Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.87 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đề tài huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế là một đề tài mà em đã
chọn để nghiên cứu .Đề tài viết về thực trạng huy động các nguồn vốn
trong nền kinh tế nước ta ngững năm gần đây và một số định hướng kinh tế
của Nhà Nước cho việc huy động vốn trong thời gian tới .
Đây là một đề tài rất rộng, nhưng do hạn chế của đề tài và khả năng có
hạn, đề tài được viết làm hai phần :
1, Đặt vấn đề
2, Giải quyết vấn đề
Trong phần giải quyết vấn đề, nó đề cập tới :
•Các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường – khái niệm vai trò, khả
năng khai thác
•Các nguồn vốn đã được khai thác ở Việt Nam
•Một số định hướng cho vấn đề huy động vốn ở nước ta
Mặc dù dưới sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo, em đã cố gắng thu
thập tài liệu để làm bài, song bài viết chắc còn nhiều thiếu sót .Em rất
mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của thầy giáo .

Em xin chân thành cảm ơn thầy
1
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát
triển đáng mừng .Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao so với các nước trên
thế giới và trong khu vực .Tuy nhiên để trở thành một nước phát triển, một
con rồng Châu á thì vẫn còn rất nhiều khó khăn phía trước .Trong vô vàn
khó khăn đó thì vốn là một khó khăn cơ bản cần được giải quyết
Để tăng trưởng đương nhiên là phải cần đến vốn đầu tư, muốn tăng
trưởng càng nhanh thì lượng vốn đầu tư phải càng lớn .Tương quan giữa
hai biến số này được xác định bằng hệ số ICOR (tỉ lệ giữa vốn đầu tư và
giá trị sản phẩm gia tăng do đầu tư )Trong giai đoạn tới nước ta đang đứng


trước một thách thức gay gắt .Điêmt mấu chốt của thách thức đó là làm sao
có được sự tăng trưởng kinh tế cao, liên tục .Sức ép tăng từ chính các yêu
cầu nội tại (xuất phát điểm thấp, dân số đông, tốc độ tăng trưởng dân số
cao, bước vào quỹ đạo phát triển hiện tại muộn )từ hoàn cảnh quốc tế của
sự phát triển (thời đại tốc độ dịch chuyển nhanh, nằm giữa một khu vực có
tốc độ tăng trưởng và mức độ năng động cao nhất thế giới )đặt ra những
yêu cầu hết sức căng thẳng cho công cuộc tăng trưởng kinh tế nước ta.Có
thể nói, thực chất của vấn đề ở nước ta là :tụt hậu là nguy cơ có thật và
luôn đe doạ .
Các nước phát triển đi trước để lại một kinh nghiệm là: muốn có tốc độ
phát triển kinh tế nhanh thì phải chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH ). Nước ta hiện nay, quá trình
CNH – HĐH đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu về vốn để đổi mới công
nghệ và phát triển là rất lớn
Như vậy vốn trong nền kinh tế nước ta đang là một vấn đề cần thiết và
cấp bách .Muốn có được khối lượng vốn đủ để đáp ứng nhu cầu của nền
2
kinh tế thì vấn đề “ Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta “ là vấn đề quan trọng đầu tiên .Chiến lược huy động vốn có ý
nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thành công các chiến lược kinh tế
xã hội .
Chúng ta cần phải tìm ra các nguồn vốn có khả năng huy động và xác
định được những nguồn vốn chủ đạo .Để giải bài toán về vốn, phải coi
trọng cả hai hình thức tạo vốn từ trong nước và ngoài nước .
Đứng trước xu thế hội nhập khu vực và thế giới, việc cạnh tranh về
vốn ngày một gay gắt .Điều đó đòi hỏi phải đưa ra những phương pháp
thích hợp để huy động một cách có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ cho
nền kinh tế .Vấn đề “ Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam “ là một vấn đề đòi hỏi sự quan tâm không ngừng của
Đảng, Nhà nước cũng như tất cả các cấp các nghành

