Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

1227 phát triển dịch vụ môi giới chứng khoán tại CTY CP chứng khoán KENANGA VN luận văn thạc sĩ kinh tế (FILE WORD)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.22 KB, 97 trang )


1

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

TRẦN THỊ THÙY HƯƠNG

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MƠI GIỚI CHỨNG KHỐN TẠI CƠNG
TY CỔ PHẦN CHỨNG KHỐN KENANGA VIỆT NAM

Chun ngành : Kinh tế tài chính - Ngân hàng
Mã số
:60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. TÔ KIM NGỌC

Hà Nội - 2011


1

MỞ ĐẦU
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường chứng khốn (TTCK) là một kênh quan trọng thu hút vốn dài
hạn cho các doanh nghiệp. Mặt khác, TTCK cùng với hệ thống ngân hàng sẽ tạo


ra một hệ thống tài chính đủ mạnh, cung cấp các nguồn vốn ngắn, trung và dài
hạn cho nền kinh tế. Hơn thế nữa, trên phương diện chính trị và ngoại giao, việc
xây dựng TTCK cịn có tác động rất lớn đến tiến trình hội nhập của nước ta vào
cộng đồng khu vực và thế giới.
TTCK Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động được hơn 10 năm, đây là một
khoảng thời gian còn rất ngắn nếu so sánh với lịch sử hàng trăm năm của các
nước phát triển khác, hàng vài chục năm của các nước láng giềng. Mặc dù TTCK
của ta sau một thời gian hoạt động đã đạt được những mục tiêu cơ bản ban đầu
nhưng vẫn chưa thực sự là một thị trường phát triển về nhiều mặt như quy mô,
cấu trúc thị trường, khung pháp lý,...Mọi hoạt động đều đang ở những bước đi
đầu tiên, trong giai đoạn hình thành và dần hoàn thiện.
TTCK hoạt động hiệu quả một phần là nhờ vào sự thủ vai tốt của các nhà
môi giới và kinh doanh chứng khốn. Hầu hết các cơng ty chứng khốn (CTCK)
hiện nay đều vừa có hoạt động Mơi giới chứng khốn vừa có hoạt động kinh
doanh chứng khốn. Mơi giới chứng khốn là một trong những hoạt động cơ bản
của CTCK, về bản chất đó là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán cho
khách hàng để hưởng phí hoa hồng. Hoạt động mơi giới có vai trị quan trọng
giúp cho TTCK hoạt động an tồn, ổn định và phát triển.
1.2.

Mục đích nghiên cứu của đề tài

Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động Môi giới chứng khoán đối
với sự phát triển của TTCK Việt Nam. Đồng thời khi nghiên cứu thực tế thấy


2

được hoạt động Mơi giới chứng khốn vẫn cịn tồn tại rất nhiều hạn chế mà trong
đó lợi nhuận của các CTCK thu được từ hoạt động Môi giới chứng khốn cịn

thấp, chưa xứng đáng là nghiệp vụ hàng đầu của các CTCK. Có rất nhiều ngun
nhân để giải thích cho vấn đề này, đó là do: việc các CTCK chưa có một đội ngũ
nhân viên mơi giới chun nghiệp chưa thu hút được khách hàng; hay việc các
CTCK rơi vào cuộc chiến giảm mức phí Mơi giới để cạnh tranh; hay một nguyên
nhân khác nữa là TTCK Việt Nam chưa phát triển, hệ thống văn bản pháp quy
thiếu đồng bộ.. ..Những vấn đề này làm cho nghiệp vụ Môi giới của các CTCK
nói chung và của cơng ty Cổ phần Chứng khốn Kenanga Việt Nam nói riêng
chưa thực sự phát triển. Đây cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài “ Phát triển
dịch vụ Môi giới chứng khốn tại Cơng ty Cổ phần Chứng khốn Kenanga
Việt Nam” để nghiên cứu và tìm hiểu.
1.3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ mơi giới
chứng khốn của CTCK Kenanga Việt Nam cũng như nghiên cứu sự hình thành
và phát triển của TTCK Việt Nam để tìm ra những yếu tố tác động tới hoạt động
của các CTCK, từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát triển hoạt động Mơi giới tại
Cơng ty cổ phần Chứng khốn Kenanga Việt Nam
1.4.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng kết hợp các biện phát duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp so sánh và phương pháp phân tích hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty trên cơ sở các báo cáo tài chính, các định
hướng phát triển của TTCK Việt Nam nói chung và của CTCK Kenanga Việt
Nam (KVS) nói riêng. Đề tài đã đưa ra cơ sở lý luận trên cơ sở lý thuyết và thực
tiễn để rút ra những kết luận và những đề xuất chủ yếu.



3

1.5.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu nội dung chính của luận văn:
- Chương 1: Nội dung cơ bản về phát triển dịch vụ mơi giới chứng khốn
của
cơng ty chứng khốn
- Chương 2: Thực trạng hoạt động Mơi giới của Cơng ty Cổ phần Chứng
khốn Kenanga Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động Môi giới chứng khoán của
CTCK


4

CHƯƠNG 1
NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIEN DỊCH VỤ MƠI GIỚI
CHỨNG KHỐN CỦA CƠNG TY CHỨNG KHỐN
1.1.

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VÀ Sự CẦN THIẾT CỦA

DỊCH
VỤ MƠI GIỚI CHỨNG KHỐN
1.1.1.


