
thành hàng hóa. Sự phân cơng lao động xã hội làm cho lao động của người

chủ hàng hóa có tính chất phiến diện bao nhiêu thì lại càng làm cho nhu cầu
7

download by :


của anh ta có tính đa diện bấy nhiêu. Chính vì thế cho nên đối với anh ta, sản
phẩm của anh ta chỉ dùng làm giá trị trao đổi. Chỉ khi nào sản phẩm ấy được
chuyển thành tiền thì anh ta mới có được một hình thái ngang giá phổ biến
được xã hội thừa nhận. Sự phân công lao động biến sản phẩm lao động thành
hàng hóa và do đó, làm cho việc chuyển hàng hóa thành tiền trở nên tất yếu.
Một người chủ hàng hóa có thể đối diện với một người khác với tư cách là
một người chủ tiền chỉ là vì sản phẩm lao động của anh ta, do bản chất của
nó, đã có được hình thái tiền rồi, nghĩa là nó là vật liệu tiền tệ, vàng, v.v., hoặc
giả là vì chính hàng hóa của anh ta đã thay da đổi thịt, đã trút bỏ cái hình thái
sử dụng lúc ban đầu của nó. Cái q trình duy nhất ấy là một q trình có hai
mặt: đứng về cực của người chủ hàng hóa, thì đó là việc bán; đứng về cực đối
lập của người chủ tiền, thì đó là việc mua. Hay là bán cũng là mua, H - T
đồng thời cũng là T-H.
T - H. Sự biến đổi hình thái thứ hai, hay cuối cùng của hàng hóa, là việc mua.
- Vì tiền là hình thái đã tách ra của tất cả mọi hàng hóa khác, hay là sản phẩm
của việc chuyển nhượng có tính chất phổ biến của các hàng hóa đó, cho nên
tiền là một hàng hóa có thể chuyển nhượng được một cách tuyệt đối. T - H,
tức là mua, đồng thời cũng là bán, hay H - T; do đó, sự biến đổi hình thái cuối
cùng của một hàng hóa đồng thời cũng là sự biến đổi hình thái đầu tiên của
một hàng hóa khác.
Hai sự biến đổi hình thái tạo thành một vịng tuần hồn của một hàng hóa,
đồng thời cũng là những biến đổi hình thái từng phần và ngược chiều của hai
hàng hóa khác. Cũng một hàng hóa ấy (vải) mở màn cho một loạt những sự
biến đổi hình thái của bản thân nó, và đồng thời lại kết thúc một sự biến đổi

hình thái đầy đủ của một hàng hóa khác (lúa mì). Trong thời gian chuyển hóa
lần thứ nhất của nó, trong hành vi bán, một mình hàng hóa đó đóng cả hai vai
trị ấy. Còn sau khi đã biến thành con nhộng vàng-dưới dạng này bản thân nó
cũng trải qua con đường của bất kỳ một cơ thể hàng hóa nào khác - thì đồng
thời nó cũng kết thúc sự biến đổi hình thái thứ nhất của một loạt hàng hóa thứ
ba nào đó. Như vậy là cái vịng tuần hồn do một loạt những sự biến đổi hình
8

download by :


