Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tình hình thực hiện bhxh trong các dnnqd ở nước ta – thực trạng và một số giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.19 KB, 27 trang )

Đề án môn học -
Lời nói đầu
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và nhà nớc ta,
thể hiện tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của Đảng và
nhà nớc đối với ngời lao động đang làm việc cũng nh những ngời đã góp công
sức cho sự nghiệp xây dựng đất nớc nay đợc nghỉ việc hởng chế độ BHXH. Với
chủ chơng Thực hiện các chính sách xã hội nhằm tạo sự an toàn trong cuộc
sống cho mọi thành viên của cộng đồng bao gồm BHXH cho mọi ngời thuộc các
thành phần kinh tế, trên cơ sở đó các chính sách xã hội nói chung, chính sách
xã hội nói riêng đã từng bớc đợc cải tiến và phát triển đúng hớng. Điều đó đợc
thể hiện rõ tại chơng XIII Bộ luật lao động và điều lệ BHXH ban hành kèm theo
Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ. Theo đó, chính sách bảo hiểm
xã hội không chỉ thực hiện cho ngời lao động trong khối hành chính sự nghiệp,
Đảng, đoàn thể mà còn mở rộng đến lao động trong các thành phần kinh tế khác,
trớc mắt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD).
Cùng với các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh là một trong những nhân tố bảo đảm sự ổn định và bền vững
của nền kinh tế, góp phần huy động các nguồn lực xã hội, phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống, Đặc biệt sự phát triển
nhanh chóng về số lợng của các DNNQD đã và đang tạo ra nhiều cơ hội việc làm
cho ngời lao động, số lợng lao động làm việc trong các DNNQD ngày càng gia
tăng góp phần tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lao động khá đông đảo.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay đang còn tồn tại ở các DNNQD là phần lớn chủ
sử dụng lao động chỉ chăm lo đến lợi ích kinh tế của mình, ít quan tâm đếnlợi ích
của ngời lao động. Tỷ lệ các DNNQD tham gia BHXH cho ngời lao động còn
thấp, nhiều doanh nghiệp còn chốn tránh không thực hiện nghĩa vụ này khiến
quyền lợi của nhiều ngời lao động trong khu vực này không đợc đảm bảo. Vấn
đề đặt ra là tại sao các DNNQD lại cha ý thức trong việc tham gia BHXH cho ng-
ời lao động và làm thế nào để khuyến khích các chủ DNNQD chủ động tham gia
BHXH, từ đó đảm bảo cuộc sống của ngời lao động trong khu vực này đợc chăm
lo đầy đủ vào những lúc ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hu


trí hoặc từ trần, góp phần tạo sự ổn định và an sinh xã hội.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề này, đồng thời cũng nhận thấy những
khó khăn, vớng mắc trong quá trình thực hiện. Vận dụng những kiến thức đã học
cộng với sự giúp đỡ của thầy giáo hớng dẫn Tiến sĩ Nguyễn Văn Định tôi đã
1
Đề án môn học -
mạnh dạn chọn đề tài Tình hình thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nớc
ta Thực trạng và một số giải pháp.
Kết cấu của đề án ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có ba phần chính:
Phần I: Lý luận chung về BHXH
Phần II: Tình hình thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nớc ta
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện BHXH
ở các DNNQD
Đây là một đề tài còn mới mẻ và rất phức tạp, do đó dù đã có rất nhiều nỗ
lực và cố gắng nhng chắc chắn đề án này không tránh khỏi những thiêú sót. Rất
mong nhận đợc ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè.
Phần I
Lý luận chung về bảo hiểm xã hội
I/ Những nội dung cơ bản về BHXH
1/ Bản chất của BHXH
1.1/ Khái niệm BHXH
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, việc thuê mớn nhân công trở
nên phổ biến, Tuy nhiên, chính từ đây xuất hiện mâu thuẫn giữa giới chủ và giới
thợ. Mâu thuẫn này ngày càng gia tăng, thể hiện:
- Thứ nhất, giới thợ luôn đấu tranh đòi tăng lơng, giảm giờ làm, trong khi đó
giới chủ lại luôn muốn kéo dài thời gian lao động và cắt xén tiền lơng của ngời
lao động.
- Thứ hai, khi ngời lao động không may gặp rủi ro, sự cố nh ốm đau, bệnh
nghề nghiệp phải nghỉ việc, trong thời gian đó giới chủ không trả lơng, từ đó
làm cho cuộc sống của ngời lao động gặp rất nhiều khó khăn.

Những mâu thuẫn này kéo dài và ngày càng gay gắt, do vậy Nhà nớc đã phải
đứng ra can thiệp và điều hoà bằng cách buộc giới chủ phải có trách nhiệm hơn
2
Đề án môn học -
đối với ngời lao động mà mình sử dụng. Trách nhiệm này thể hiện ở chỗ: giới
chủ phải trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành một loại quỹ, đồng
thời Nhà nứơc cũng khuyến cáo đối với ngời lao động cũng phải trích một phần
tiền lơng để đóng góp vào quỹ. Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc
khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động khi họ không may gặp
phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi
ro, bất lợi của ngời lao động đợc dàn trải, cuộc sống của ngời lao động và gia
đình họ ngày càng đợc đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc
bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo trộn không
cần thiết.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc trên đợc thế giới
quan niệm là BHXH đối với ngời lao động. BHXH là một trong những loại hình
bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã đợc thực hiện ở hầu hết các nớc trên thế
giới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có định nghĩa thống nhất về BHXH.
Dới góc độ thu nhập có thể hiểu: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập cho ngời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một
quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống xã hội.
Đứng trên góc độ pháp luật thì có định nghĩa BHXH là một chế định bảo vệ ng-
ời lao động, sử dụng nguồn đóng góp của ngời lao động, ngời sử dụng lao động
(nếu có), và đợc sự bảo trợ, tài trợ của Nhà nớc nhằm trợ cấp vật chất cho ngời đ-
ợc bảo hiểm và gia đình họ trong trờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình th-
ờng do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động (về hu) theo quy định của
pháp luật, hoặc chết.
Trên góc độ tài chính xác định BHXH là thuật san sẻ rủi ro và chia sẻ tài chính
giữa những ngời tham gia hiểm theo quy định của pháp luật.