Đặc điểm hoạt động của TTCK

1.1.1.1

Khái niệm, chức năng TTCK

a) Khái niệm TTCK.
TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diên ra các giao dịch mua
bán, trao đổi các chứng khốn. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng
khốn thì đó là hoạt động của TTCK.
Chứng khốn được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút tốn ghi sổ, nó
có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu có
quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu
này có sự khác nhau giữa các loại chứng khốn, tuỳ theo tính chất sở hữu của
chúng. Có nhiều cách để phân loại chứng khoán dựa theo các tiêu thức khác
nhau. Nếu dựa theo tính chất của chứng khốn thì hàng hố trên thị trường bao
gồm hai loại chủ yếu là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Với chứng khoán vốn, mà đại diện là cổ phiếu, nó xác nhận sự góp vốn và
quyền sở hữu phần vốn góp đó của cổ đơng đối với tài sản của cơng ty cổ phần.
Cổ đơng có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường


Người đi vay vơn
65
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ

thứ cấp theo quy định của phápTài
luật.

ra, cổ đơng cịn có quyền tham gia
trợNgồi
gián tiếp
quản lý cơng ty thơng qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông,
quyền mua trước đối với cổ phiếu
phát hành mới.
Các trung gian tài chính
-

Ngân hàng

Vốn
Với chứng
khốn nợ, điển hình
là trái
thương
mạiphiếu, là loại chứng khoán
Vốnquy định
- Bảo hiểm, quỹ
nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải
trả cho chủ sở hữu chứng khoán toàn bộ giá

trị cam kết bao gồm cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định.

giá trị

Người cho vay vơn
vốn
1. Hộ gia đình
Với các

tính trên, chứng khốn
2. đặc
Doanh
nghiệp
của nó3.phụ
thuộc
Chính
phủ vào giá trị kinh tế
4. Nước ngoài

được xem là các tài sản tài chính mà
cơ bản của các quyền của chủ sở hữu

đối với tổ chức phát hành.

trường tài chính
Đặc điểm cơ bản nhất củaThị
TTCK
là thị trường tự do, tự do nhất trong các
- Thị trường

loại thị trường. ỞVốn
TTCK không có sự tiền
độctệđốn, can thiệp cưỡng ép về giá. Giá
-

Thị trường

mua bán hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khốn có thể diễn ra ở thị trường

sơ cấp hay ở thị trường thứ cấp, tại Sở giao dịch hay tại thị trường giao dịch qua
quầy, ở thị trường giao ngay hay ở thị trường kì hạn. Các quan hệ mua bán trao
đổi làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khốn, thực chất đây chính là q trình
vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Quá trình vận động của tư bản được thực hiện xuất phát từ chức năng kinh
tế nịng cốt của thị trường tài chính trong việc dẫn vốn từ những người tạm thời
dư thừa vốn sang những người cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được thể hiện qua
sơ đồ H1.1
4. Nước ngoài


Vốn

Tài trợ trực tiếp
Hình 1.1: Các dịng vốn qua hệ thống tài chính
Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con
đường trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể huy động trực tiếp từ
những người tạm dư thừa vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Hoặc con
đường thứ hai để dẫn vốn là thông qua các trung gian tài chính, đây là một bộ
phận đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và
góp phần tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn.
Như vậy, thị trường tài chính có vai trị hết sức quan trọng trong việc tích
tụ, tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Được xem là
đặc trưng cơ bản của thị trường vốn, TTCK là thị trường mà giá cả của chứng


7

khốn (hàng hố trên thị trường) chính là giá cả của vốn đầu tư, vì vậy, TTCK
được coi là hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường.

b) Chức năng vai trò của TTCK
Xu thế hội nhập và quốc tế hố nền kinh tế địi hỏi tự bản thân mỗi quốc
gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Một thị trường tài
chính năng động có khả năng làm tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế hơn bất
cứ một loại tài nguyên nào, mà trong đó TTCK là một định chế tài chính rất quan
trọng. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai
trò quan trọng của TTCK trong phát triển kinh tế:
Thứ nhất, TTCK cùng với sự vận hành của mình đã tạo ra các cơng cụ có
tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của
vốn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố
cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu
quả.
Thứ hai, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý
doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của tồn doanh nghiệp. Với cơ
chế thơng tin hồn hảo đã tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm
tác động của các tiêu cực trong quản lý, đảm bảo phân bổ lợi ích một cách hài
hoà giữa người sở hữu, nhà quản lý và người làm công ăn lương. Đồng thời,
TTCK đã tạo điều kiện thúc đẩy q trình cổ phần hố DNNN.
Thứ ba, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối cơng bằng hơn, thơng
qua việc buộc các tập đồn gia đình trị phát hành chứng khốn ra cơng chúng, từ
đó phân tán quyền lực kinh tế trong tay một số tập đoàn, tránh hiện tượng độc
quyền, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải toả tập trung
quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu


8

quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ có thể huy động được các nguồn
tài chính để phục vụ cho các mục đích của mình mà khơng tạo áp lực về lạm

phát, hơn nữa, hoạt động của TTCK còn giúp tăng thu ngân sách cho Nhà nước,
đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của
Chính phủ.
Thứ năm, việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế hay nói khác đi muốn khẳng định đến tính hiệu quả của quốc tế
hố TTCK. Điều này cho phép các cơng ty có thể huy động được một lượng vốn
đầu tư lớn ở thị trường ngồi nước, bên cạnh đó mở rộng các cơ hội kinh doanh
cho các công ty trong nước, cho phép các cơng ty có thể huy động nguồn vốn
được rẻ hơn.
Thứ sáu, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh
trong tương lai. Việc giá chứng khốn lên xuống có xu hướng đi trước chu kỳ
kinh doanh đã đưa ra một dự báo giúp cho Chính phủ và các cơng ty có kế hoạch
phân bổ các nguồn lực của họ. Như vậy, TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc
nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên, hoạt động của TTCK cũng có những
tác động tiêu cực nhất định. Ta biết rằng, thị trường hoạt động dựa trên cơ sở
thơng tin hồn hảo, tuy nhiên ở hầu hết các thị trường không phải nhà đầu tư nào
cũng có khả năng tiếp cận thơng tin đầy đủ và như nhau, vì vậy việc đưa ra các
quyết định đầu tư khơng hồn tồn dựa trên việc xử lý thơng tin, dẫn tới việc giá
cả chứng khốn khơng phản ánh chính xác giá trị cơng ty và chưa phân bổ một
cách hiệu quả các nguồn lực. Ngoài ra, cịn có một số hiện tượng tiêu cực khác
trên TTCK như hiện tượng đầu cơ, mua bán nội gián, xung đột quyền lực... gây


9

tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư. Thực tế này đặt lên vai các nhà quản lý thị
trường phải có những biện pháp hiệu quả để giảm thiểu đến mức tối đa các tiêu
cực trên thị trường nhằm đảm bảo cho tính hiệu quả của thị trường, đồng thời
bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư.

1.1.1.2

Đặc điểm giao dịch chứng khoán trên TTCK

TTCK là sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường. Thị trường này chỉ
thực sự phát triển khi nền kinh tế thị trường đã phát triển đến một trình độ nhất
định. Trên thị trường này người ta tiến hành mua bán những tài sản tài chính một thứ hàng hóa đặc biệt. Hàng hóa này khơng chỉ đem lại nguồn thu nhập
thường xun cho khách hàng mà cịn có thể tích lũy giá trị. Nó có khả năng
chuyển đổi thành tiền mặt cao. Các loại hàng hóa trên thị trường rất đa dạng,
được sáng tạo để đáp ứng những mục đích của các chủ thể trên thị trường. Một
số loại hàng hóa cơ bản có thể kể đến trên TTCK như:
Cổ phiếu là loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản
hoặc vốn của công ty cổ phần. Công ty phát hành cổ phiếu khi muốn gọi vốn và
chia sẻ rủi ro. Khi bạn mua cổ phiếu tức là bạn đã góp vốn vào công ty, trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Với tư cách đó bạn phải cùng cơng ty chia sẻ rủi
ro cũng như lợi nhuận. Bởi cổ phiếu không ấn định một mức cổ tức trả cố định,
không chắc chắn nguồn lợi thu được cho khách hàng. Khi đầu tư vào cổ phiếu
tức họ muốn kỳ vọng vào hai nguồn lợi tức tiềm năng: khoản lợi vốn nhờ chênh
lệch giá và cổ tức. Nguồn lợi tức này có được phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tì nh
hình hoạt động tài chính của tổ chức phát hành, diễn biến thị trường, tâm lý và
xu hướng của nhà đầu tư, các chính sách xã hội của nhà nước.. .Như vậy TTCK


10

sẽ có sự tác động lớn khi có thơng tin nào đó được tung ra.
Ngược lại với cổ phiếu, trái phiếu là loại hàng hóa quy định nghĩa vụ của
người phát hành phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán một khoản tiền
nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong những khoản thời gian cụ thể. Như vậy,

người sở hữu trái phiếu có quyền địi nợ người phát hành ra nó. Với trái phiếu ta
có thể dự kiến tương đối chính xác dịng thu nhập, nó là cơng cụ tương đối an
tồn so với cổ phiếu. Trái phiếu có thể đem lại cho người đầu tư ba khoản lợi tức
tiềm năng: khoản lãi định kỳ, khoản chênh lệch giá khi bán trái phiếu, lãi của lãi
khi tái đầu tư. Các khoản lợi tức này chịu ảnh hưởng lớn của lãi suất thị trường,
thời hạn trái phiếu, cung cầu thị trường, khả năng thanh toán của nhà phát
hành... Hiện nay, trái phiếu cũng phát triển với nhiều đặc tính mới. Trái phiếu có
kèm theo những điều kiện cho phép một trong những yếu tố cố định của trái
phiếu bị thay đổi. Trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu hay trái phiếu có thể mua
lại trước thời hạn khi nhà phát hành có nhu cầu, trái phiếu có lãi suất thả nổi.
Ngồi ra, TTCK cịn có chứng khốn phái sinh - cơng cụ tài chính có
nguồn gốc từ chứng khốn và có quan hệ chặt chẽ với chứng khốn gốc. Loại
này gồm quyền mua trước, chứng khế, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
quyền chọn,...Mỗi loại mang đặc điểm riêng, rất phong phú và đa dạng, phát
triển theo sự phát triển của TTCK. Công cụ này ra đời để rào chắn rủi ro cho
những tài sản đang nắm giữ, hoặc để tăng tỷ suất lợi nhuận với một lượng vốn bỏ
ra ban đầu rất thấp hoặc thậm chí không phải bỏ vốn ban đầu.
Qua vài nét phác họa trên cũng đã có thể hình dung được phần nào tính
chất phong phú, phức tạp của hàng hóa trên TTCK. Hàng hóa nhiều nên việc lựa
chọn chứng khốn, thời điểm mua, bán, kết hợp chúng thành danh mục để theo
đuổi chiến lược riêng sẽ rất khó khăn, cần bỏ nhiều thời gian, cơng sức, cần c ó