3
PHẦN II :GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I
Các nguồn vốn trong nền kinh tế thi trường và các nhân tố ảnh hưởng
tới khả năng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế.
Trong chương này ta sẽ xem xét tới kháI niệm cơ bản về vốn, nguồn
vốn nói chung; vai trò của vốn trong nền kinh tế; việc phân loại nguồn vốn;
và từng nguồn vốn cụ thể. Trong từng nguồn vốn cụ thể, chúng ta sẽ phân
tích về đặc đIểm, nội dung của nguồn vốn đó, đồng thời cũng sẽ phân
tích khả năng khai thác và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động
từng nguồn vốn này
I Khái niệm, vai trò của vốn và nguồn vốn.
1.Khái niệm về vốn và nguồn vốn
*)Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông với mục
đích kiếm lời .Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ, nhưng suy
cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động,
nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó với
mục đích là thu về số tiền lớn hơn hoặc số tiền ban đầu .
*)Nguồn vốn chính là nơi mà từ đó có thể khai thác được một số lượng
vốn nào đó để phục vụ cho nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội .
2.Vai trò của vốn trong nền kinh tế
Trước hết, ta có thể nói rằng, vốn là một trong năm yếu tố quan
trọng nhất trong mọi quá trình sản xuất đó là :nhân lực, vật lực, tài lực
(vốn ), thông tin và sự quản lý .Nếu thiếu vốn thì quá trình sản xuât sẽ
không thể được tiến hành
4
Vốn cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng đối vơi các nước đang phát
triển nói chung, và Việt Nam nói riêng để các nước này có thể tiến hành
đổi mới nền kinh tế, đưa nền kinh tế tiến kịp với các nước phát triển
.Việt Nam là một nước tiến hành CNH – HĐH muộn so với thế giới, mặt

khác lại có xuất phát điểm thấp, đó là những khó khăn cản trở sự phát
triển kinh tế .Để khắc phục những khó khăn này thì vốn đóng vai trò rất
quan trọng .Nước ta cần phải có một lượng vốn lớn để xây dựng và nâng
cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đôi
rmới thiết bị công nghệ cho quá trình sản xuất .Nền kinh tế không thể phát
triển được nếu thiếu một cơ sở hạ tầng thuận lợi, đồng bộ .Cơ sở hạ tầng
của nước ta hiện nay tuy đã có những tiến bộ song vẫn đang ở mức thấp
kém .Đó là một yếu tố làm giảm tính hấp dẫn của các nhà đầu tư nước
ngoài .Nguồn nhân lực nước ta có rất nhiều lợi thế song tay nghề lại
thấp .Máy móc thiết bị sử dụng trong quá trình sản xuất phần lớn là lạc hậu
so với các nước phát triển Tất cả những điều đó đòi hỏi Nhà Nước phải
có các giảI pháp thích hợp để huy động được một lượng vốn đủ lớn để,
thực hiện việc “đi trước đón đầu “.
3 .Phân loại nguồn vốn
Có một số cách đẻ phân loại nguồn vốn dựa vào tính chất của chúng cũng
như nội dung, mục đích nghiên cứu .Xét về mặt định lượng, có ba
nguồn vốn chủ yếu có thể huy động cho đầu tư phát triển là :
3.1Nguồn vốn Nhà Nước
Nguồn này bao gồm :
• Ngân sách Nhà Nước
• Vốn trong các doanh nghiệp Nhà Nước
• Vốn tài sản công, tài sản quốc gia
5
3.2Nguồn vốn trong dân cư
3.3Nguồn vốn nước ngoài :gồm bốn bộ phận cấu thành chủ yếu là:
• Nguồn ODA
• Nguồn vay thương mại
• Nguồn kiều hối
• Nguồn vốn FDI
Dưới đây, ta sẽ đi vào xem xét về đặc điểm, khả năng khai thác và