Trên góc độ chính sách cho rằng BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống vật chất cho ngời lao động khi họ không may gặp phải rủi ro nhằm
góp phần đảm bảo an oàn xã hội.
1.2. Bản chất của BHXH
BHXH có thể đợc hiểu dới nhiều góc độ khác nhau nhng dù đợc định nghĩa nh
thế nào thì bản chất của BHXH cũng đợc thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã
hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trờng, mối quan hệ thuê mớn
lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH
3
Đề án môn học -
càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay
BHXH không vợt quá trạng thái kinh tế của mỗi nớc.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động
và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên đợc BHXH. Bên
tham gia BHXH có thể chỉ là ngời lao động hoặc cả ngời lao động và ngời sử
dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thờng là cơ quan
chuyên trách do Nhà nớc lập ra và bảo trợ. Bên đợc BHXH là ngời lao động và
gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc làm mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con ngời
nh: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệpHoặc cũng có thể là những tr-
ờng hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên nh: tuổi già, thai sảnđồng thời
những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của ngời lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến
cố, rủi ro sẽ đợc bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc tồn
tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra
còn đợc sự hỗ trợ từ phía Nhà nớc.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của ngời lao
động trong trờng hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập , mất việc làm. Mục tiêu này

đợc tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá nh sau:
+ Đền bù cho ngời lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu cuả họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân c và các nhu cầu đặc
biệt của ngời già, ngời tàn tật và trẻ em.
Với những bản chất trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con
ngời và đợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn nhân
quyền ngày 10/02/1948: Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên của BHXH có
quyền hởng BHXH, quyền đó đợc đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh
tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển.
2/ Đối tợng của BHXH
Đối tợng của BHXH là thu nhập của ngời lao động bị biến động giảm hoặc
mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những ngời
tham gia BHXH .
4
Đề án môn học -
Đối tợng tham gia BHXH là ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Tuy vậy,
tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nớc mà đối tợng này có thể
là tất cả hoặc một bộ phận những ngời lao động đó.
Trong thời kỳ đầu triển khai BHXH thì hầu hết các nớc chỉ thực hiện BHXH
với các viên chức Nhà nớc, những ngời làm công hởng lơng và Việt nam cũng
không phải là một ngoại lệ, vì:
- áp dụng đối với những đối tợng này trớc hết thể hiện đợc bản chất của
BHXH là mối quan hệ ba bên
- Những ngời làm công ăn lơng có mức thu nhập ổn định và do đó việc đóng
góp của họ thờng dễ dàng hơn
- Việc áp dụng đối với các đối tợng này phù hợp với trình độ tổ chức, quản lý
của BHXH trong thời kỳ đầu. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế,
mức thu nhập của ngời dân ngày càng gia tăng thì đòi hỏi về an toàn trong cuộc

sống đối với mỗi ngời, mỗi gia đình ngày càng đợc quan tâm đúng mức. Chính vì
vậy kể từ khi ra đời đến nay, đối tợng tham gia BHXH không ngừng đợc mở
rộng, từ đó góp phần đảm bảo sự công bằng giữa tất cả những ngời lao động
thuộc mọi thành phần, lĩnh vực kinh tế khác nhau.
3/ Chức năng của BHXH
BHXH có các chức năng chủ yếu sau:
Một là, chức năng thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao
động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy
ra và suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi ngời khi hết tuổi
lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả
năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, ngời lao động cũng sẽ đợc
hởng trợ cấp BHXH với mức hởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời
điểm và thời hạn phải đúng với quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của
BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH.
Hai là, chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những ngời
tham gia BHXH. Theo chức năng này, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập
theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những ngời lao động có thu
nhập cao và thấp, giữa những ngời khoẻ mạnh đang còn làm việc với những ngời
ốm yếu phải nghỉ việcThực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH đã góp phần
thực hiện công bằng xã hội.
Ba là, chức năng kích thích ngời lao động hăng hái lao động sản xuất,
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Chức năng
5
Đề án môn học -
này biểu hiện ở chỗ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc
về già ngời lao động đợc BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất, vì thế
mà cuộc sống của họ và gia đình họ luôn đợc đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do
đó, ngời lao động luôn yên tâm lao động sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế.

Bốn là chức năng điều hoà lợi ích giữa ba bên: ngời lao động, ngời sử dụng
lao động và Nhà nớc. Thực hiện chức năng này tức là BHXH đã giải quyết đợc
những mâu thuẫn nội tại giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Đặc biệt
là cả hai bên đều thấy nhờ có BHXH mà mình đợc bảo vệ và có lợi, từ đó làm
cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích đợc với nhau. Về phía Nhà nớc, chi cho
BHXH là cách thức chi hiệu quả nhất nhng vẫn giải quyết dợc những khó khăn
về đời sống cho ngời lao động và gia đình họ, từ đó góp phần làm cho sản xuất
ổn định, kinh tế chính trị và xã hội dợc phát triển an toàn hơn.
4/ Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của BHXH
4.1/ Tính tất yếu khách quan
Trong cuộc sống hàng ngày, để có thể tồn tại và phát triển, con ngời luôn phải
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo nên những sản phẩm cần
thiết phục vụ cho nhu cầu của bản thân và gia đình. Nh vậy, việc thoả mãn và đáp
ứng những nhu cầu đó phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ - những
ngời lao động chính trong gia đình.
Trong thực tế, không phải lúc nào con ngời cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu
nhập và mọi điều kiện sống bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp có thể
xảy ra làm cho họ bị giảm hoặc mất thu nhập gây xáo trộn cuộc sống sinh hoạt
bình thờng của gia đình họ. Chẳng hạn nh bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động,
mất việc làm, hay khi tuổi già khả năng lao động và tự phục vụ bị suy giảm
Trong những trờng hợp đó, thu nhập của họ có thể bị giảm hoặc không còn nhng
các nhu cầu trong cuộc sống không vì thế mà giảm hoặc mất đi mà thậm chí còn
tăng lên do xuất hiện những nhu cầu mới nh khám chữa bệnh, điều trị, ốm đau,
tai nạn
Đồng thời, sản xuất càng phát triển thì những rủi ro đối với ngời lao động và
những khó khăn đối với ngời sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp,
dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng căng thẳng. Sản xuất kinh doanh bị gián
đoạn, từ đó làm cho cuộc sống của ngời lao động gặp rất nhiều khó khăn.
Trên thực tế, con ngời đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau nh đùm bọc, san
sẻ lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nớc

Nhng rõ ràng những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Xuất phát
6
Đề án môn học -
từ những đòi hỏi thực tế cùng với những u việt của mình, sự ra đời của BHXH là
hoàn toàn khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nớc.
4.2/ Quá trình hình thành và phát triển BHXH trên thế giới
BHXH có mầm mống từ thế kỷ XIII khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá bắt
đầu phát triển. Ban đầu BHXH mang tính chất rất sơ khai và hoạt động với phạm
vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, khi những nghiệp đoàn thủ công ra
đời, họ đã lập ra các loại quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi, tơng thân, tơng ái khi ốm
đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệpTrong thời kỳ cách mạng ở châu âu, số lợng ngời
lao động làm công ăn lơng tăng lên, đời sống của họ phụ thuộc vào thu nhập
nghề nghiệp và thái độ đối xử của giới chủ. Những rủi ro, tai nạn lao động xảy
ra làm thu nhập của họ bị giảm hoặc mất hẳn. Do đó bên cạnh việc giúp đỡ lẫn
nhau, giai cấp công nhân đã tự nhận thức và đấu tranh chống lại giới chủ, đòi
giới chủ phải quan tâm đến những ngời lao động khi họ bị ốm đau hoặc mất khả
năng lao động.
Năm 1883, nớc Phổ (Cộng hoà Liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo
hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới đánh dấu sự ra đời của BHXH. Năm 1884,
bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời. Năm 1889 phát triển thêm
bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật.
Tiếp theo Đức, BHXH lan sang các nớc châu âu khác nh Anh (1877), Pháp
(1899), Liên Xô (1917) BHXH đã trở thành một trong những quyền của con
ngời và đợc xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc
(10/12/1948) đã ghi Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên của xã hội có
quyền hởng BHXH. Ngày 04/06/1952, tổ chức lao động quốc tế (ILO) ký công -
ớc số 102 về BHXH cho ngời lao động đã khẳng định tất yếu các nớc phải tiến
hành BHXH cho ngời lao động và gia đình họ, đồng thời công ớc cũng khuyến
khích các BHXH trên thế giới phải bao gồm 09 chế độ sau:
1. Chăm sóc y tế