11

hiểu biết nghiệp vụ và kinh nghiệp trên thương trường. Đấy là chưa kể đến việc
sử dụng các thủ tục giao dịch, theo dõi tài khoản, sử dụng tài khoản, lệnh giao
dịch thích hợp cho từng thời điểm, phục vụ cho khách hàng. Để đáp ứng được đủ
yêu cầu đó sẽ có rất ít nhà đầu tư có thể tham gia thị trường. Vì vậy, địi hỏi phải
có hoạt động mơi giới chứng khốn để giúp đỡ nhà đầu tư thuận lợi khi tham gia

giao dịch, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc, nâng cao hiệu quả đầu tư;
góp phần hồn thiện và phát triển thị trường.
Bên cạnh đó, đầu tư chứng khốn với hai đặc trưng cơ bản: Một là, giá trị
vốn đầu tư nhỏ và không hạn chế có thể chỉ một vài trăm ngàn, một vài triệu
đồng và cũng có thể hàng tỷ, thậm chí hàng chục tỷ. Hai là, đầu tư chứng khốn
có tính thanh khoản cao và thực hiện đầu tư rất đơn giản. Do đó, số người tham
gia TTCK rất đơng, mỗi thị trường có hàng triệu người, hàng chục triệu người
tham gia. Với con số hàng chục triệu người tham gia như vậy, trong đó sự hiểu
biết về thị trường là rất khách nhau, có những người là những chuyên gia, ngược
lại cũng có rất nhiều người sự hiểu biết tối thiểu để lựa chọn chứng khoán và
thời cơ đầu tư cũng khơng có. Giao dịch trên TTCK phải thơng qua môi giới
trung gian là nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa mọi người, đảm bảo
lợi thế ngang bằng trong giao dịch.
Mặt khác, TTCK là thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường. Một trong
những đặc trưng cơ bản là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên
tắc này, các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải thực hiện qua các CTCK, qua
môi giới chứng khốn.
Đó chính là tiền đề và điều kiện để hoạt động mơi giới chứng khốn ra
đời. Với những lợi thế về nghiệp vụ chuyên môn, về cách thức tiếp cận các
nguồn thông tin... người môi giới hoặc công ty môi giới có thể cung cấp cho các


12

nhà đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên và
giúp cho người đầu tư thực hiện các giao dịch của mình theo cách có lợi nhất.
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên thế giới đã cho thấy thời
tiền sử của TTCK, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau, ở dạng
sơ khai, họat động tự do. Nhưng khi TTCK ngày càng đóng vai trị quan trọng, là
kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế thì thị trường càng

cần phải được tổ chức một cách khoa học, trật tự. Muốn vậy, cần tập trung các
lệnh giao dịch vào các đầu mối lớn là công ty môi giới, CTCK với hoạt động
môi giới.
1.1.2.

Bản chất và sự cần thiết của hoạt động môi giới chứng khốn

1.1.2.1

Bản chất, các loại dịch vụ mơi giới chứng khốn

a) Bản chất hoạt động mơi giới chứng khốn
Hoạt động mơi giới của cơng ty chứng khốn được hiểu là” họat động
trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khốn cho khách hàng để hưởng phí
hoặc hoa hồng”.
Thơng qua hoạt động mơi giới, cơng ty chứng khốn sẽ chuyển đến khách
hàng của mình các sản phẩm, dịch vụ tư vấn và kết nối giữa nhà đầu tư bán
chứng
khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Trong nhiều trường hợp, hoạt
động môi giới sẽ trở thành những người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng
thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có
những quyết định tỉnh táo. Và đơi khi nhân viên mơi giới cịn là những người
bạn của khách hàng khơng chỉ trong đầu tư chứng khốn mà cịn trong các lĩnh
vực khác nữa.
Hoạt động mơi giới chứng khoán cũng hàm nghĩa nhiều nghiệp vụ khác