các yếu tố ảnh hưởng của từng nguồn vốn cụ thể
II Các nguồn vốn từ trong nước
1. Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn này bao gồm :
1.1 Ngân sách Nhà nước
*) Về hình thức NSNN là một bảng tổng hợp các khoản thu và các
khoản chi của Nhà nước trong một năm tài chính theo dự toán ngân sách đã
duyệt ( thông thường một năm tài chính được tính từ 1/1-31/12 )
*)Về bản chất kinh tế thì NSNN thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước với các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tầng
lớp dân cư, các tổ chức trung gian tài chính, thị trường tài chính .
Vai trò của NSNN: Huy động nguồn tài chính, đảm bảo nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước .Nó thông qua các nguồn thu từ thuế, lệ phí, vay
nợ, viện trợ để hình thành nên quỹ NSNN và từ quỹ này Nhà nước dùng
để chi tiêu, để thực hiện các chức năng của mình .Để thực hiện tốt các
vai trò naỳ thì yêu cầu đặt ra đối với thu NSNN là :
6
- Thứ nhất :mức động viên các nguồn tài chính từ các đơn vị cơ sở
để hình thành nguồn thu của NSNN phải phù hợp .
- Thứ hai: các công cụ được sử dụng tạo nguồn thu cho NSNN và
thực hiện các khoản chi NSNN phải phù hợp
- Thứ ba: tỉ lệ động viên của NSNN trên tổng sản phẩm quốc dân
phải hợp lý .NSNN còn có vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã
hội .Nó được thể hiện trong ba nội dung cơ bản sau
- Thứ nhất: kích thích sự tăng trưởng kinh tế .Nhà nước sẽ sử dụng
thuế và chi đầu tư để hướng dẫn, kích thích và tạo sức ép đối với các chủ
thể của các hoạt động kinh tế .Vận dụng một thuế suất hợp lý sẽ có tác
dụng hướng dẫn, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng hoạt
động kinh doanh tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thu hút vốn
đầu tư và định hướng đầu tư của khu vực doanh nghiệp .

- Thứ hai: điều tiết thi trường giá cả, chống lạm phát .Nhà nước
sẽ sử dụng các chính sách Ngân sách để can thiệp vào thị trương thông qua
các khoản chi của NSNN dưới hình thức tài trợ vốn, trợ gía và sử dụng
các quỹ dự trứ Nhà nước về hàng hoá và dự trữ tài chính .
- Thứ ba :điều tiết thu nhập để thực hiện công bằng xã hội, Để
thực hiện vai trò này, NSNN sẽ áp dụng một mức thuế thu nhập hợp lý
để đánh vào những người có thu nhập cao, lamf giảm bớt chênh lệch,
rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong xã hội .
NSNN được hình thành trên tất cả các khoản thu mà có .Để quản lý
các nguồn thu tốt người ta phải tiến hành phân loại các nguồn thu .
- Nếu dựa vào nguồn hình thành thì phân thành :
• Nguồn thu trong nước
7
• Nguồn thu ngoài nước
- Nếu dựa vào hình thức thu thì phân thành :
• Thu trong cân đối (thu tích cực ): đây là các khoản thu từ thuế,
lợi tức cổ phần của Nhà nước, từ việc Nhà nước kinh doanh, từ bán tài sản
của Nhà nước,
• Thu để bù đắp thiếu hụt (thu để cân đối ): đây là khoản thu từ
nợ, viện trợ, phát hành giấy bạc .
Chi NSNN có thể đựoc chia làm 5 loại chi chính
- Chi cho đầu tư phát triển kinh tế
- Chi cho văn hoá xã hội
- Chi cho quốc phòng
- Chi để quản lý hành chính Nhà nước
- Chi cho việc dự trữ và trả nợ
Khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu sé phát sinh thâm hụt NSNN
.Thâm hụt NS không nhất thiết là một điều xấu .Thực tế nhiều kinh tế gia
khuyến khích chính phủ can thiệp mỗi khi nền kinh tế suy sụp vì chính phủ
mua hàng hoá và dịch vụ thì nạn thất nghiệp sẽ không trầm trọng như khi