2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống (trợ cấp mất ngời nuôi dỡng).
7
Đề án môn học -
Tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội, các chế độ trên đợc thực hiện ở mỗi
nớc là khác nhau. Tuy nhiên, một nớc đợc gọi là có hệ thống BHXH thì phải thực
hiện ít nhất ba chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ là: Trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ
cấp khi tàn phế, trợ cấp cho ngời còn sống.
4.3. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH ở nớc ta
BHXH nớc ta có mầm mống dới thời phong kiến Pháp thuộc. Tuy nhiên, trong
thời kỳ này nó chỉ đợc áp dụng cho các công chức, quân nhân Việt nam và các
lực lợng vũ trang của Pháp ở Đông dơng.
Sau cách mạng tháng tám, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 của nớc Việt nam dân
chủ cộng hoà, Chính phủ đã quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hu
trí cho công nhân viên chức nhà nớc.
Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao
động xã hội đợc hởng quyền lợi BHXH.
Ngày 27/12/1961, Nhà nớc ban hành nghị định 128/CP của Chính phủ về Điều
lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức và đợc thi
hành từ ngày 01/01/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện chế độ BHXH đã bộc lộ
nhiều hạn chế. Do đó, ngày 15/05/1985 Chính phủ đã ban hành Nghị định
236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với ngời lao
động. Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và mức hởng.

Tuy vậy, chính sách BHXH ở Việt nam vẫn còn nhiều hạn chế, không phù hợp
với cơ chế mới. Vì vậy, ngày 22/06/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 43/CP
quy định tạm thời các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế, đánh
dấu bớc đổi mới của BHXH nớc ta.
Sau khi bộ luật lao động đợc Quốc hội thông qua ngày 16/06/1994, Chính phủ đã
ban hành nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 về điều lệ BHXH đối với ngời lao
động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ này đã góp phần
thực hiện công bằng xã hội, làm lành mạnh hoá thị trờng lao động, đồng thời đáp
ứng đợc sự mong mỏi của đông đảo ngời lao động trong các thành phần kinh tế
của cả nớc.
Theo điều 02 của nghị định này, BHXH nớc ta gồm năm chế độ sau đây:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hu trí
5. Chế độ tử tuất.
8
Đề án môn học -
II/ Vai trò của BHXH:
Kể từ khi ra đời, BHXH đã không ngừng đợc mở rộng, số đối tợng tham
gia BHXH ngày càng tăng. Cho đến nay, khái niệm BHXH đã trở nên quen thuộc
và gần gũi với mọi ngời lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Có đợc kết
quả đó là nhờ vai trò hết sức to lớn của BHXH. Vai trò đó đợc thể hiện:
Thứ nhất, ngời tham gia BHXH đợc trợ cấp một phần thu nhập bị giảm
hoặc mất đi do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, tuổi già
hoặc chết. Nhờ đó mà ngời lao động và gia đình họ có thể ổn định cuộc sống ở
mức bình thờng khi những sự kiện đó xảy ra. Đặc biệt, khi lao động chính trong
gia đình không may gặp phải những rủi ro nh: tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp dẫn đến mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, hoặc trong trờng
hợp ngời lao động tử vong thì lúc này trợ cấp BHXH là hết sức cần thiết và quan

trọng. Đây là vai trò cơ bản, quan trọng và bao trùm nhất của BHXH.
Thứ hai, BHXH là chỗ dựa tinh thần cho ngời lao động, giúp họ yên tâm
trong cuộc sống, trong sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần làm cho sản xuất
kinh doanh phát triển ổn định. BHXH là loại bảo hiểm có tính cộng đồng, tơng
trợ và nhân văn sâu sắc nhất trong các loại hình bảo hiểm.
Thứ ba, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã
hội của nớc ta, thực hiện BHXH có nghĩa là đã góp phần đảm bảo an toàn xã hội,
đồng thời thể hiện đợc sự quan tâm của nhà nớc đối với ngời lao động thuộc mọi
thành phần kinh tế.
Thứ t, BHXH làm cho mối quan hệ giữa chủ và thợ đợc hài hoà hơn, hạn
chế những mâu thuẫn phát sinh, đồng thời giải quyết lợi ích cơ bản giữa ba bên :
ngời lao động, ngời sử dụng lao động và nhà nớc, từ đó góp phần đảm bảo an
toàn xã hội.
Thứ năm, BHXH còn tập hợp đợc một lợng tiền lớn thông qua sự đóng góp
của ngời lao động, ngời sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nớc tạo thành quỹ
BHXH. Quỹ này ngoài việc sử dụng cho hai mục đích chính là chi trả trợ cấp cho
các chế độ BHXH và chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH, phần quỹ nhàn rỗi
còn đợc đem đầu t sinh lời, từ đó góp phần phát triển kinh tế, tạo thêm công ăn
việc làm.
Ngoài ra, hoạt động BHXH còn thu hút một số lao động nhất định, góp
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội.
9
§Ò ¸n m«n häc -
10
Đề án môn học -
Phần II
Tình hình thực hiện BHXH trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt nam
I/ Khái quát về Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD)
1/ Nhận diện DNNQD

Để có thể nhận diện DNNQD một cách chính xác, chúng ta sẽ đi từ việc phân
định các thành phần kinh tế ở nớc ta.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, việc xác định các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế ở nớc ta đã có sự thay đổi nhất định. Đại hội Đảng lần thứ VI
và VII xác định có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và kinh tế
t nhân. Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định có: kinh tế Nhà nớc, kinh tế tập thể,
kinh tế cá thể, kinh tế t bản nhà nớc và kinh tế t bản t nhân.
Với chủ chơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội Đảng lần thứ IX
đã khẳng định Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế định hớng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và phát triển lành mạnh. Théo đó các thống kê chính thức của
Nhà nớc Việt nam gần đây sử dụng cách phân chia: kinh tế nhà nớc, kinh tế tập
thể, kinh tế t nhân, kinh tế cá thể, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu t nớc
ngoài. đồng thời có sự phân chia tổng hợp hơn thành khu vực kinh tế trong nớc
(gồm khu vực kinh tế nhà nớc, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh) và khu vực
kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Với cách phân định hiện nay có thể xác định
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ bao gồm: kinh tế t nhân, kinh tế cá thể
và kinh tế hỗn hợp.
Đứng trên giác độ khác cũng có thể nói thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp t nhân,
công ty hợp danh và các hộ cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua việc xác định thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đồng thời kết hợp
với định nghĩa về doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp chúng ta có thể xác định
DNNQD bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp
t nhân (không bao gồm các hộ cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh).
2/ Vai trò kinh tế xã hội của DNNQD
DNNQD là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong nền kinh tế ở hầu hết
các nớc trên thế giới. Tuy nhiên, trớc đây trong một thời gian khá dài chúng ta đã
không công nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế này làm cho nó phải hoạt động d-
ới nhiều hình thức khác nhau hoặc dới dạng kinh tế tập thể.