13

nhau. Môi giới thông thường là hoạt động mà nhân viên môi giới sẽ thực hiện

lệnh cho khách hàng và chỉ nhận phần phí hay hoa hồng được hưởng.
Nhân viên mơi giới cịn có hoạt động tạo lập thị trường. Đó là việc thực
hiện hỗ trợ việc duy trì một thị trường ổn định đối với mỗi loại chứng khoán nhất
định. Cụ thể như đối với một loại cổ phiếu khi có độ chênh lệch lớn giữa giá
mua và giá bán. Người mua thì muốn mua chứng khốn với giá thấp hơn nhiều
so với giá mà những người bán chấp nhận. Khi đó nhân viên mơi giới sẽ chào
bán hoặc mua chứng khốn này cho chính bản thân mình với giá ở giữa các mức
giá trên. Bằng cách đó, nhân viên môi giới đã thu hẹp chênh lệch giữa giá mua
và giá bán. Hoạt động lúc này của nhân viên môi giới là với tư cách của nhà giao
dịch.
Ở Việt Nam hoạt động mơi giới chứng khốn tại cơng ty chứng khốn là
một hoạt động khép kín bao gồm các hoạt động sau: tiếp thị, tư vấn đầu tư chứng
khoán, giao dịch chứng khoán, lưu ký chứng khoán, các dịch vụ hỗ trợ và chính
sách khách hàng.
Theo thơng lệ và trong các quy định chung trên thế giới thì hoạt động tư
vấn đầu tư và môi giới là hai họat động kinh doanh tách biệt nhau của cơng ty
chứng khốn. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, trong hoạt động mơi giới ln có
hoạt động tư vấn. Người đầu tư trông đợi người môi giới thực hiện ba công việc
sau đây: 1) cho họ biết lúc nào thì mua; 2) cho họ biết lúc nào thì bán; 3) cho họ
biết những gì đang diễn biến trên thị trường. Nhà đầu tư khi tìm đến các cơng ty
chứng khốn nói chung hay các cơng ty mơi giới nói riêng ln muốn nhận được
từ nhân viên môi giới những lời khuyên, lời tư vấn về mọi vấn đề liên quan đến
hoạt động mua bán đầu tư của họ. Có những nhà đầu tư khi tìm đến với nhân
viên mơi giới chưa hề biết một chút gì về chứng khốn hay họ cũng chưa tạo nên
mục tiêu đầu tư cụ thể nào. Họ tìm đến là mong muốn được tư vấn, giúp đỡ trong


14

việc đưa ra quyết định. Nhân viên môi giới lại là những người đại diện của công

ty để gặp gỡ, trao đổi với khách hàng. Có trường hợp nhà đầu tư coi nhân v iên
môi giới như là người đại diện, giống như người chăm sóc riêng về tiền bạc cũng
giống như luật sư hay bác sĩ chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho họ. Do đó, mơi giới
và tư vấn luôn đi liền với nhau. Hoạt động môi giới không thể tách rời với hoạt
động tư vấn.
Nhưng môi giới trong tư vấn và tư vấn tài chính, đầu tư vẫn có những
điểm khác biệt. Thứ nhất là về phí. Phí tư vấn trong hoạt động mơi giới thường
là dịch vụ đi kèm theo chức năng cơ bản của nó. Các cơng ty chứng khốn
thường khơng thu phí này. Cịn trong họat động tư vấn đầu tư tài chính, các cơng
ty thường thu phí theo hợp đồng đã ký với khách hàng. Thứ hai là trách nhiệm
mà nhân viên môi giới và nhân viên tư vấn phải chịu cũng có sự khác biệt. Nhân
viên môi giới chỉ chịu trách nhiệm về mặt uy tín. Lời khuyên, lời tư vấn dành
cho khách nhưng khách hàng vẫn là người tự quyết định, họ không chịu trách
nhiệm về hậu quả của nguồn thông tin tư vấn đó; khơng hề theo ngun tắc hay
quy định nào. Còn đối với hoạt động tư vấn đầu tư tài chính có sự quy định cụ
thể rõ ràng trách nhiệm giữa các bên tham gia
b) Các loại dịch vụ mơi giới chứng khốn
Người mơi giới trên thị trường chứng khốn có hai loại: Nhung người
trung gian mơi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng,
họ là nhân viên của một cơng ty chứng khốn và một loại là nhà môi giới hoạt
động độc lập khơng thuộc một cơng ty chứng khốn nào. Sau đây chúng ta sẽ
nghiên cứu hai loại môi giới này:
Thứ nhất là môi giới thừa hành hay môi giới giao dịch : Đó là thành viên


15

của một cơng ty chứng khốn thành viên của một sở giao dịch. Họ làm việc và
hưởng lương của CTCK và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các
lệnh mua bán cho các CTCK hay khách hàng của Công ty trên sàn giao dịch. Các

lệnh mua bán được chuyển đến cho các nhà môi giới thừa hành và có thể là từ
văn phịng Cơng ty hay cũng có thể từ các mơi giới đại diện .
Thứ hai là môi giới độc lập hay “môi giới hai đơ la"” : Chính là các nhà
mơi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng (thù lao) theo dịch vụ. Họ là
thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở giao dịch (sàn giao dịch) giống như các
CTCK thành viên khác của SGDCK. Sở dĩ có điều này là vì tại các sơ giao dịch
nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của một CTCK gửi tới
nhiều lúc quá tải mà các nhân viên môi giới của Cơng ty này khơng thể làm xuể,
hoặc vì lý do nào đó vắng mặt. Lúc đó CTCK sẽ “hợp đồng” với các nhà môi
giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và trả cho loại môi giới
này một khoản tiền nhất định. Khởi thuỷ, các nhà môi giới độc lập được trả cứ
hai đô la cho một lơ trịn chứng khốn (100 cổ phiếu) nên người ta gọi quen
thành “môi giới hai đô la”.
Một cơng ty chứng khốn có thể hoạt động trong một hay nhiều lĩnh vực
nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, tự
doanh và mơi giới chứng khốn. Nhưng có thể nói tất cả các cơng ty chứng
khốn hoạt động thì khơng có một cơng ty nào là khơng có hoạt động mơi giới
chứng khốn. Có thể kể đến một số loại hình cơng ty chứng khốn với hoạt động
mơi giới nổi bật sau:
C Công ty môi giới giảm giá
Hoạt động của loại công ty này chủ yếu là giúp khách hàng thực hiện các
lệnh mua, bán chứng khốn. Cơng ty mơi giới giảm giá thích hợp cho các nhà