chính phủ không làm gì cả .
Ngược với thâm hụt NS là thặng dư NS .Có quan điểm cho rằng:
trong thời kỳ kinh tế tốt lành, chính phủ phải kiêm chế chi tiêu, không
phải chi vì nền kinh tế có thể tự phát triển mà còn do chi tiêu dư thừa của
chính phủ sẽ có thể gây lạm phát .
Do thuế là một nguồn thu chủ yếu của NSNN ( chiếm hơn 90 % )cho
nên việc huy động vốn NSNN phu thuộc rất nhiều vào chính sách thuế .Cải
8
cách thuế có tác động trực tiếp tới NSNN, việc miễn giảm thuế cần đi
đôi với việc mở rộng phạm vi và đối tượng nột thuế nhằm bào đảm quy mô
của NSNN .Nói chung, có rất nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tơí NSNN,
nó bao gồm tất cả những hoạt động mà từ đó Nhà nước có thể thu được các
khoản thuế, lệ phí, hay tất cả các khoản thu bằng tiền khác
1.2 Vốn trong các DNNN và vốn tài sản công, tài sản quốc gia .
Đây là nguồn lực vật chất to lớn nhất của Nhà nước, nguồn vốn này
do các doanh nghiệp Nhà nứoc quản lý .Ngoài ra nguồn tài sản công ở dạng
tiềm năng là tài sản Nhà nứoc do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn
vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý
Những tài nguyên quốc gia ở trên, dưới mặt đất, mặt nước là
không thể ước tính đựoc hết do được khảo sát tường tận và chưa có đinhj
giá trị chính xác, đầy đủ .
Để huy động được nguồn vốn này thì đòi hỏi phải có sự quản lý hiệu
quả ở các doanh nghiệp Nhà nước .Tiếp tục thực hiện việc sắp xếp lại các
DNNN .Quản lý tốt các tài sản công, tài sản quốc gia .Mặt khác cần đâỷ
nhanh công tác thăm dò tìm kiếm và khai thác các tài nguyên thiên nhiên
sẵn có. Nguồn vốn này chịu ảnh hưởng chủ yếu từ sự quản lý của Nhà
nước, của bộ máy cán bộ Nhà nước có liên quan, có thẩm quyền quyết
định
2 .Nguồn vốn trong dân cư
Đây là nguồn vốn tích kiệm trong các hộ gia đình dưới dạn tiền hoặc

các tài sản có giá :vàng, bạc, đá quý .đồ cổ chưa được huy động vào
quá trình sản xuất .
Theo điều tra và ước tính của bộ Kế hoạch đầu tư và Tổng cục thống
kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 6-8 tỷ $ trong đó
9
- 44% của dân là để dành mua vàng ngoại tệ
- 20% là mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt
- 17% là gửi tích kiệm chủ yếu là ngắn hạn
- 19% là được dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư .chủ yếu là ngắn
hạn .
Như vậy chỉ có khoảng 36 % vốn hiện có trong dân là được huy động
cho đâu tư phát triển .Vốn trong dân cư hiện vẫn là nguồn vốn có tiềm năng
vốn và khả năng khai thác cao .
Khi thu nhập quốc dân trên đầu người tăng lên thì lượng vốn trong dân
cũng tăng theo. Như vậy, cùng với sự tăng lên của thu nhập quốc dân thì
nguồn vốn trong dân cư cũng ngày một lớn .Trong tương lai đây cũng là
nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế .
Nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động nguồn vốn này chủ yếu là
các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân phù hợp từ phía Nhà nước;
lòng tin của người dân đối với Nhà nước; các chính sách vĩ mô của Nhà
nước; đồng thời phải có sự hiểu biết của người dân đối với công việc kinh
doanh, làm kinh tế…
3 .Nguồn vốn sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn .
Đây thực chất cũng là một nguồn vốn mà chúng ta cần phải chú ý .sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn sẽ đem lại các mối lợi như :tích kiệm chi
phí ;làm tăng tốc độ quay vòng vốn ;tạo ra niềm tin và sự hào hứng cho
các nhà đầu tư từ đó sẽ có khả năng tiếp tục huy động được các luồng vốn
lớn Ngoài ra nó còn đem lại nhiều lợi ích về mặt xã hội khác mà không
thể tính được hết .Huy động vốn là một việc cần thiết và cấp bách, song
10

sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn lại là một vấn đề quan trọng
nhất đối với mọi quôc gia .Nó là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải
có sự quản lý thống nhất của Nhà nước, các cấp, các ngành và cả tinh
thần trách nhiệm của mỗi người lao động .Nó đòi hỏi phải có đầy đủ các
chuyên gia am hiểu những vấn đề về kinh tế, xây dựng, đầu tư
Trong điều kiện hiện nay sử dụng hiệu quả các nguồn vốn là một
nguồn vốn quan trọng .Nó vừa làm tăng lượng vốn do những lợi ích nó
đem lại, vừa tạo uy tín để thu hút các nguòn vốn khác.
Việc huy động có hiệu quả nguồn vốn này là rất khó khăn. Nó là kết
quả của việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh
tế. Như vậy việc quản lý vốn nói riêng và quản lý kinh tế nói chung là
nhân tố quan trọng nhất tác động tới việc huy động nguồn vốn này. Nguồn
vốn này có được huy động hay không là phụ thuộc rất lớn vào yếu tố khoa
học kết hợp với yếu tố nghệ thuật trong công việc quản lý.
III. Các nguồn vốn từ nước ngoài
Nguồn vốn từ nước ngoài đưa vào các nước đang phát triển được thực
hiện qua nhiều hình thức
1. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODF).
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế, chính phủ (hoặc các
cơ quan đại diện chính phủ )cung cấp .Các tổ chức quốc tế như :chương
trình phát triển liên hợp quốc (UNDP)Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nhóm
ngân hàng thế giới (WB) -bao gồm các ngân hàng tái thiết và phát triển
kinh tế ( IBRD), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), ngân hàng phát
triển Châu Phi (AFDB), Quỹ xuất khẩu dầu lửa của khối OPEC, các quỹ
và hiệp hội phát triển khác nhau như :quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
11
(IFAD), uỷ ban hỗ trợ phát triển (DAC) cùng các chính phủ là các đối
tượng cung cấp chủ yếu .
Đặc điểm của các loại vốn này là mức ưu đãi về lãi suất, thời hạn vay dài,
khối lượng vốn vay tương đối lớn .

Nguồn ODF bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình
thức ODF khác nhau .ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu trong nguồn ODF .
Nguồn ODA –Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triẻn nó mang
tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác .Thông thường trong
ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại .Phần này khoảng dưới
25%tổng số .Yếu tố cho không được xác định dựa vào việc so sánh mức lãi
suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại .
Mục tiêu tổng quát của ODF là hỗ trợ các nước nghèo thực hiện những
chương trình phát triển và tăng phúc lơị của mình. Tuy nhiên, tính ưu đãi
dành cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện ràng buộc tương đối
khắt khe(tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thanh
toán ). Đôi khi ODA nhất là các khoản do chính phủ cung cấp thường đi
kèm các ràng buộc nào đó về chính trị, xã hội, quân sự với những điều
kiện đó, không phải nước nào cũng có thể nhận được viện trợ hoặc sử
dụng có hiệu quả cao trong hoàn cảnh riêng của mình. Vốn để là chỗ trong
một số trường hợp, các điều kiện, về thực chất là yêu sách của các nước
cung cấp viện trợ mà các nhận viện trợ không thể đáp ứng Chẳng hạn như
các vấn đề về nhân quyền, về định hướng xã hội hoặc thoả mãn các lợi
ích cục bộ về kinh tế và an ninh của nước cung cấp viện trợ .Ngay cả về
mặt kinh tế, nhiều dự án tài trợ do đi tìm một số ràng buộc như phải mua
hàng hoá, thiết bị công nghệ kỹ thuật hay thuê chuyên gia từ chính nơi
cung cấp viện trợ, có giá trị thực tế lớn hơn nhiều so với gía trị thưcj tế
12
trong hiệp định và được thực hiện mà không kèm theo những ràng buộc
đó .
Nhận xét về tình hình này, một số chuyên gia kinh tế học phát triển
của trường đại học Havert (Mỹ )viết “ bên cấp viện trợ và các nguồn vốn
chính thức khác thường cố gắng lợi dụng sự tương hợp của mình như một
đòn bẩy để đạt được các mục tiêu chính sách riêng .Họ gắn quỹ viện trợ với
việc mua hàng hoá và dịch vụ ở nước họ như một biện pháp nhằm tăng

