Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

THU HOẠCH đảng cộng sản việt nam lãnh đạo quân đội nhân dân việt nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt một số giải pháp nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với quân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.25 KB, 28 trang )

1

THU HOẠCH-Đảng Cộng sản Việt Nam Lãnh đạo quân
đội nhân dân Việt Nam Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Một số
giải pháp nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội ta hiện nay.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, đã
trở thành một quân đội cơng nơng cách mạng, từ nhân dân mà ra,
vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất giai cấp công nhân. Trải
qua hơn 60 năm xây dựng và chiến đấu, mỗi bước trưởng thành và
chiến thắng của quân đội ta đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của
Đảng, Bác Hồ và sự nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân. Đây là
vấn đề có tính quy luật, là ngun tắc xây dựng quân đội kiểu mới
của giai cấp vô sản, là bài học rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt
Nam cũng như kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên thế giới.
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn khẳng đinh tính
tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, đề
xuất những giải pháp nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội trong điều kiện hiện nay là nhiệm vụ
đặt ra đối với các nhà khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa


2

học xây dựng Đảng, xây dựng quân đội về chính trị. Trong bài tiểu
luận này, tác giả xin luận giải về những vấn đề chung về lý luận và
thực tiễn xung quanh nguyên tắc: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh


đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt,
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giữ vững và tăng
cường sự l;ãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong điều kiện hiện
nay.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, lịch sử xã hội
loài người từ khi phân chia thành giai cấp là lịch sử đấu tranh giai
cấp. Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh của những
người bị áp bức bóc lột chống lại giai cấp thống trị áp bức bóc lột
nhằm giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế. Đấu tranh giai cấp phát
triển từ thấp đến cao, đến một trình độ nhất định thì chuyển từ đấu
tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, đặt ra vấn đề giành và giữ
chính quyền. Giai cấp nào muốn giành và giữ chính quyền phải tổ
chức ra chính đảng lãnh đạo và giành chính quyền bằng bạo lực
cách mạng. Bạo lực cách mạng gồm có lực lượng chính trị và lực
lượng quân sự, với hai hình thức đấu tranh là đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang và sự kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh đó.
Để tiến hành đấu tranh vũ trang giai cấp và chính đảng của nó nhất
thiết phải tổ chức ra lực lượng vũ trang làm nịng cốt và lãnh đạo
lực lượng vũ trang đó, dùng nó làm cơng cụ để giành và giữ chính
quyền.


3

Khi xác định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ cho giai cấp công nhân con
đường đúng đắn nhất để tự giải phóng mình là, dưới sự lãnh đạo
của chính đảng cách mạng của giai cấp mình - Đảng Cộng sản, giai
cấp công nhân phải liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, dùng
bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản,

lập nên nhà nước chun chính vơ sản và dùng nhà nước đó làm
cơng cụ để bảo vệ quyền thống trị của mình đối với tồn bộ xã hội.
Trong “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: Giai cấp vô sản khơng tự giấu giếm ý định của mình, họ
cơng khai tun bố rằng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng
cách dùng bạo lực cách mạng, lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện thời
- “giai cấp vơ sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật đổ
giai cấp tư sản bằng bạo lực”. Bởi vì, theo các ơng, để củng cố, giữ
vững địa vị thống trị của mình, tiến hành chiến tranh xâm lược,
giai cấp tư sản đã xây dựng một bộ máy khổng lồ bao gồm quân
đội, cảnh sát, nhà tù..., muốn đập tan bộ máy ấy, giai cấp cơng
nhân khơng cịn cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng. Tuy nhiên, C.Mác và
Ph.Ăngghen trong khi nhấn mạnh vai trò của bạo lực cách mạng,
các ơng cũng đề cập đến khả năng giành chính quyền bằng phương
pháp hồ bình, nhưng đây là một khả năng rất quý và hiếm, nó chỉ
xuất hiện khi có các điều kiện khác kèm theo. Vì vậy, để thực hiện