16

đầu tư tự mình đưa ra quyết định mua bán. Những nhà đầu tư này chỉ muốn thực
hiện các giao dịch trên tất cả hay một phần đầu tư của họ với mức giá tốt nhất có
thể, cùng với khoản hoa hồng chỉ phản ánh chi phí của dịch vụ đó mà thơi. Chi
phí của cơng ty này cũng thấp hơn rất nhiều cơng ty chứng khốn cung cấp dịch

vụ đầy đủ. Tuy nhiên, mức giá rẻ hơn cũng cho thấy được một số vấn đề. Nếu
nhà đầu tư có một lỗi nào đó trên tài khoản tại một cơng ty mơi giới giảm giá sẽ
khơng có một người mơi giới cá nhân nào có thể tới để sửa chữa sai lầm cho ông
ta. Quan trọng hơn là người môi giới sẽ không cung cấp một lời khuyên nào cho
nhà đầu tư.
Công ty môi giới giảm giá được sử dụng cho ba đối tượng chính sau:
- Các nhà đầu tư dài hạn tiến hành nghiên cứu thị trường
- Các nhà kinh doanh ngắn hạn theo trường phái kỹ thuật. Họ thường tự
mình vẽ các đồ thị cho các cổ phiếu và tiến hành giao dịch trên cơ sở ngắn
hạn.
- Những nhà đầu tư chỉ giao dịch một lần
S Công ty môi giới dịch vụ đầy đủ
Ngay theo tên gọi, loại cơng ty này cung cấp một dải dịch vụ hồn hảo, từ
việc đưa ra những kết quả nghiên cứu, phân tích, cho lời khuyên, đến việc theo
dõi tài khoản và kịp thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết cho khách hàng. Vì
thế, loại cơng ty này như một siêu thị tài chính. Người mơi giới đầy đủ sẵn sàng
trả

lời

mọi câu hỏi của khách hàng và giúp khách hàng giải quyết các vấn đề phát sinh.
Công ty môi giới dịch vụ đầy đủ ra đời và phát triển tại thị trường chứng
khốn lâu đời; nó đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Công ty cung ứng dịch
vụ đa dạng và thay đổi tùy theo sự phát triển của thị trường.
Người đầu tư sử dụng người môi giới dịch vụ đầy đủ là:


17

chuyên nghiệp hướng dẫn những quyết định mua bán của họ.

- Những người đánh giá cao sự quan tâm cá nhân của một người môi
giới dịch vụ đầy đủ, muốn có một người mơi giới ln để mắt tới tài khoản của
mình, gọi điện tới khi cần thiết và quan tâm đến những vấn đề của họ.
1.1.2.2

Sự cần thiết của dịch vụ mơi giới chứng khốn
Mơi giới chứng khốn khơng chỉ là kết quả của quá trình phát triển của

nền kinh tế thị trường mà đồng thời nó cịn có vai trò ngược lại là thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Cụ thể hoạt động
mơi giới có vai trị:
- Giảm chi phí giao dịch:
Cũng như trên tất cả các thị trường khác, người mua và người bán muốn
giao dịch cần phải có cơ hội để gặp gỡ được nhau, thẩm định mức độ phát triển
hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, đối với TTCK mà thẩm định được giá
cả và mức độ phát triển hàng hóa cần khoản chi phí khổng lồ để thu thập và xử
lý thơng tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một
hệ thống thị trường đấu giá tập trung. Những chi phí này chỉ có các CTCK hoạt
động chun nghiệp trên quy mơ lớn mới có khả năng trang trải được. Mặt khác,
là một trung gian tài chính làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau sẽ làm
giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp
đồng. Hoạt động mơi giới đã tiết kiệm chi phí giao dịch xét trong từng giao dịch
cụ thể cũng như trên tồn thị trường, từ đó nâng cao tính thanh khoản của thị
trường.
- Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường
CTCK khi thực hiện vai trò làm trung gian giữa người bán và người mua có
thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng
hóa và dịch vụ. Hoạt động mơi giới chính là một trong những nguồn cung cấp



18

những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết
quả của quá trình đó là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm và dịch vụ, nhờ
đó đa dạng hóa được cơ cấu khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều nguồn
nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng.
Sản phẩm mà hoạt động môi giới cung cấp không chỉ những hàng hóa đơn
lẻ như cổ phiếu, trái phiếu, hay bất kỳ một cơng cụ tài chính nào khác, mà cịn
trong cả những ý tưởng về danh mục đầu tư, về sự phối hợp các sản phẩm nhằm
vào những lợi ích nhất định... Cũng nhờ vào hoạt động tiếp thị tới khách hàng và
mang đến cho khách hàng những gì họ cần, các CTCK đã làm đa dạng sản phẩm
và dịch vụ của thị trường.
- Góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư:
Hoạt động mơi giới khi đã thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh
nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên cái
gọi là nền văn hóa đầu tư. Người môi giới tiếp cận tới khách hàng tiềm năng, họ
mang theo những sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng,
thường xuyên quan tâm chăm sóc khách hàng theo cách có lợi nhất cho khách
hàng. Hoạt động này lâu dần hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài
chính. Thay vì sử dụng tiền dư thừa một cách lãng phí, người có tiền sẽ ưu tiên
đầu tư vào tài sản tài chính. Theo thời gian, người đầu tư sẽ dần dần hình thành
được sự tin cậy và ủy thác cho người môi giới chứng khốn. Người đầu tư ý thức
được những lợi ích mà dịch vụ này mang lại và lựa chọn việc trả tiền để được
hưởng những lợi ích đó; hình thành nên thói quen và kỹ năng sử dụng các
dịch vụ đầu tư tài chính mà phổ biến là dịch vụ mơi giới chứng khốn.
Cũng chính hoạt động của các CTCK và người mơi giới chứng khốn là
một yếu tố góp phần hồn thiện mơi trường pháp lý cho kinh doanh chứng