thái của mỗi hàng hóa vạch ra, lại quyện chặt với những vịng tuần hồn của
các hàng hóa khác. Tồn bộ q trình đó là sự lưu thơng hàng hóa.
- Lưu thơng của tiền.
Chính bản chất của lưu thơng hàng hóa đã đẻ ra cái vẻ bên ngồi ngược
lại. Sự biến đổi hình thái đầu tiên của hàng hóa rõ ràng không phải chỉ thể
hiện ra là sự vận động của tiền mà còn là sự vận động của bản thân hàng hóa
nữa; nhưng sự biến đổi hình thái thứ hai thì chỉ thể hiện ra là sự vận động tiền
mà thơi. Trong nửa đầu của lưu thơng, hàng hóa đổi chỗ cho tiền. Hình thái sử
dụng của nó đồng thời cũng bị rơi ra ngồi lĩnh vực lưu thơng và chuyển sang
lĩnh vực tiêu dùng. Hình thái giá trị của nó hay mặt nạ tiền của nó chiếm chỗ
của nó. Nửa thứ hai của lưu thơng thì hàng hóa đi qua khơng phải dưới dạng
tự nhiên của nó nữa, mà là dưới bộ áo bằng vàng của nó. Như vậy, tính chất
liên tục của sự vận động chỉ có về phía tiền thơi; và cũng một sự vận động ấy,
đối với hàng hóa thì bao hàm hai q trình đối lập, - cũng sự vận động ấy với
tư cách là sự vận động của bản thân tiền, bao giờ cũng chỉ bao hàm một q
trình giống nhau, trong đó tiền ln ln đổi chỗ với những hàng hóa khác.
Lưu thông của tiền là sự lắp đi lắp lại thường xun và đơn điệu của
cùng một q trình. Hàng hóa bao giờ cũng ở phía người bán, tiền bao giờ
cũng ở phía người mua với tư cách là phương tiện để mua. Tiền làm chức

năng phương tiện mua khi nó thực hiện giá cả của hàng hóa. Nhưng khi thực
hiện giá cả của hàng hóa thì tiền chuyển hàng hóa từ tay người bán sang tay
người mua, còn bản thân nó thì lại chuyển từ tay người mua sang tay người
bán, để rồi lặp lại cũng một quá trình y như thế với một thứ hàng hóa khác. Sự
vận động của tiền chỉ là biểu hiện của lưu thông hàng hóa, nhưng bên ngồi
thì hình như ngược lại, lưu thơng hàng hóa chỉ là kết quả của sự vận động của
tiền. Tiền có được chức năng phương tiện lưu thơng chỉ vì nó là giá trị đã trở
thành độc lập của hàng hóa. Vì vậy, sự vận động của tiền với tư cách là
phương tiện lưu thông thực ra chỉ là sự vận động của bản thân hình thái hàng
hóa. Do đó, sự vận động này phải phản ánh vào lưu thông của tiền một cách
rõ rệt.
9

download by :


Mặt khác, tiền có được chức năng phương tiện lưu thơng chỉ vì nó là
giá trị đã trở thành độc lập của hàng hóa. Vì vậy, sự vận động của tiền với tư
cách là phương tiện lưu thông thực ra chỉ là sự vận động của bản thân hình
thái hàng hóa. Do đó, sự vận động này phải phản ánh vào lưu thơng của tiền
một cách rõ rệt.
Mỗi hàng hóa, ngay từ bước đầu tiên của nó trong q trình lưu thơng,
ngay từ sự thay đổi hình thái đầu tiên của nó, đều rơi ra khỏi lĩnh vực lưu
thơng, và một hàng hóa mới thường xuyên bước vào lĩnh vực đó thay cho nó.
Trái lại, với tư cách là một phương tiện lưu thơng, thì tiền ln ln ở trong
lĩnh vực lưu thông và luôn luôn chạy đi chạy lại trong đó. Do đó mà nảy sinh
một vấn đề: lĩnh vực lưu thơng này thường xun có thể thu hút được bao
nhiêu tiền.
Với một khoảng thời gian nhất định của q trình lưu thơng thì
Tổng số giá cả hàng hóa = Khối lượng tiền làm chức năng phương tiện lưu