4

nhiệm vụ đó, giai cấp vơ sản phải có lực lượng vũ trang của mình,
lãnh đạo lực lượng đó cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ
giai cấp thống trị và bảo vệ thành quả cách mạng. Trong thư gửi
“Đồng minh những người cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn
mạnh: “cơng nhân phải được vũ trang có tổ chức, cần phải trang bị
súng trường, cạcbin, đại bác và đạn dược”, rằng “công nhân cần
phải tổ chức thành những đội quân vô sản độc lập”. Như vậy, quan
điểm của các ông là trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống
giai cấp tư sản cùng với việc sử dụng bạo lực chính trị, tất yếu phải

sử dụng bạo lực vũ trang, phải tổ chức ra lực lượng vũ trang.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
trong điều kiện lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã trở nên phản
động, hiếu chiến, xâm lược. V.I.Lênin đã phân tích một cách sâu
sắc tính tất yếu khách quan của việc xây dựng một tổ chức qn sự
của giai cấp vơ sản, bởi vì khơng có bạo lực cách mạng thì giai cấp
vơ sản khơng thể chiến thắng được kẻ thù, đồng thời Người chỉ rõ:
“Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ” 1. Xem
xét về vấn đề chiến tranh và quân đội, V.I.Lênin chỉ ra rằng: Chiến
tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn khác, thủ đoạn bạo
lực. Trong mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị: chính trị là
mục đích, chiến tranh là cơng cụ, để đạt được mục đích chính trị
thì giai cấp, nhà nước phải có cơng cụ mạnh, cơng cụ mạnh đó là
1

V.I.Lênin,Tồn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, Tập 38, tr. 53.


5

quân đội. Quân đội bao giờ cũng là quân đội của một giai cấp, một
nhà nước nhất định, do một giai cấp, một nhà nước tổ chức ra,
nuôi dưỡng và sử dụng nó vào mục đích chính trị. Sức mạnh của
nhà nước trước hết biểu hiện ở sức mạnh của quân đội. Do đó, bao
giờ quân đội cũng phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp, của nhà
nước nhất định, mang bản chất của giai cấp đã sinh ra nó. Khơng
có qn đội của nhiều gia cấp, siêu giai cấp, phi giai cấp. Quân đội
của giai cấp tư sản mang bản chất của giai cấp tư sản, quân đội của
giai cấp công nhân mang bản chất của giai cấp công nhân. Để quân

đội mang bản chất giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản - đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp
cơng nhân.
Đồng thời, V.I.Lênin đã xây dựng hồn chỉnh học thuyết về
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong học thuyết của mình,
V.I.Lênin đã giải quyết thành cơng hàng loạt vấn đề về nguyên tắc
xây dựng một quân đội kiểu mới của giai cấp vơ sản. đó là nguyên
tắc chính trị - xã hội, nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc huấn luyện
- giáo dục. Vấn đề căn bản nhất trong những nguyên tắc xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản lãnh đạo
chặt chẽ quân đội về mọi mặt, là đặt quân đội dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong mọi tình huống. Theo V.I.Lênin, sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội là tất yếu khách quan, là một quy luật nhằm làm
cho Hồng quân tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công


6

nhân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đây là tiêu
chí để phân biệt quân đội kiểu cũ với quân đội kiểu mới, quân đội
cách mạng với quan đội phản cách mạng.
Trung thành và vận dung đúng đắn, sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng và những nguyên tắc
về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản vào điều kiện
cụ thể của cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển kinh nghiệm
truyền thống “dựng nước phải đi đôi với giữ nước” qua mấy nghìn
năm của dân tộc Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế
giới, cũng như kinh nghiệm của bản thân với tinh thần cách mạng
triệt để của giai cấp vơ sản, Hồ Chí Minh đã sớm thấy rõ con

đường cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con đường cách mạng vô
sản. Người kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trơng cậy vào mình; “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”2.
Khi đã tìm thấy con đường cứu nước, xác định được đường
lối cách mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Người đã chủ
động tập trung vào việc xây dựng lực lượng cho cách mạng, trước
hết là lực lượng chính trị và từng bước xây dựng lực lượng vũ
trang, chuẩn bị cho việc tiến hành cách mạng bạo lực ở Việt Nam.
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà nội, 2000, Tập 12, tr. 304.