11
Đề án môn học -
Những năm gần đây, với sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, các
DNNQD đã thực sự khởi sắc và thể hiện vai trò to lớn của mình trong nền kinh
tế. Đặc biệt với điều kiện của nớc ta hiện nay: kinh tế kém phát triển, ngân sách
bội chi, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong điều
kiện phải chịu nhiều áp lực, thêm vào đó tình trạng thất nghiệp gia tăng đang là
một gánh nặng cho xã hội. Trong điều kiện đó, vai trò của NDNQD càng trở nên
quan trọng, vai trò đó thể hiện:
Một là, các DNNQD có vai trò quan trọng trong sự tăng trởng của nền
kinh tế. Chúng đóng góp rất lớn vào sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội. ở
Việt nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng thì hiện
nay các DNNQD của cả nớc đóng góp khoảng 7% GDP của cả nớc.
Hai là, tác động kinh tế xã hội lớn nhất của các DNNQD là giải quyết
một số lợng lớn chỗ làm việc cho dân c, tăng thu nhập cho ngời lao động, góp
phần xoá đói giảm nghèo. Theo thống kê thì số lợng lao động làm việc trong khu
vực này tăng khoảng 70.000 ngời mỗi năm. Có thể nói đây là một sự đóng góp to
lớn của các DNNQD. Nó không chỉ làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tạo
nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nớc mà từ đó còn góp phần hạn chế tệ
nạn xã hội (do không có việc làm), khai thác đợc nguồn nhân lực dồi dào của đất
nớc.
Ba là, do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán và yêu cầu về số lợng vốn ban đầu
không lớn nên các DNNQD có khả năng huy động đợc tối đa mọi nguồn vốn nhỏ
lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân c để đầu t vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bốn là, các DNNQD góp phần làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả
hơn. Do số lợng các doanh nghiệp tăng nhanh đã làm tăng tính cạnh tranh, giảm
bớt rủi ro của nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lợng, chủng loại hàng hoá, dịch
vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, các DNNQD có khả năng thay đổi mặt hàng,
công nghệ và chuyển hớng kinh doanh nhanh, điều đó làm cho nền kinh tế năng
động hơn. Sự có mặt của các DNNQD trong nền kinh tế cũng có tác dụng hỗ trợ

các doanh nghiệp quốc doanh kinh doanh có hiệu quả hơn.
Năm là, các DNNQD có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNNQD ở
nông thôn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm
cho công nghiệp và các ngành thơng mại dịch vụ phát triển. Còn ở thành thị,
các DNNQD phát triển cũng làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và
làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
12
Đề án môn học -
Những vai trò đó chứng tỏ chính sách phát triển khu vực DNNQD của
Đảng và Nhà nớc ta là hoàn toàn đúng đắn, không những xuất phát từ thực tiễn
phát triển kinh tế nớc ta mà còn đáp ứng đợc yêu cầu của quy luật khách quan
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của t liệu sản
xuất.
3/ Thực trạng phát triển các DNNQD ở nớc ta hiện nay
Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đánh dấu bớc ngoặt trong việc đổi
mới toàn diện, sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội, trong đó khẳng định nền kinh tế
nớc ta gồm nhiều thành phần tồn tại lâu dài.
Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991)và lần thứ VIII (năm 1996) tiếp tục khẳng
định những t tởng của Đại hội VI, đồng thời nhấn mạnh: Nhà nớc thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tớc
đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá t liệu sản xuất, không áp đặt hình
thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có ích cho quốc tế dân sinh.
Trên cơ sở các quan điểm đổi mới của Đảng, cho đến nay các DNNQD không
chỉ phát triển mạnh mẽ về số lợng, về vốn mà cả về hình thức hoạt động. Nếu nh
cuối năm 1991 cả nớc có khoảng 130 DNNQD thì đến cuối năm 1999, con số
này đã lên tới khoảng xấp xỉ 40.000 doanh nghiệp. Trong sáu tháng đầu năm
2000, khoảng 7000 doanh nghiệp đăng ký thành lập và đến cuối tháng 10/2000
đã có hơn 10.000 doanh nghiệp mới đợc đăng ký thành lập. Tính đến cuối năm
2000, cả nớc đã có khoảng trên 50.000 DNNQD. Tốc độ tăng trởng năm 2000 là

cha từng có so với trớc đó, nó cho thấy tiềm năng phát triển của các DNNQD ở
nớc ta.
Biểu 1: Số lợng các DNNQD tính theo địa vị pháp lý (1996-2000)
1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số DNNQD 31.143 33.713 36.753 39.915 54.915
Doanh nghiệp t nhân 21.905 23.009 24.998 26.989 35.145
Công ty TNHH 9.316 10.420 11.384 12.473 18.122
Công ty cổ phần 276 302 371 453 1.648
Tốc độ tăng hàng
năm
8,3% 9,0% 8,6% 37,5%
(Nguồn: Phát triển khu vực DNNQD dự án VIE về chiến l ợc phát triển Kinh
tế xã hội 2001 2010)
Sau khi có luật doanh nghiệp ra đời (01/01/2001), số lợng DNNQD tăng lên
nhanh chóng. Tính đến ngày 31/12/2001 đã có khoảng gần 70.000 DNNQD, tăng
1,8 lần so với năm 1998.
Cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lợng các DNNQD thì số lao động đợc
thu hút vào khu vực này cũng không ngừng tăng lên. Tính đến cuối năm 2000, số
13
Đề án môn học -
lao động làm việc trong các DNNQD đã lên tới gần 90.000 ngời, đây không phải
là một con số lớn song lại hết sức có ý nghĩa trong việc chuyển đổi cơ cấu lao
động ở nớc ta hiện nay.
Biểu 2: Cơ cấu lao động ở nớc ta xét theo loại hình doanh nghiệp
(Đơn vị: %)
1996 1997 1998 1999 2000
Khu vực Nhà nớc 9,1 9,2 9,1 9,0 9,0
Hộ GĐ và nông dân (Kinh tế cá thể) 89,2 89 88,8 88,7 88,2
Khu vực DNNQD 1,1 1,2 1,4 1,7 2,1
Khu vực có vốn đầu t nớc ngoài 0,6 0,6 0,7 0,6 0,7

Tổng cộng 100 100 100 100 100
(Nguồn: Phát triển khu vực DNNQD dự án VIE về chiến l ợc phát triển Kinh
tế xã hội 2001 2010)
Có thể thấy tỷ trọng lao động làm việc trong các DNNQD tăng lên khá đều
đặn qua các năm. Đặc biệt trong ba năm trở lại đây, số lợng lao động làm việc
trong khu vực này tăng lên nhanh chóng. Đến cuối năm 2000, các DNNQD đã
thu hút đợc khoảng 2,1% tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh
tế. Mặc dù tỷ trọng này còn nhỏ song nó đã ghi nhận một sự gia tăng khá nổi bật
(tăng lên gần 02 lần so với năm 1996).
Hiện nay số lao động làm việc trong các DNNQD đã lên tới trên một triệu ngời.
Sự gia tăng nhanh chónh này là không thể phủ nhận, có thể nói đây là sự đóng
góp to lớn của khu vực DNNQD trong việc giải quyết việc làm cho số lao động
dôi d, đồng thời góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp ở nớc ta hiện nay.
Cùng với sự thuận lợi hơn về môi trờng chính sách so với những năm trớc dây,
chính phủ sẽ tạo điều kiện hơn nữa cho sự tham gia của t nhân và tạo ra sân chơi
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Chắc chắn khu vực DNNQD sẽ phát triển
nhanh chóng và số lợng lao động đợc thu hút vào khu vực này sẽ không ngừng
gia tăng trong nững năm tới.
II/ Tình hình thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nớc ta
1/ Sự cần thiết phải thực hiện BHXH trong các DNNQD
BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc đối với ngời lao động nhằm từng
bớc mở rộng và nâng cao đời sống cho ngời lao động khi gặp rủi ro nh ốm đau,
tai nạn, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động Mục đích cuối cùng của
BHXH là về con ngời và cho con ngời. Hoạt động của BHXH mang tính chất
nhân văn rất cao, vì vậy nếu BHXH chỉ đợc thực hiện trong công chức Nhà nớc
thì sẽ không tạo đợc sự bình đẳng quyền làm việc và hởng phúc lợi xã hội giữa
những ngời lao động trong các thành phần kinh tế.
14
Đề án môn học -