thông.
Số vòng quay của những đồng tiền cùng một tên gọi
Khi giá cả hàng hóa khơng thay đổi thì khối lượng phương tiện lưu
thơng có thể tăng lên, nếu như khối lượng hàng hóa lưu thơng tăng lên hay tốc
độ lưu thơng của tiền giảm xuống, hoặc giả cả hai tình hình cùng tác động.
Ngược lại, khối lượng phương tiện lưu thơng có thể giảm xuống, nếu như
khối lượng hàng hóa giảm xuống hay tốc độ lưu thông tăng lên.
Khi giá cả các hàng hóa tăng lên một cách phổ biến thì khối lượng
phương tiện lưu thơng có thể khơng thay đổi nếu như khối lượng hàng hóa
lưu thơng giảm xuống theo cùng một tỷ lệ với tỷ lệ tăng lên của giá cả các
hàng hóa đó, hoặc giả tốc độ lưu thông của tiền cũng tăng lên nhanh như tỷ lệ
tăng của giá cả, trong khi khối lượng các hàng hóa đang lưu thơng vẫn khơng
thay đổi. Khối lượng các phương tiện lưu thơng có thể giảm xuống, nếu như
khối lượng hàng hóa giảm xuống hay tốc độ lưu thơng tăng lên nhanh hơn giá
cả.

10

download by :


Khi giá cả các hàng hóa giảm xuống một cách phổ biến thì khối lượng các
phương tiện lưu thơng có thể khơng thay đổi nếu như khối lượng các hàng
hóa tăng lên theo cùng một tỷ lệ với tỷ lệ giảm xuống của giá cả những hàng
hóa đó, hay nếu như tốc độ lưu thông của tiền giảm xuống theo cùng một tỷ lệ
với giá cả. Khối lượng các phương tiện lưu thơng có thể tăng lên nếu như
khối lượng các hàng hóa tăng lên, hay nếu như tốc độ lưu thơng giảm xuống
nhanh hơn giá cả các hàng hóa.
- Phương tiện thanh tốn
+ Khi kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định nảy sinh việc

mua bán chịu, tiền có chức năng phương tiện thanh tốn.
Việc sản xuất những hàng hóa khác nhau gắn liền với những thời vụ khác
nhau trong năm. Một hàng hóa này được sản xuất ra ngay tại thị trường một
hàng hóa khác lại phải thực hiện một cuộc hành trình tới một thị trường xa
xơi. Vì vậy, một người chủ hàng hóa có thể làm người bán trước khi một
người khác có thể làm người mua. Mặt khác, việc sử dụng một số loại hàng
hóa nhất định, như việc sử dụng một cái nhà chẳng hạn, được bán trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong những trường hợp như thế thì chỉ sau khi
hết kỳ hạn ấy, người mua mới thực sự nhận được giá trị sử dụng của hàng
hóa. Như thế là anh ta mua hàng hóa trước khi trả tiền. Một người chủ hàng
hóa bán hàng hóa hiện có, cịn một người khác thì chỉ mua hàng với tư cách là
đại diện cho tiền, hoặc là với tư cách là đại diện cho số tiền sẽ có. Người bán
trở thành chủ nợ, người mua thành con nợ. Vì lẽ ở đây, sự biến đổi hình thái
của hàng hóa, hay sự phát triển của hình thái giá trị của nó, đã biến đổi, cho
nên tiền cũng có được một chức năng khác. Nó trở thành phương tiện thanh
tốn.
Một là, tiền làm chức năng thước đo giá trị khi nó xác định giá cả của hàng
hóa được đem bán. Giá cả hàng hóa do hợp đồng quy định là thước đo nghĩa
vụ của người mua, nghĩa là số tiền mà người này phải trả sau một kỳ hạn nhất
định. Hai là, tiền làm chức năng phương tiện mua trên ý niệm. Đến kỳ hạn trả
thì phương tiện thanh tốn mới thực sự đi vào lưu thông, nghĩa là mới từ tay
11

download by :


người mua chuyển sang tay người bán. Phương tiện lưu thơng đã chuyển
thành tiền tích trữ vì q trình lưu thơng bị gián đoạn trong giai đoạn thứ nhất,
hay hình thái chuyển hóa của hàng hóa đã bị rút ra khỏi lưu thơng.
+ Phương tiện thanh tốn gắn với chế độ tín dụng.