7

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lực lượng để tiến hành
cách mạng bạo lực không phải chỉ là lực lượng vũ trang, phương
thức tiến hành cách mạng bạo lực không phải chỉ là đấu tranh quân
sự. Người đã chỉ rõ: cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa vào
hai lực lượng: lực lượng chính trị của tồn dân và lực lượng vũ
trang nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng
lực lượng vũ trang. Phương thức tiến hành cách mạng bạo lực phải
vừa là đấu tranh chính trị, vừa là đấu tranh quân sự, phải kết hợp
hai phương thức ấy cho phù hợp với tình hình từng nơi, từng lúc để
giành thắng lợi.
Khi đã có chính quyền thì khẩn trương phát triển lực lượng,
chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù bằng bạo lực

cách mạng để giữ vững chính quyền. Khi buộc phải kháng chiến
thì kiên quyết động viên tồn dân đứng lên chiến đấu, với tinh thần
“ Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
khơng chịu làm nơ lệ”3. “Hễ cịn một tên xâm lược trên đất nước
ta, thì cịn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”4.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, trong
Chánh cương vắn tắt của Đảng (tháng 2 năm 1930), Nguyễn ái
Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh ) đã đề xuất việc: “Tổ
chức ra quân đội công nông” và tiếp sau đó là Luận cương Chính
trị của Đảng (tháng 10 năm 1930) đã nêu vấn đề “vũ trang cho
3
4

S.đ.d, Tập 4, tr. 480.
S.đ.d, Tập 12, tr.407.


8

công nông”, “lập quân đội công nông”, “tổ chức đội tự vệ công
nông”. Tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng năm 1935, Đảng đã ra
Nghị quyết về tổ chức và lãnh đạo tự vệ thường trực, đã chỉ rõ:
công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất
của Trung ương, quân uỷ Đảng Cộng sản... luôn luôn phải giữ
quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ. Đảng cho
rằng, việc tổ chức ra quân đội để tiến hành đấu tranh cách mạng là
một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt nam,
cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cách
mạng, Đảng rất coi trọng xây dựng lực lượng quân sự và giữ quyền

lãnh đạo chặt chẽ quân sự trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Khơng
những tổ chức ra qn đội, Đảng cịn xác định sự tất yếu phải lãnh
đạo quan đội đó. Quyền lãnh đạo quân đội thuộc về đảng duy nhất
là Đảng Cộng sản Việt Nam, khơng phân quyền lãnh đạo đó cho
một giai cấp nào, một tổ chức, một đảng phái nào khác. Trong điều
kiện lịch sử nhất định, về sách lược, có thể có sự liên hiệp nhất
định trong mặt trận, trong chính quyền, nhưng quân đội là lực
lượng vũ trang của Đảng, cơng cụ chủ yếu của Nhà nước chun
chính vơ sản, thì Đảng phải nắm quyền lãnh đạo. Có như vậy thì
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội mới vững chắc và thích hợp
với tính chất, đặc điểm của quân đội. Chính nhờ nắm chắc và lãnh
đạo chặt chẽ quân đội mà Đảng đã phát huy được sức mạnh của


9

quân đội, làm cho quân đội luôn mang bản chất giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân,
không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng và lãnh
đạo quân đội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức và lãnh đạo quân đội của
các Đảng cộng sản thế giới đã chỉ rõ: bất kỳ ở đâu, trong tình
huống nào Đảng Cộng sản phải thường xuyên nắm chắc và giữ vai
trò lãnh đạo đối với qn đội thì qn đội mới ln là lực lượng
trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nếu khi nào Đảng
Cộng sản bng lỏng sự lãnh đạo của mình đối với quan đội, lập
tức quân đội xa rời mục tiêu chiến đấu, bị mất phương hướng chiến
đấu, dẫn đến biến chất và bị kẻ thù vơ hiệu hố, trở thành lực
lượng đối trọng của giai cấp, của nhà nước đã tổ chức ra nó. Thực

tiễn của cách mạng Việt Nam hơn 60 năm qua đã khẳng định: Sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động
phức tạp, sâu sắc và mau lẹ, đang đặt ra yêu cầu cao cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta không một phút lơ
là đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng ta đã xác định: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ


10

nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an tồn xã hội và nền văn
hố; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”. Sự nghiệp
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Qn đội nhân dân
là lực lượng nịng cốt. Do đó, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây
dựng Quân đội nhân dân: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây dựng chính
trị làm cơ sở, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thực trạng nhận thức, trách nhiệm của một số tổ chức đảng và
đảng viên cũng như cơ chế tổ chức thực hiện nguyên tắc lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội còn
những vấn đề bất cập; chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ
và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện sự chống phá cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới bằng chiến lược
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ. Chúng coi Việt Nam là một

trọng điểm cần phải tập trung chống phá nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo
của Đảng đối với cách mạng nước ta, tiến tới xoá bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa. Một trong những âm mưu thủ đoạn của chiến lược
“diễn biến hồ bình ” là “phi chính trị hố qn đội”, tách qn đội
ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội phai nhạt bản chất
giai cấp công nhân, xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu, mất


11

phương hướng chính trị, qn đội khơng cịn là cơng cụ bạo lực
sắc bén, lực lượng tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của chế độ
xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng nếu không làm cho quân đội suy
yếu, dao động về mặt tư tưởng, mất lòng tin vào Đảng, vào chế
độ... thì khơng thể giành thắng lợi ở Việt Nam bằng chiến lược
“diễn biến hồ bình”, vì vậy chúng đưa ra những luận điệu xuyên
tạc, phản động như “quân đội là của chung dân tộc, làm nhiệm vụ
chống giặc ngoại xâm chứ không phải để bảo vệ chế độ”, “quân
đội mang bản chất nhân dân chứ không mang bản chất của giai cấp
công nhân”... thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo
của Đảng, vô hiệu hoá quân đội, nhằm thực hiện âm mưu thâm độc
của chúng như đã từng diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên xô trước đây. Từ tình hình thực tiễn trên đây địi hỏi
chúng ta phải bình tĩnh, sáng suốt và nhạy bén xử trí có hiệu quả
các tình huống xảy ra, phải kiên định những vấn đề có tính ngun
tắc về chiến lược, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt về sách lược.
Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận lý luận, tư tưởng nhằm đập tan
những luận điệu xuyên tạc và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
phá hoại của kẻ thù. Một trong những biện pháp quan trọng đó là
đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận để bảo

vệ và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp
công nhân. Đồng thời phải coi việc thường xuyên giữ vững và tăng


12

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một tất yếu khách
quan trong tình hình hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, không những tổ chức ra Quân đội
nhân dân Viẹt Nam, mà còn lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân
đội ta, xây dựng quân đội thực sự là quân đội cách mạng của giai
cấp công nhân, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”,
mang bản chất của giai cấp công nhân. Trải qua hơn 60 năm xây
dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, quân đội ta đã làm nên truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của
mình, đó là “ Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ
nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”.
Để thực hiện sự lãnh đạo đối với Quân đội nhân dan Việt
Nam, Đảng ta đã định ra nguyên tắc: Đảng lãnh đạo Quân đội nhân
dan Việt Nam tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt. Đây là nguyên tắc cơ
bản nhất trong hệ thống các nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu
mới của giai cấp công nhân. Nguyên tắc này chi phối đến quá trình
xây dựng tổ chức và hoạt động của quân đội, chi phối các ngun
tắc khác, nó quyết định đến phương hướng chính trị, bản chất giai
cấp công nhân, nội dung phương thức hoạt động, mục tiêu chiến
đấu, đối tượng tác chiến của quân đội. Nguyên tắc này nhằm xây
dựng, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, xác