Cùng với sự tăng trởng khá nhanh trong những năm gần đây, các DNNQD đã góp
phần to lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đồng
thời cũng có những đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nớc. Dó đó, việc thực hiện BHXH trong các DNNQD là hết sức cần thiết,
nó không chỉ giúp ngời cho lao động trong khu vực này đợc đảm bảo lợi ích tơng
đối ổn định kể cả trong những hoàn cảnh rủi ro ngẫn nhiên mà còn thể hiện sự
quan tâm của Đảng đối với ngời lao động trong mọi thành phần kinh tế, từ đó
góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Mặt khác, thực hiện BHXH trong các DNNQD cũng có nghĩa là rút ngắn khoảng
cách giữa thành phần kinh tế Nhà nớc với khu vực ngoài quốc doanh, tránh đợc
sự phân biệt khi làm trong và ngoài biên chế Nhà nớc, từ đó giúp cho lao động
làm việc trong khu vực này yên tâm gắn bó với doanh nghiệp hơn, tạo nên động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cuối cùng, thực hiện BHXH trong các DNNQD còn góp phần mở rộng và tăng
số ngời tham gia BHXH, đó là cơ sở để xây dựng một nền an sinh xã hội công
bằng, nhân văn và tiến bộ.
2/ Thực trạng thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nớc ta
Với nhận thức ngời lao động dù làm việc trong thành phần kinh tế nào cũng cần
đợc bình đẳng về quyền lợi BHXH, vì vậy chính sách BHXH luôn đợc Đảng và
Nhà nớc ta quan tâm, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tiến trình phát triển kinh
tế xã hội của đất nớc.
Nghị định 43/CP ngày 22/06/1993 quy định tạm thời về chế độ BHXH ra đời đã
đánh dấu sự đổi mới trong mọi thành phần kinh tế ở nớc ta. Ngay sau đó, ngày
23/06/1994, quốc hội đã thông qua bộ luật lao động, trong đó BHXH đợc quy
định với 13 điều. Và để cụ thể hoá những quy định này, chính phủ đã ban hành
điều lệ BHXH kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, theo đó đối tợng
tham gia BHXH đợc mở rộng đến mọi thành phần kinh tế.
Hiện nay, BHXH đợc áp dụng dới hai hình thức: bắt buộc và tự nguyện. Hình
thức tự nguyện đang ở quá trình thí điểm, còn BHXH bắt buộc đã đợc mở rộng
và cụ thể hoá theo điều 03 nghị định 12/CP, trong đó bao gồm ngời lao động

làm việc trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có
sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Nh vậy, chính sách BHXH không chỉ thực hiện cho ngời lao động trong các khối
hành chính sự nghiệp (Đảng, đoàn thể, lực lợng vũ trang, doanh nghiệp nhà nớc)
mà còn mở rộng đến lao động ở các thành phần kinh tế khác. Các DNNQD có sử
15
Đề án môn học -
dụng 10 lao động trở lên là đối tợng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của
bộ luật lao động và điều lệ BHXH.
2.1. Những kết quả đạt đợc
Hơn bảy năm thực hiện BHXH theo quy địnhmới đến nay việc triển khai BHXH
đến các DNNQD đã đạt đợc những kết quả bớc đầu đáng khích lệ. Số DNNQD
cũng nh số lao động trong khu vực này tham gia BHXH hàng năm đều tăng lên.
Nếu năm 1997 cả nớc mới chỉ có 2305 DNNQD tham gia BHXH với số đối tợng
tham gia là 83.587 ngơì thì đến năm 2001, con số này đã tăng lên 5388 doanh
nghiệp với số đối tợng tham gia là 201.393 ngời.
Biểu 3: Tình hình tham gia BHXH của lao động ngoài quốc doanh (1997 - 2001)
Chỉ tiêu ĐVT 1997 1998 1999 2000 2001
1/ Đơn vị tham gia
- Số đơn vị
- Tăng so với năm trớc
DN
DN
2.305
-
3.138
833
3.888
750
4.708

820
5.388
680
2/ Đối tợng tham gia
- Số lao động
- Tăng so với năm trớc
Ngời
Ngời
83.587
-
112.236
28.649
126.053
13.817
151.520
25.467
201.393
49.873
3/ Số tiền thu đợc
- Số tiền
- Tăng so với năm trớc
Tr. đ
Tr.đ
72.375
-
101.709
29.334
146.590
44.881
199.630

53.040
268.630
69.000
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam)
Có thể thấy số lợng doanh nghiệp cũng nh số lao động tham gia BHXH
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên khá ổn định về số đối tợng
tham gia BHXH, tăng 49.873 ngời so với năm 2000. Đồng thời số thu BHXH
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng lên khá đều đặn, số tăng của
năm sau cao hơn năm trớc. Riêng năm 2001 đã tăng lên hơn so với năm 2000 là
69 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2001 số doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia
BHXH tăng 2 lần, về đối tợng tham gia tăng gần 2,5 lần và số thu tăng 3,7 lần so
với năm 1997.
Kết quả này đã phần nào phản ánh đợc sự chuyển biến tích cực trong việc
tham gia BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thời gian qua. Nó đã góp
phần đảm bảo an toàn cuộc sống cho một bộ phận ngời lao động trong khu vực
này đồng thời cũng chứng tỏ việc tham gia BHXH ở các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh đã đi vào nề nếp hơn.
2.2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện:
16
Đề án môn học -
Tuy có sự gia tăng về số đơn vị cũng nh số lao động tham gia BHXH trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh những năm qua nhng hiện nay việc thực hiện
BHXH trong khu vực này vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Phần lớn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh cha tích cực tham gia BHXH cho ngời lao động và
chính bản thân họ. Các chủ sử dụng lao động thờng trốn tránh không khai báo
đầy đủ số lao động thuộc diện tham gia BHXH với cơ quan BHXH, thậm chí
ngay cả những doanh nghiệp đã đăng ký tham gia BHXH cho ngời lao động cũng
cha thực sự mang tính tự giác.
Không ít doanh nghiệp lách luật bằng cách hợp đồng lao động chỉ dới 10
ngời hoặc chỉ hợp đồng lao động có thời hạn dới 3 tháng sau đó nếu cần mới tiếp