19


khốn. Hoạt động mơi giới sẽ đưa pháp luật đến với người đầu tư, giúp cho họ
ln có ý thức tìm hiểu và tuân thủ pháp luật trong quá trình theo đuổi lợi ích của
mình; đồng thời cũng phản ánh những bất cập trong điều chỉnh của khuôn khổ
pháp lý tới các nhà làm luật để kịp thời chỉnh sửa.
- Tăng mức độ phát triển và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh
Để thành công trong hoạt động môi giới thì điều quan trọng là cần thu hút
được nhiều khách hàng tìm đến, giữ chân được khách hàng đã có, ngày càng gia
tăng được khối lượng tài sản mà khách hàng ủy thác cho họ quản lý. Điều đó đã
khiến cho người môi giới luôn trau dồi đạo đức nghề nghiệp, nâng cao đạo đức
và kỹ năng hành nghề,... để tạo sự khác biệt, nâng cao mức độ phát triển và hiệu
quả của hoạt động mơi giới chứng khốn.
- Hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và làm
phong phú thêm cho môi trường đầu tư
Với phương thức hoạt động là chủ động tìm đến khách hàng, đặc biệt là những
khách hàng cá nhân, và đem đến cho họ những dịch vụ tài chính tốt nhất, nên
CTCK nào cũng có những lực lượng nhân viên môi giới đông hơn hẳn so với các
hoạt động nghiệp vụ khác. Có thể nói, phát triển hoạt động mơi giới chứng
khốn là tạo ra được một lĩnh vực thu hút nhiều lao động có kỹ năng, làm phong
phú thêm mơi trường kinh doanh.
1.2.

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MƠI GIỚI CỦA CƠNG TY CHỨNG

KHỐN
1.2.1

Nội dung dịch vụ mơi giới của CTCK

Hoạt động môi giới của CTCK được hiểu là hoạt động trung gian hoặc đại

diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí hoặc hoa hồng”.


20

Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng của
mình các sản phẩm, dịch vụ tư vấn và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán
với nhà đầu tư mua chứng khoán. Trong nhiều trường hợp, hoạt động môi giới sẽ
trở thành những người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra
những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết
định tỉnh táo. Và đơi khi nhân viên mơi giới cịn là những người bạn của khách
hàng khơng chỉ trong đầu tư chứng khốn mà cịn trong các lĩnh vực khác nữa.
Hoạt động mơi giới chứng khốn cũng hàm nghĩa nhiều nghiệp vụ khác
nhau. Mơi giới thông thường là hoạt động mà nhân viên môi giới sẽ thực hiện
lệnh cho khách hàng và chỉ nhận phần phí hay hoa hồng được hưởng.
Nhân viên mơi giới cịn có hoạt động tạo lập thị trường. Đó là việc thực
hiện hỗ trợ việc duy trì một thị trường ổn định đối với mỗi loại chứng khoán nhất
định. Cụ thể như đối với một loại cổ phiếu khi có độ chênh lệch lớn giữa giá
mua và giá bán. Người mua thì muốn mua chứng khốn với giá thấp hơn nhiều
so với giá mà những người bán chấp nhận. Khi đó nhân viên mơi giới sẽ chào
bán hoặc mua chứng khốn này cho chính bản thân mình với giá ở giữa các mức
giá trên. Bằng cách đó, nhân viên mơi giới đã thu hẹp chênh lệch giữa giá mua
và giá bán. Hoạt động lúc này của nhân viên môi giới là với tư cách của nhà giao
dịch.
Ở Việt Nam hoạt động mơi giới chứng khốn tại CTCK là một hoạt động
khép kín bao gồm các hoạt động sau: tiếp thị, tư vấn đầu tư chứng khoán, giao
dịch chứng khoán, lưu ký chứng khốn, các dịch vụ hỗ trợ và chính sách khách
hàng.
Theo thông lệ và trong các quy định chung trên thế giới thì hoạt động tư
vấn đầu tư và môi giới là hai họat động kinh doanh tách biệt nhau của CTCK.

Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, trong hoạt động mơi giới ln có hoạt động tư


21

cho họ biết lúc nào thì mua; 2) cho họ biết lúc nào thì bán; 3) cho họ biết những
gì đang diễn biến trên thị trường. Nhà đầu tư khi tìm đến các CTCK nói chung
hay các theo chức năng cơ bản của nó. Các CTCK thường khơng thu phí này.
Cịn trong họat động tư vấn đầu tư tài chính, các cơng ty thường thu phí theo hợp
đồng đã ký với khách hàng. Thứ hai là trách nhiệm mà nhân viên môi giới và
nhân viên tư vấn phải chịu cũng có sự khác biệt. Nhân viên mơi giới chỉ chịu
trách nhiệm về mặt uy tín. Lời khuyên, lời tư vấn dành cho khách nhưng khách
hàng vẫn là người tự quyết định, họ không chịu trách nhiệm về hậu quả của
nguồn thơng tin tư vấn đó; khơng hề theo ngun tắc hay quy định nào. Còn đối
với hoạt động tư vấn đầu tư tài chính có sự quy định cụ thể rõ ràng trách
nhiệm giữa các bên tham gia.
1.2.2