13

định rõ chức năng chính trị xã hội cho quân đội, bảo đảm cho
Đảng luôn nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt chẽ quân đội trong
mọi tình huống, làm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc, với nhân dân, thực sự là quân đội “từ nhân dân mà ra,
vì nhân dân mà chiến đấu”, ln có đủ sức mạnh để chiến đấu và
chiến thắng mọi kẻ thù.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng và đặc
điểm về tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của quân đội,
trong từng giai đoạn cụ thể của cách mạng, tên gọi của nguyên tắc
có khác nhau, nhưng tư tưởng cơ bản, xuyên suốt của nguyên tắc
là, Đảng ta khẳng định dứt khoát quyền lãnh đạo quân đội là thuộc
về Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lãnh
đạo đó khơng chia sẻ cho bất cứ một đảng phái nào, một tổ chức
nào, một cá nhân nào. Sự lãnh đạo đó là lãnh đạo trực tiếp không
thông qua một khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian nào.
Đồng thời sự lãnh đạo đó trên tất cả các lĩnh vực hoạt động chính
trị, tư tưởng, tổ chức; trên tất cả các mặt cơng tác: qn sự, chính
trị, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các nhiệm vụ chiến đấu, huấn
luyện, xây dựng, lao động sản xuất và làm nghĩa vụ quốc tế; lãnh
đạo mọi tổ chức, mọi lực lượng của quân đội trong mọi điều kiện
hoàn cảnh. ở đâu và lúc nào có tổ chức và hoạt động của quân đội
là ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với


14


quân đội được thể hiện bằng cơ chế, tổ chức, bộ máy lãnh đạo
đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; sự lãnh đạo đó tập
trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên
trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
- Đảng lãnh đạo định ra đường lối qn sự, đường lối xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân và tiến hành chiến tranh nhân dân.
- Lãnh đạo nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa học
quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Lãnh đạo xây dựng trang bị vật chất kỹ thuật và tổ chức
nuôi dưỡng bộ đội.
- Lãnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội.
- Lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong
quân đội.
Để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, Đảng đã xây dựng và khơng ngừng hồn
thiện cơ chế lãnh đạo đối với quân đội cho phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội là phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đối với quân đội trong những giai đoạn cách
mạng, được thể hiện bằng hệ thống các nguyên tắc lãnh đạo, phù


15

hợp với nguyên tắc đó là hệ thống tổ chức hoàn chỉnh, hợp lý,
được tổ chức từ cơ sở đến toàn quân, nhằm bảo đảm cho Đảng

lãnh đạo chặt chẽ quân đội, phát huy cao độ trách nhiệm của người
chỉ huy, nâng cao năng lực của các tổ chức đảng và góp phần nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội gồm:
1. Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên trực tiếp là
Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ
chức từ cơ sở đến toàn quân theo quy định của Ban Chấp hành
Trung ương.
3. Các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức đảng phải tuân thủ
nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi
với phân công cá nhân phụ trách, bảo đảm chấp hành nghiêm túc
nghị quyết của Đảng uỷ, mệnh lệnh, chỉ thị của cơ quan chỉ huy
cấp trên.
4. Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo tập thể của tổ chức đảng,
thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội.


16

5. ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm
nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp
uỷ đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội là một thể hoàn chỉnh, thống nhất biện chứng, khơng
tách rời nhau. Q trình thực hiện các nguyên tắc đó cần phải nắm
vững và giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các nguyên tắc, đồng

thời biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể của
mỗi đơn vị, tuyệt đối không được tách rời, đối lập hoặc xem nhẹ
một nguyên tắc nào. Mặt khác phải chú trọng tổng kết

kinh

nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội, tiếp tục nghiên cứu phát triển cả về lý luận
nhằm không ngừng bổ sung và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội trong tình hình hiện nay.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội trong điều kiện hiện nay, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải
pháp. Trong bài tiểu luận này tác giả xin đề xuất một số giải pháp
cơ bản sau đây:
Một là, Chú trọng đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu phát triển lý luận, cụ thể hoá đường lối quân sự, khoa
học nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Đảng lãnh đạo quân đội trước hết bằng đường lối quân sự,
đường lối xây dựng nền quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân


17

dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Do vậy, để tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cần chú trọng đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, cụ
thể hoá đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam cho phù
hợp với yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại. Đường lối quân sự
của Đảng trong giai đoạn hiện nay phải nhằm tăng cường tiềm lực
quốc phòng của đất nước, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân

vững chắc với thế trận chiến tranh nhân dân, gắn quốc phòng, an
ninh với đối ngoại; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp của quân
đội, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, làm cho quân đội có để sức
mạnh đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới,
giữ vững hồ bình, ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển nền
kinh tế đất nước trong xu thế tồn cầu hố, hội nhập nền kinh tế tri
thức.
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô làm cho hệ thống xã hội
chủ nghĩa tan rã, cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào
thoái trào. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra gay
go, quyết liệt, trật tự thế giới bị đảo lộn, cục diện chính trị thế giới
nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù


18

địch. Cuộc cách mạng khoa học phát triển mạnh mẽ như vũ bão,
đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng tình hình
trên nhanh chóng ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào
trong lĩnh vực quốc phòng, phát triển mạnh các loại vũ khí cơng
nghệ cao, ngang nhiên tiến hành chiến tranh xâm lược các nước
độc lập, có chủ quyền. Thực tiễn các cuộc chiến tranh ở Vùng
Vịnh, Nam Tư, Apganistan, I - Rắc diễn ra gần đây cho thấy, phần
lớn các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự của Mỹ sử dụng trong
chiến tranh Việt Nam trước đây đã được đổi mới, hiện đại hoá và

thay thế bằng một thế hệ vũ khí mới - vũ khí cơng nghệ cao. Sự
phát triển của vũ khí cơng nghệ cao kéo theo sự thay đổi nghệ
thuật quân sự, thủ đoạn chiến tranh, phương thức tác chiến... Điều
đó đặt ra cho Đảng ta phải quan tâm lãnh đạo xây dựng quân đội
vững mạnh về mọi mặt, đẩy mạnh tổng kết chiến tranh trong nước
và của thế giới, kế thừa và vận dụng những kinh nghiệm đánh giặc
giữ nước trong lịch sử dân tộc, nghiên cứu, phát triển khoa học
quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cuộc
chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao. Mặt khác
Đảng cần lãnh đạo Nhà nước có kế hoạch phát triển cơng nghiệp
quốc phịng, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng
với kinh tế, sửa chữa, nâng cấp, cải tiến các loại vũ khí, khí tài,
phương tiện kỹ thuật quân sự hiện có trong biên chế của quân đội,


19

đầu tư mua sắm một số loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự
hiện đại trang bị cho quân đội, tạo điều kiện cho quân đội hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình
hình mới.
Hai là, phát huy vai trò của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị, của tồn dân chăn lo xây dựng quân đội vững mạnh về
mọi mặt.
Quân đội là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước,
là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh của Nhà nước được thể hiện ở sức mạnh của quân đội,
sức mạnh của quân đội có tác dụng răn đe kẻ thù, ngăn ngừa chiến
tranh, tạo mơi trường hồ bình, ổn định cho sự phát triển của kinh
tế - xã hội của đất nước. Do vậy, xây dựng quân đội vững mạnh,

trang bị vũ khí cho quan đội và nuôi dưỡng bộ đội là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân, của các thành phần kinh tế và của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo phát huy vai
trò trách nhiệm của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của các
ngành, các địa phương và mọi thành phần kinh tế cùng chăm lo
xây dựng quân đội, trên cơ sở xây dựng, ban hành, thực thi và hoàn
thiện Luật quốc phòng, Luật Sĩ quan trong quân đội nhân dân Việt
Nam, Luật nghĩa vụ quân sự,... cụ thể hoá bằng cơ chế, chính sách
để thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Tạo sự thống nhất trong nhận