tục gia hạn thêm. Do đó mặc dù số lợng doanh nghiệp cũng nh số lao động tham
gia BHXH qua các năm có tăng nhng so với con số thực tế thì còn quá nhỏ bé.
Theo thống kê hiện nay số doanh nghiệp ngoài quốc doanh không tham gia
BHXH chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh
tế.
Biểu 4: Cơ cấu tham gia BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh so
với tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Năm Tổng số DNNQD
Số DNNQD tham gia
BHXH cho ngời lao động
Tỷ lệ (%)
1997 33.813 2305 6,8
1998 36.753 3138 8,5
1999 39.915 3888 9,7
2000 54.915 4708 8,5
2001 67.423 5388 8,0
(Nguồn: Tổng hợp BHXH Việt Nam và dự án VIE về phát triển khu vực
DNNQD)
Nh vậy có thể nhận thấy tuy có sự tăng lên về số doanh nghiệp tham gia
BHXH nhng nếu xét về tỷ trọng thì con số này còn quá nhỏ bé. Năm cao nhất là
năm 1999 cũng chỉ đạt tỷ lệ 9,7% so với tổng số DNNQD và đến năm 2000 tỷ lệ
này còn là 8,5%. Sở dĩ có sự giảm sút này một phần là do sự gia tăng đột biến về
số lợng DNNQD mới đăng ký thành lập trong khi đó số doanh nghiệp tham gia
BHXH tuy có tăng nhng không đáng kể so với số doanh nghiệp mới thành lập.
Tính đến năm 2001 số DNNQD tham gia BHXH chỉ chiếm khoảng 8%.
Đồng thời khi so sánh số đối tợng lao động tham gia BHXH trong khu vực này
với con số thực tế thì con số này cũng rất nhỏ. Năm 2001 số lao động trong các
DNNQD tham gia BHXH mới chỉ chiếm khoảng 16% số lao động thực tế đang
làm việc trong khu vực này.
17

Đề án môn học -
Biểu 5: Cơ cấu lao động tham gia BHXH trong các DNNQD
Chỉ tiêu
Năm
Tổng số lao động làm việc
trong các DNNQD (ngời)
Số lao động tham
gia BHXH (ngời)
Tỷ lệ (%)
1997 394.000 83.587 21,2
1998 500.227 112.230 22,4
1999 645.580 126.053 19,5
2000 879.030 151.520 17,2
2001 1230.680 201.393 16,0
(Nguồn: Tổng hợp BHXH Việt Nam và dự án VIE về phát triển khu vực
DNNQD)
Qua bảng trên cho thấy tỷ trọng lao động làm việc trong các DNNQD,
tham gia BHXH so với tổng số lao động trong khu vực này liên tục giảm. Nếu
năm 1998 tỷ lệ này là 22,4% thì đến năm 2000 đã giảm xuống 17,2% và năm
2001 chỉ còn 16,0%. Điều này cho thấy sự gia tăng về số lợng lao động tham gia
BHXH trong các DNNQD còn rất nhỏ bé so với số lao động đợc thu hút vào khu
vực này hàng năm.
Thực tế này cho thấy việc triển khai BHXH trong các DNNQD còn rất hạn
chế và gặp nhiều khó khăn, những kết quả đạt đợc còn rất khiên tốn. Với thực
trạng này thì không những quyền lợi của ngời lao động trong khu vực này không
đợc đảm bảo mà còn gây rất nhiều trở ngại trong việc mở rộng đối tợng tham gia
BHXH theo Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/1/2003
theo đó tất cả ngời lao động trong các DNNQD có sản xuất kinh doanh đều phải
tham gia BHXH bắt buộc. Nhng liệu điều này có thực hiện đợc không khi mà
ngay cả những doanh nghiệp sử dụng trên 10 lao động cũng cha có ý thức tham

gia BHXH cho lao động của mình.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình thực hiện BHXH ở các
DNNQD
Sở dĩ quá trình thực hiện BHXH trong các DNNQD còn gặp nhiều khó
khăn với kết quả đạt đợc còn quá thấp nh vậy là do các nguyên nhân sau đây:
a. Về phía chủ sử dụng lao động: chủ sử dụng lao động ở các DNNQD
nhận thức cha đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện đóng BHXH
cho ngời lao động theo luật định. Nhng các cơ quan quản lý Nhà nớc cũng cha có
quy định về cơ chế rõ ràngvà cũng không có biện pháp ràng buộc các doanh
nghiệp thực hiện, còn buông lỏng việc quản lý và sử dụng lao động dẫn đến tình
trạng nhiều doanh nghiệp có đăng ký thành lập nhng không đăng ký sử dụng lao
động, khi sử dụng lao động không có hợp đồng cụ thể theo quy định của Bộ luật
lao động. Do đó cơ quan BHXH không có cơ sở xác định hình thức hợp đồng lao
động để khai thác đối tợng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Một số doanh
18
Đề án môn học -
nghiệp tuy có tên (giấy phép hành nghề) nhng hoạt động theo thời vụ hoặc hợp
đồng theo công trình khoán gọn do đó khó xác định số lao động cũng nh việc
tham gia BHXH cho những lao động thuộc diện bắt buộc.
b. Về phía ngời lao động: Hầu hết lao động làm việc trong các DNNQD
cha biết và cha hiểu về Bộ luật lao động, điều lệ BHXH nên việc tuyên truyền
vận động họ tham gia BHXH còn gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng tạo ra
những kẽ hở cho chủ sử dụng lao động không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với
ngời lao động mà bản thân họ không biết. Mặc khác trong điều kiện hiện nay
hoàn cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn tìm đợc việc làm đã khó, nếu mất việc
thì đời sống còn khó khăn hơn nhiều, nếu đòi hỏi thì sợ mất việc làm chính vì
vậy họ không có sự phản kháng nào đối với chủ sử dụng lao động của mình để
đòi hỏi quyền lợi BHXH. Trong khi đó đa số các DNNQD cha có tổ chức công
đoàn do đó cha có tổ chức đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
ngời lao động.