Tiền tín dụng trực tiếp phát sinh từ chức năng của tiền với tư cách là phương
tiện thanh toán; hơn nữa bản thân những khế nợ về những hàng hóa đã bán,
lại lưu thơng để chuyển nợ từ người này sang người khác. Mặt khác, tín dụng
càng phát triển thì chức năng phương tiện thanh tốn của tiền cũng càng mở
rộng. Với tư cách là phương tiện thanh tốn, tiền nhận được những hình thái
tồn tại riêng của nó, trong đó nó đã kiếm được cho mình một vị trí trong lĩnh
vực giao dịch bn bán lớn, trong khi đó thì tiền đúc bằng vàng và bằng bạc
lại bị đẩy vào chủ yếu là trong lĩnh vực buôn bán nhỏ. Tiền phát triển thành
phương tiện thanh tốn địi hỏi phải tích lũy số tiền cần thiết cho các kỳ hạn
thanh tốn. Trong khi việc tích trữ tiền với tư cách là một hình thái độc lập
của sự làm giàu, ngày càng biến đi cùng với sự phát triển của xã hội tư sản,
thì ngược lại, nó lại phát triển cùng với xã hội đó dưới hình thái quỹ dự trữ
các phương tiện thanh toán.
- Tiền thế giới
+ Tiền tệ quay lại với hình thức ban đầu của nó là tiền vàng. Trong chức năng
này vàng là phương tiện thanh toán quốc tế.
Khi ra khỏi những giới hạn của lĩnh vực lưu thơng trong nước, thì tiền trút bỏ
những hình thái địa phương mà nó đã khốc lấy ở đó - hình thái tiêu chuẩn
giá cả, tiền đúc, tiền lẻ, ký hiệu giá trị - và trở lại cái hình thái ban đầu của nó
là hình thái những thoi kim loại quý.
Chỉ có trên thị trường thế giới, tiền mới làm đầy đủ chức năng của một thứ
hàng hóa mà hình thái tự nhiên đồng thời cũng là hình thái thực hiện xã hội
trực tiếp của lao động con người in abstracto. Phương thức tồn tại của nó trở
nên thích hợp với khái niệm của nó.

12

download by :



Trong lĩnh vực lưu thơng trong nước, chỉ có một thứ hàng hóa nào đó mới có
thể dùng làm thước đo giá trị và do đó, được dùng làm tiền. Trên thị trường
thế giới thì có hai thước đo giá trị : vàng và bạc.
Tiền thế giới làm chức năng phương tiện thanh toán phổ biến, phương tiện
mua hàng phổ biến và là sự vật chất hóa tuyệt đối có tính chất xã hội của của
cải nói chung (universal wealth).
+ Việc đổi tiền nước này ra tiền nước khác được tiến hành theo tỷ giá hối
đoái.
Trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp và cá nhân gặp phải khó khăn do
mỗi nước sử ndụng một đơn vị tiền tệ khác nhau. Cụ thể là, khi xuất khẩu
hoặc nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, họ phải đổi một loại tiền sang loại tiền
khác. Thêm vào đó, kinh doanh ngoại tệ cũng chứa đựng nhiều rủi ro như
phải mua ngoại tệ với giá cao trong khi giá nội tệ xuống thấp, nhiều đơn vị
tiền tệ khác nhau đã khuyến khích hoạt động đầu cơ tiền tệ và gây khó khăn
cho chính sách tiền tệ, hậu quả là kìm hãm tăng trưởng và khó kiểm sốt lạm
phát. Trong nhiều năm, các chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp thích hợp
nhằm