20

thức và hành động của các ngành, các cấp, các địa phương, các
thành phần kinh tế và sự đồng thuận trong nhân dân về trách nhiệm
xây dựng quân đội. Khắc phục quan niệm cũ cho rằng quân đội là
gánh nặng của Nhà nước, quân đội chỉ cần cho chiến tranh, ngày
nay trong điều kiện thời binh phải giảm bớt ngân sách dành cho
quốc phịng, từ đó thiếu quan tâm xây dựng quân đội.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội.
Để bảo đảm cho sự lãnh đạo chặt chẽ đối với quân đội, Đảng
định ra cơ chế lãnh đạo. Nắm vững và thực hiện đúng cơ chế,
khơng ngừng hồn thiện cơ chế, làm cho cơ chế đó ln phù hợp
với tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của quân
đội trong từng giai đoạn cách mạng là vấn đề quan trọng nhất để
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội hiện nay đã và đang phát huy hiệu
lực trên thực tế, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Cơ chế lãnh đạo của

Đảng đối với quân đội không phải là cái gì bất biến. Một cơ chế
phát huy tốt phải là một cơ chế luôn vận động phát triển phù hợp
với sự phát triển của nhiệm vụ cách mạng, phù hợp với nhiệm vụ,
tổ chức và hoạt động của quân đội trong từng giai đoạn. Nghiên
cứu, đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quan
đội là một q trình, cần phải có thời gian, khơng thể nóng vội..
Hướng đổi mới, hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân


21

đội phải nhằm vào việc phát huy cao độ vai trò của các tổ chức
đảng, người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị;
giải quýet tốt mối quan hệ của các thành phần trong cơ chế, nhất là
giữa tập thể cấp uỷ với người chỉ huy, giữa người chỉ huy với Bí
thư đảng uỷ, phó chỉ huy về chính trị. Khắc phục cho được biểu
hiện độc đoán, chuyên quyền, ỉ lại tập thể, vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ
trách.
Bốn là, Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội
vững mạnh trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
cao, nâng cao chất lượng hoạt động CTĐ, CTCT.
Đảng lãnh đạo quân đội thông qua hệ thống tổ chức đảng và
thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong quân đội,
thông qua việc tiến hành CTĐ,CTCT trong quân đội. Vì vậy, để
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thì một vấn hết
sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định trực tiếp là phải thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội trong sạch vững mạnh,
nâng cao chất lượng hoạt động CTĐ, CTCT. Kẻ thù xác định muốn
“phi chính trị hố qn đội”, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của

Đảng, trước hết phải làm suy yếu Đảng bộ quân đội. Tuy nhiên
chúng thực hiện được ý đồ đó hay khơng lại do nội bộ đảng bộ
quân đội quyết định. Từ trước đén nay, Đảng luôn quan tâm chăm
lo xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh trong sạch, đó là nguyên


22

nhân quan trọng làm cho quân đội có đủ sức mạnh chiến đấu và
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, là bài học kinh nghiệm rút ra từ
thực tiễn lãnh đạo của Đảng đối với quan đội. Thực tiễn chứng
minh, ở đâu và khi nào tổ chức đảng không mạnh thì ở đó đơn vị
hồn thành nhiệm vụ thấp, thậm chí khơng hồn thành nhiệm vụ,
có khi phải trả giá đắt bằng máu và sinh mệnh của cán bộ, chiến
sỹ.
Bản chất CTĐ, CTCT là hoạt động lãnh đạo của Đảng trong
quân đội. Muốn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
không thể không nâng cao chất lượng hoạt động CTĐ, CTCT.
Trước hết, phải đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả tư tưởng,
củng cố vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng của Đangnr trong
quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn tuỵet đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, kiên định với mục tiêu lý tưởng
chiến đấu của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu
“phi chính trị hố qn đội” của kẻ thù. Hơn lúc nào hết, quân đội
phải thực sự trở thành pháo đài kiên cố trong cuộc đấu tranh giai
cấp trên lĩnh vức chính trị tư tưởng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Đảng phải giáo dục, xây dựng cho quân đội có bản