c. Về phía cơ quan BHXH: cha tập trung chỉ đạo và tiến hành điều tra,
khảo sát, nắm tình hình thực trạng của các DNNQD, cha đầu t lớn cho công tác
tuyên truyền chính sách BHXH với ngời lao động thuộc khu vực ngoài quốc
doanh.
Do đó mặc dù đã tiến hành mở hội nghị triển khai thực hiện chế độ BHXH
đối với DNNQD song cha thực sự thu hút đợc đơn vị sử dụng lao động tham gia.
Mặt khác cơ quan BHXH cha chủ động phối hợp với các ban ngành liên quan đề
xuất các biện pháp tích cực yêu cầu chủ doanh nghiệp tham gia BHXH.
d. Về hành lang pháp lý: Do sự phát triển và sự biến động về kinh tế - xã
hội trong nền kinh tế thị trờng khá sôi động, các chính sách BHXH đợc xây dựng
thiếu đồng bộ nhng chậm sửa đổi, một số quy định cha khoa học, còn nhiều kẻ
hở, các chế độ đợc quy định cụ thể nhng lại thiếu ổn định, thiếu hoàn thiện.
Điều 11 Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 của chính phủ quy định xử phạt
các hành vi không đóng hoặc đóng chậm BHXH từ 30 ngày trở lên thì mức xử
phạt không quá 2000.000 đồng, nhng thẩm quyền này lại cũng không thuộc về
cơ quan BHXH, thời gian qua cơ quan BHXH kiểm tra, đôn đốc việc thu nộp
BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động nhng không có chế tài yêu cầu các chủ sử
dụng lao động chấp hành việc thực hiện thu nộp BHXH. Với mức xử phạt tại
Nghị định 38/CP, ngay tại thời điểm nghị định đợc ban hành năm 1996 đã không
đủ sức răn đe, cha nói đến tốc độ phát triển kinh tế và sự trợt giá của đồng tiền.
Do đó các chủ sử dụng lao động sẵn sàng vi phạm để nộp phạt.
19
Đề án môn học -
Cũng theo điều lệ BHXH thì các DNNQD có sử dụng từ 10 lao động trở
lên và có hợp đồng dài hạn từ 3 tháng trở lên thuộc diện bắt buộc tham gia
BHXH. Chính quy định này đã tạo kẻ hở cho một số chủ doanh nghiệp thực hiện
hành vi lảng tránh nghĩa vụ thông qua " sáng kiến" chỉ tuyển lao động theo thời
hạn dới 3 tháng sau đó nếu cần mới tiếp tục ra hạn. Tuy nhiên do sự sơ hở của
các văn bản pháp quy nên hành vi này lại đợc hợp pháp hoá.
Nh vậy có thể thấy hành lang pháp lý cha thật sự có hiệu lực đầy đủ, các

chế tài cha phát huy tác dụng do đó việc triển khai BHXH đến các DNNCP còn
gặp nhiều khó khăn vớng mắc.
e. Nguyên nhân khác: Ngoài các nguyên nhân trên thì còn có một số
nguyên nhân mang tính khách quan đó là hiện nay có đến 30% DNNQD ở nớc ta
làm ăn kém hiệu quả dẫn đến tình trạng thua lỗ, nhiều doanh nghiệp không có trụ
sở vốn ít, chuyên ngành kinh doanh cha sâu nên không cạnh tranh nổi với các
thành phần kinh tế khác do đó việc đóng BHXH cho ngời lao động cha đợc quan
tâm . Hơn nữa luật BHXH cha đợc ban hành cũng gây trở ngại không nhỏ trong
quá trình thực hiện chính sách BHXH trong khu vực này.
20
Đề án môn học -
Phần III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện BHXH ở các DNNQD
Để các DNNQD tự giác tham gia BHXH cho ngời lao động từ đó nâng cao
hiệu quả thực hiện BHXH trong khu vực này ngành BHXH và các tổ chức trợ
giúp pháp lý cần phải tiến hành một số biện pháp cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
I. Các giải pháp ở tầm Vĩ mô
1. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp lý về BHXH
Các bộ, ngành quản lý Nhà nớc cần thể chế hoá kịp thời những chủ trơng,
chính sách của Đảng và Nhà nớc về BHXH bằng các văn bản quy phạm pháp luật
phù hợp, sát với thực tế tạo điều kiện cho ngành BHXH triển khai thực hiện và có
thớc đo chuẩn mực trong việc giải quyết và xử lý các vi phạm về chế độ BHXH.
Đồng thời cần rà soát lại những văn bản quy định về BHXH sớm phát hiện những
chồng chéo, mâu thuẫn, loại bỏ những văn bản hết hiệu lực thi hành, cũng nh
những lĩnh vực mới nảy sinh cần có văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh
kịp thời. Quản lý Nhà nớc trong một nền kinh tế động, các văn bản pháp luật nói
chung và xử phạt hành chính nói riêng không nên quy định giá tiền tuyệt đối mà
cần xử lý phạt theo tỷ lệ vi phạm của đối tợng. Nghị định 38/CP ngày 25/6/1986
quy định mức xử phạt hành chính với mức phạt quá thấp đến nay không còn phù

hợp do đó chính phủ nên sớm sửa đổi để có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa
những hành vi cố tình vi phạm pháp luật.
Quốc hội cần sớm thông qua luật BHXH, tạo hành lang pháp lý thống nhất
trong quá trình thực hiện chính sách BHXH đồng thời nên quy định mở rộng
quyền hạn của ngành BHXH khi kiểm tra việc thực chính sách BHXH tại các
đơn vị sử dụng lao động.
Đối với những doanh nghiệp thuộc đối tợng tham gia BHXH bắt buộc theo
quy định mà không tham gia BHXH cho ngời lao động, cố tình tớc đoạt quyền
lợi hợp pháp về BHXH của ngời lao động thì cần phải áp dụng các chế tài với
hình thức phạt nặng đủ sức răn đe chủ sử dụng lao động, buộc họ phải thực hiện
chính sách BHXH cho ngời lao động trong đơn vị mình.
2. Kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động BHXH.
- Thứ nhất, phải cải tiến bộ máy quản lý, bảo đảm mọi cán bộ đều tinh
thông nghiệp vụ, nắm vững các chính sách của Nhà nớc về BHXH. Muốn vậy tr-
ớc hết cần phải tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cờng và có kế
21
Đề án môn học -
hoạch trong việc quy hoạch đào tạo, bồi dỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán
bộ, công chức của ngành để đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời có tác phong
làm việc tích cực, hiệu suất cao. Cùng với việc đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ
cán bộ, nhân viên trong ngành BHXH cần phải trang bị phơng tiện kỹ thuật hiện
đại để nâng cao hiệu quả công việc.
- Thứ hai, cần phải cải tiến lề lối làm việc, phân công cán bộ phụ trách
từng địa bàn, từng doanh nghiệp, đôn đốc thu và kiểm tra tình hình chi BHXH.
Trong thời gian tới cần hình một bộ phận chức năng riêng chuyên phụ trách việc
theo dõi, quản lý tình hình tham gia BHXH ở các DNNQD từ đó góp phần nâng
cao hiệu quả thực hiện BHXH trong khu vực này.
- Thứ ba, cần phải cắt giảm thủ tục hành chính rờm rà. Nhiều năm qua, ở
các DNNQD việc thu BHXH còn nhiều bất cập, ảnh hởng đến quyền lợi ngời lao
động, do đó ngành BHXH cần đặc biệt quan tâm và cử những cán bộ có trình độ

nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao phụ trách khối doanh nghiệp này.
II. Các giải pháp ở tầm vi mô
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách BHXH đến ngời lao
động và chủ sử dụng lao động
Công tác thông tin tuyên truyền phải đợc thực hiện rộng rãi, nội dung
tuyên truyền phải thích hợp với trình độ của ngời lao động và các đơn vị sử dụng
lao động.
Trong đó cần đặc biệt chú trọng đến việc thâm nhập thực tế, bám sát cơ sở
của đội ngũ cán bộ ngành BHXH, thông qua đó tuyên truyền dới nhiều hình thức,
đa dạng về thể loại và phong phú về nội dung là yếu tố hết sức quan trọng. Mỗi
cán bộ chuyên quản phải thực sự là một tuyên truyền viên thờng xuyên gặp gỡ,
trao đổi giúp cho chủ sử dụng lao động và ngời lao động hiểu rõ về trách nhiệm,
nghĩa vụ cũng nh quyền lợi của mình để bản thân họ tự giác tham gia.
Thực tế công tác này vừa qua còn cha đợc quan tâm đúng mức đặc biệt là
với ngời lao động trong khu vực ngoài quốc doanh, nên hiểu biết của họ về
BHXH còn rất hạn hẹp, nhiều ngời không biết BHXH là gì và thờng đồng nghĩa
BHXH với các loại hình bảo hiểm kinh doanh khác, do vậy làm cho họ hiểu biết
về BHXH để họ tự giác tham gia và đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của công tác thông tin tuyên truyền.
Để làm tốt công tác tuyên truyền phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các
cấp, các ngành, tổ chức quần chúng, các cơ quan thông tin đại chúng, trong đó
các cấp uỷ Đảng, chính quyền phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo để công tác tuyên
truyền có hiệu quả. Cuối cùng công tác thông tin tuyên truyền phải đảm bảo sao
22
Đề án môn học -
cho chủ sử dụng lao động nhận thức đợc trách nhiệm của mình trong việc tham
gia BHXH cho ngời lao động, về phía ngời lao động phải thấy đợc tầm quan
trọng của BHXH và nhận thức đợc BHXH là để bảo vệ quyền lơị ích chính đáng
của mình.
2. Tăng cờng dịch vụ trợ giúp pháp lý về BHXH.

Song song với công tác tuyên truyền, các tổ chức dịch vụ pháp lý cũng cần
phải thông qua các kênh khác nhau để mở rộng các hình thức tuy truyền pháp
luật cho nhân dân, đặc biệt là giới thiệu các văn bản mới về BHXH có liên quan
trực tiếp đến ngời lao động. Tăng cờng công tác tuyên truyền thông qua các dịch
vụ t vấn cho các chủ doanh nghiệp về lợi ích và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong
việc thực hiện các quy định của bộ luật lao động, giúp họ nhận thức đợc rằng
doanh nghiệp có phát triển đợc phải phụ thuộc vào hiệu quả công việc và bảo vệ
quyền lợi của ngời lao động cũng chính là bảo đảm sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp. Đồng thời các tổ chức dịch vụ pháp lý sẽ thông qua đó hỗ trợ ngời
lao động đấu tranh yêu cầu giới chủ phải bảo đảm các cam kết trong hợp đồng
lao động theo đúng quy định của pháp luật.
Các tổ chức dịch vụ pháp lý cũng có thể lồng ghép hoạt động của mình với
các cơ sở đào tạo nghề cho ngời lao động để trang bị cho họ kiến thức pháp luật
cần thiết trớc khi họ tham gia vào thị trờng lao động. Ngoài ra còn có thể tổ chức
các buổi toạ đàm giải đáp các vớng mắc về pháp luật cho ngời lao động. Soạn
thảo in ấn và phát hành miễn phí các tờ gấp về các chế độ chính sách BHXH cho
ngời lao động.
3. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý các đơn vị tham gia BHXH.
Cần tổ chức điều tra, thống kê, tổng hợp, nắm chắc số liệu về số lợng các
DNNQD. Trên cơ sở đó rà soát lại toàn bộ để xác định số lợng cụ thể các đơn vị
doanh nghiệp thuộc đối tợng tham gia BHXH bắt buộc , xác định cho đợc những
vấn đề còn vớng mắc, biện pháp đã xử lý và đề xuất phơng án xử lý tiếp theo.
Gắn liền công tác thu với việc giải quyết chế độ chính sách BHXH, tuyệt đối
không gây nhũng nhiễu, phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động và ngời lao động.
Trong tiếp xúc với các đối tợng này phải hết sức mềm dẻo, tạo cho họ cảm giác
an toàn và thấy lợi ích khi tham gia BHXH.
Hiện nay BHXH đã tiếp nhận thêm công tác bảo hiểm y tế với chức năng
nhiệm vụ nặng nề hơn, công tác quản lý rộng hơn do đó đòi hỏi phải có sự phối
hợp đồng bộ giữa các ngành có liên quan, tổ chức kiểm tra thờng xuyên và đột
suất, thành lập tổ chức công đoàn đại diện bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp

của ngời lao động. Đồng thời cũng cần lựa chọn những cán bộ, công chức có
23
Đề án môn học -
phẩm chất tốt, giỏi nghiệp vụ chuyên môn để đội ngũ này thực sự là công cụ hoạt
động có hiệu quả.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm giúp việc tham gia BHXH
trong các DNNQD đạt hiệu quả cao từ đó góp phần đảm bảo quyền lợi của ngời
lao động trong khu vực này. Những giải pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau,
do vậy trong quá trình thực hiện cần phải chú ý đến tính đồng bộ của nó. Tách
rời các biện pháp hoặc chỉ thực hiện một cách cục bộ sẽ có khó thể đem lại
những hiệu quả thiết thực lâu dài.
Kết luận
BHXH nói chung và việc thực hiện BHXH trong riêng luôn là mối quan
tâm của nhiều quốc gia. Đối với nớc ta, hệ thống BHXH đang trong quá trình
hoàn thiện việc mở rộng đối tợng tham gia BHXH đang là vấn đề hết sức bức
thiết thì việc triển khai BHXH trong các DNNQD càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Tuy nhiên, trên thực tế việc nghiên cứu hình thành xúc tiến hỗ trợ
phù hợp nhằm thúc đẩy việc tham gia BHXH trong khu vực này là công việc hết
sức phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của nhiều ngành, nhiều cấp và
nhiều tổ chức.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi đã phân tích thực trạng và đa ra một số
giải pháp chủ yếu để việc thực hiện BHXH ở các DNNQD thời gian tới đạt hiệu
quả cao hơn. Bài viết này đã hoàn thành một số nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, đã hệ thống hoá đợc một số nội dung lý luận cơ bản về BHXH,
đồng thời khẳng định vai trò to lớn, lâu dài và thiết thực của BHXH trong đời
sống xã hội của mỗi quốc gia.
- Thứ hai, đã đánh giá một cách cụ thể, toàn diện tình hình tham gia
BHXH trong các DNNQD ở nớc ta. Trong đó đặc biệt đã đi sâu phân tích những
khó khăn hạn chế gặp phải trong quá trình tổ chức, thực hiện BHXH ở khu vực
này, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế đó.

- Thứ ba, trên cơ sở thực trạng và những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế
đó, bài viết đã đa ra một hệ thống các giải pháp chủ yếu nhằm giúp việc thực
hiện BHXH ở các DNNQD ngoài quốc doanh thời gian tới đợc thuận lợi hơn.
Tuy những giải pháp này chỉ mang tính định hớng, cha đi vào cụ thể nhng hy
vọng rằng nó có thể góp một phần nhó bé vào việc thúc đẩy sự tham gia BHXH
trong khu vực DNNQD.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hớng dẫn TS. Nguyễn Văn
Định đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
24
Đề án môn học -
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm (chơng II- TS Nguyễn Văn Định)
2. Phát triển khu vực DNNQD NXB Hà Nội
3. chế độ BHXH - NXB tài chính.
4. Nghị định 43/CP ngày 22/ 06/ 1983
5. Nghị định 12/CP ngày 26/ 01/ 1995
6. Tạp chí BHXH các số 3,5,6,7,9 /2002
7. Tap chí kinh tế phát triển số 33/ 2000
8. Tạp chí lao động - xã hội số 3/ 2000; 11/2001; 9/2001
9. Bộ luật lao động - NXB chính trị quốc gia
25

×