Quan điểm về phát triển dịch vụ mơi giới chứng khốn của

CTCK
Hoạt động mơi giới chứng khốn đã ra đời từ rất sớm, song song với sự
ra đời của TTCK. Ở mỗi thị trường, hoạt động mơi giới chứng khốn phát triển
với một mức độ nhất định. Hoạt động này ra đời và phát triển xuất phát từ đòi
hỏi khách quan của thị trường, và nó có vai trị quan trọng đối với sự phát triển
của thị trường. Vì vậy có thể hiểu mức độ phát triển hoạt động mơi giới chứng
khốn thể hiện ở những lợi ích mà nó mang lại cho các chủ thể tham gia thị
trường chứng khốn nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Xét về giác độ của một cơng ty chứng khốn
Hoạt động mơi giới chứng khoán đạt mức độ phát triển tốt khi:

- Làm tăng vị thế và uy tín của cơng ty đồng thời mở rộng quan hệ với khách
hàng trong và ngoài nước.


22

Muốn đạt được điều đó, CTCK phải cung cấp các dịch vụ môi giới nhằm
thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, có sức cạnh tranh song vẫn
đảm bảo tính an tồn và sinh lợi đồng thời vẫn tuân thủ đúng pháp luật và các
quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Xét về giác độ khách hàng
Hoạt động mơi giới được đánh giá là có mức độ phát triển cao khi:
- Thông qua các dịch vụ mơi giới mà khách hàng có được cơ hội đầu tư,
kiếm
thêm được nhiều lợi nhuận.
- Mức phí mơi giới thấp.
- Thủ tục gọn nhẹ, nhập lệnh nhanh và chính xác.
- Được hưởng một số lợi ích đi kèm như: được vay tiền để đầu tư có đảm
bảo
bằng chứng khốn...
Xét về giác độ nhân viên môi giới
- Nhân viên môi giới được nhận thù lao một cách thoả đáng và được hưởng
những chế độ đãi ngộ thích hợp.
- Nhân viên mơi giới được đánh giá là có kinh nghiệm, có kiến thức, có đạo
đức nghề nghiệp, nhiệt tình và làm việc vì lợi ích của khách hàng.
Tóm lại: Hoạt động mơi giới có mức độ phát triển khi nó đem lại mức lợi
nhuận lớn và uy tín cho CTCK, đem lại cơ hội kinh doanh, thu lợi và đảm bảo an
tồn về tài chính cho khách hàng, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và hội
nhập quốc tế. Điều này cho thấy mức độ phát triển hoạt động mơi giới được tổng
hồ từ rất nhiều yếu tố. Vì vậy nó là một chỉ tiêu cần phải được đánh giá trên

nhiều giác độ.cơng ty mơi giới nói riêng ln muốn nhận được từ nhân viên môi
giới những lời khuyên, lời tư vấn về mọi vấn đề liên quan đến hoạt động mua


23

hề biết một chút gì về chứng khốn hay họ cũng chưa tạo nên mục tiêu đầu tư cụ
thể nào. Họ tìm đến là mong muốn được tư vấn, giúp đỡ trong việc đưa ra quyết
định. Nhân viên môi giới lại là những người đại diện của công ty để gặp gỡ, trao
đổi với khách hàng. Có trường hợp nhà đầu tư coi nhân viên môi giới như là
người đại diện, giống như người chăm sóc riêng về tiền bạc cũng giống như luật
sư hay bác sĩ chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho họ. Do đó, mơi giới và tư vấn luôn
đi liền với nhau. Hoạt động môi giới không thể tách rời với hoạt động tư vấn.
Nhưng môi giới trong tư vấn và tư vấn tài chính, đầu tư vẫn có những
điểm khác biệt. Thứ nhất là về phí. Phí tư vấn trong hoạt động mơi giới thường
là dịch vụ đi kèm
1.2.3

Chỉ tiêu đo lường mức độ phát triển dịch vụ môi giới của CTCK

Đối với CTCK việc đánh giá mức độ phát triển hoạt động môi giới chính
là để nhằm phát triển nó. Vì vậy cơng ty khơng thể chỉ đánh giá những lợi ích
hiện tại mà hoạt động mơi giới đem lại mà cịn đánh giá tiềm năng phát triển của
nó trong tương lai. Điều đó có nghĩa là cơng ty phải quan tâm đến khả năng làm
thoả mãn lợi ích cho khách hàng của hoạt động này cũng như vai trị của nó đối
với nền kinh tế. Do đó hệ thống các chỉ tiêu được đánh giá mức độ phát triển
hoạt động môi giới bao gồm khơng những các chỉ tiêu xét trên lợi ích mà công ty
đạt được từ hoạt động môi giới mà cịn bao gồm cả những chỉ tiêu phản ánh lợi
ích mà hoạt động mơi giới chứng khốn đã đem lại cho khách hàng và cho nền
kinh tế.

Thực tế hiện nay, tại Việt Nam chưa có một hệ thống các chỉ tiêu thống
nhất nào phản ánh hồn tồn chính xác mức độ phát triển hoạt động mơi giới
chứng khốn. Tuy nhiên theo em mức độ phát triển hoạt động môi giới chứng
khốn có thể được đánh giá bằng cách xem xét một số chỉ tiêu sau:


×