23

lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, làm cho quân đội thực sự tinh nhuệ về chính trị.
Sắp xếp, kiện tồn các tổ chức cho phù hợp với thế trận quốc
phịng tồn dân trong điều kiện mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở
đảng, bảo đảm cho các tổ chức đảng quán triệt sâu sắc đường lối,
nghị quyết của Đảng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
từng đơn vị để đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, phù
hợp với đặc điểm, nhiệm vụ được giao. Đổi mới quy trình ra nghị
quyết, bảo đảm nghị quyết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Thực hiện tốt các nguyên tắc, nền nếp chế độ sinh hoạt đảng, nhất
là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi phân công
cá nhân phụ trách, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 ) khoá VIII. Kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị
vững mạnh tồn diện. Đẩy mạnh cơng tác phát triển đảng, nâng
dần tỉ lệ chi bộ ở đại đội có cấp uỷ. Nâng tỉ lệ tổ chức đảng trong
sạch vững mạnh thực chất, có biện pháp khắc phục làm giảm tỉ lệ
tổ chức đảng yếu kém, nhất là các tổ chức đảng yếu kém kéo dài.
Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết
là nâng cao vai trò tiền phong, gương mẫu, nói đi đơi với làm. Làm
tốt cơng tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, khắc phục cho
được sự suy thối về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một


24


bộ phận cán bộ, đảng viên. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán
bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ có
đủ đức, đủ tài, đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý,
nhất là cán bộ chủ chốt. Làm tốt công tác kiểm tra, kỷ luật đảng,
kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, kịp thời
đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất, không đủ
tư cách đảng viên. Bảo đảm cho tổ chức đảng luôn trong sạch,
vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm
đồn kết nội bộ, đơn vị.
Xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt động
đúng chức năng, đẩy mạnh công tác thi đua - khen thưởng, xây
dựng mơi trường văn hố, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của
bộ đội. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền, đồn thể và nhân dân địa
phương xây dựng địa bàn an toàn, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội nơi đóng qn.
Năm là, xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính
trị các cấp vững mạnh.
Cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị là người đảm
nhiệm chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị. Chất lượng chính trị của quân
đội, của đơn vị phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực, trách
nhiệm của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị. Đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ, người
chỉ huy các cấp có đến được với mọi cán bộ chiến sỹ hay không,


25

có biến thành hành động cách mạng của cán bộ chiến sỹ và được
thực hiện đầy đủ trong thực tế hay khơng phần lớn là do cơ quan

chính trị và cán bộ chính trị. Đây là những cán bộ, đảng viên của
Đảng hoạt động trong lĩnh vực quân sự, những người đem tiếng
nói của Đảng đến với quần chúng, đồng thời phản ánh cho Đảng
nắm được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng, để Đảng
đề ra chủ trương, chính sách cho phù hợp. Cơ quan chính trị và cán
bộ chính trị là cầu nối liền Đảng với quần chúng, là người chiến sỹ
tiên phong trên mặt trận chính trị tư tưởng đấu tranh chống “diễn
biến hồ bình ” của kẻ địch, chống những nhận thức lệch lạc, quan
điểm sai trái, biểu hiện tiêu cực phát sinh trong nội bộ, bảo vệ cái
đúng, phê phán cái sai. Xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, đội
ngũ cán bộ chính trị có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đủ phẩm
chất và năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu hoạt động CTĐ, CTCT
là biện pháp quan trọng nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội.
Để xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, trước hết phải
củng cố, kiện toàn đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng. Lựa chọn
người đứng đầu cơ quan có đủ các tiêu chuẩn cần thiết, coi trọng
bản lĩnh chính trị, lịng trung thành, thực sự gương mẫu về phẩm
chất đạo đức, lối sống, có nhãn quan chính trị nhạy bén, sắc sảo,
linh hoạt trong xử lý các tình huống chính trị. Lựa chọn, bồi
dưỡng, sử dụng đội ngũ trợ lý, nhân viên cơ quan chính trị có


×