khắc

phục

những

nhược điểm nêu trên, trong đó giải pháp thành cơng nhất là tập trung vào
vàng.
II. Ý nghĩa:
Thuận lợi của chế độ bản vị vàng là áp dụng một thước đo giá trị chung
cho mọi đồng tiền quốc gia, góp phần ổn định đầu tư và thương mại quốc tế,
giảm nhẹ tình trạng bất ổn về tỉ giá tạo ra những đồ hàng hóa bằng vàng của

con người
Hiện nay khi mà chính phủ của các nước sử dụng đồng tiền như một
công cụ hỗ trợ kinh tế và các mục đích khác, có khi họ định giá đồng tiền
nước họ không đúng với giá trị thực của đồng tiền đó, giả sử như là định giá
thấp đồng tiền quốc nội với mục đích khuyến khích xuất khẩu, ở đây Trung
Quốc là một điển hình, cần có một thước đo chung đánh giá lại giá trị đồng

13

download by :


tiền đó trên thị trường, khơng một loại hàng hóa nào làm tốt điều này hơn
vàng
Vàng là một kênh trú ẩn an toàn cho lạm phát, khủng hoảng và các bất
ổn kinh tế chính trị:
Kinh tế học truyền thống cho rằng vàng là một kênh trú ẩn an toàn cho
lạm phát, khủng hoảng và các bất ổn kinh tế chính trị. Điều này thể hiện qua
một số bằng chứng như:
- Bất chấp những biến động xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử, từ chế
độ bản vị vàng, sang việc thả nổi giá vàng, lực mua dài hạn của giá vàng là ổn
định theo thời gian. Một Ounce vàng năm 1830 có giá 450$ thì đến năm 2010
giá của nó vẫn như vậy (đã loại bỏ các yếu tố lạm phát)
Vàng đảm bảo giá cả trong thanh toán kinh tế. Hình thức thường dùng
của điều kiện đảm bảo bằng vàng là giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng
mua bán được quy định bằng một đồng tiền nào đó và xác định giá trị vàng
của đồng tiền này. Nếu giá trị vàng của đồng tiền đó thay đổi thì giá cả hàng
hố và tổng giá trị hợp đồng mua bán phải được điều chỉnh một cách tương
ứng.


KẾT LUẬN
Như vậy, thơng qua lý luận và phân tích luận điểm: “Mặc dầu về bản
chất, vàng và bạc không phải là tiền, nhưng tiền, về bản chất thì lại là vàng và
bạc”. mang lại cho ta cái nhìn sâu hơn về bản chất, hình thái, chức năng của
vàng – tiền. Từ lịch sử và nguồn gốc đó mà áp dụng liên hệ với thực tiễn hiện
tại thì vàng vẫn là một trong những kim loại được sử dụng rộng rãi nhất nhờ
vai trò quan trọng đối với giới đầu tư và tiêu dùng trên thế giới. Do đó vàng
vẫn có tác động sâu sắc tới giá trị các đồng tiền trên thế giới. Mặc dù bản vị
vàng đã khơng cịn được sử dụng, vàng vẫn là loại hàng hóa đặc biệt có thể

14

download by :


được dùng thay thế cho các đồng tiền khác và được sử dụng như một rào chắn
hiệu quả chống lại tình trạng lạm phát. Khơng nghi ngờ gì khi nói rằng vàng
sẽ tiếp tục đóng một vai trị khơng thể thiếu trên thị trường ngoại hối. Vì vậy,
vàng là một kim loại quan trọng với khả năng đặc biệt làm phong vũ biểu cho
sức khỏe nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Hiện nay, có nhiều hình thức
mua bán vàng mà không cần trao đổi trực tiếp bằng vàng thật mà thông qua
“hợp đồng tương lai”. Điều này sẽ giúp giảm tải chi phí vận tải, thất thốt
vàng nhưng vẫn có tác động ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ trên toàn thế
giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

15

download by :



- Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế, Giáo trình Quá trình sản
xuất TBCN, dành cho hệ cao học.
- C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,
- Tài liệu khác tham khảo trên Internet

-

16

download by :



×