cường khả năng làm chủ thị trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của
viện trợ đối với cán cân thanh toán các nước cấp viện trợ cả đa phương
và song phương đều sử dụng viện trợ làm công cụ buộc các nước đang
phát triển phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của
bên cấp viện trợ ‘
Như vậy để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất,
cần phải xem xét dự án tài trợ trong điều kiện tài chính tổng thể .Nếu
không, việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài
trong nền kinh tế .Điều đó còn hàm ý rằng ngoài những yếu tố thuộc nội
dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có nghệ thuật
thoả thuận vừa có thể chấp nhận được vốn, vừa bảo tồn được các mục
tiêu có tính nguyên tắc của mình .
Nguồn vốn ODA chiêm sphần chủ yếu trong ODF và ODA là một nguồn
vốn rất quan trọng để phát triển kinh tế .Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh
vực của từng nước tài trợ có khác nhau, song nhìn chung các nhà tài trợ
cũng đều quan tâm tới giáo dục, y tế, vận tải, , viễn thông, hỗ
trợ chương trình các nhà tài trợ cũng không quên dành một phần đáng kể
trong ODA để xoá nợ .ODA là nguồn vốn chỉ dành riêng cho các nước
đang phát triển, vì mục tiêu phát triển .
13
Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển, ODA mang tính ưu đãi
cao hơn bất cứ hình thức tài trợ nào khác .Tuy nhiên mỗi nước cung cấp
viện trợ đều có chính sách riêng của mình, tập chung vào một số lĩnh vực
mà họ quan tâm hay có khả năng (về công nghệ, kinh nghiệm quản
lý )Đồng thời mục tiêu ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể
cung cấp theo từng giai đoạn cụ thể .Vì vậy nắm được hướng ưu tiên và
tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA cũng có thể thay đổi
trong từng giai đoạn cụ thể .Vì vậy nắm được các hướng ưu tiên và tiềm
năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là một điều rất cần thiết .
Kể từ khi gia đời đến nay viện trợ luôn chữa đựng hai mục tiêu cùng tồn

tại song song
Thứ nhất :thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo đói ở những
nước đang phát triển
Thứ hai :tăngcường lợi ích chính trị của các nước tài trợ .Các nước phát
triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh
hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA
Đánh giá bản chất ODA phải ghi nhớ rằng đó là nguồn vốn có khả
năng gây nợ .Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên
gánh nặng nợ nần thường không thấy ngay .Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn
ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất
khẩu, trong việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ .Do đó khi
hoạch định chính sách phải phối hợp các loại nguồn vốn để tăng cường sức
mạnh kinh tế và khả năng sản xuất .
Nguồn vốn ODA đối với nước ta hiện nay vẫn có một sức hấp dẫn
thậm chí còn hơn cả FDI .Tuy nhiên tài trợ phát triển chính thức là thị
trường vốn đặc biệt căng thẳng về nguồn cung và mang tính cạnh tranh
cao .Để có thể tiếp tục nhận được khối lượng ODA mong muốn, có
14
những chính sách kịp thời phù hợp để giải quyết các vấn đề như: nâng cao
tốc độ giải ngân, chuẩn bị tốt vốn đối ứng, tăng cường năng lực của
nhóm dự án ODA Đó cũng là những yếu tố nhằm nâng cao lòng tin của
các nước, tổ chức cung cấp ODA cho nước tiếp nhận ODA và là những
yếu tố trực tiếp tác động đến khả năng huy động nguồn vốn này. Ngoài ra,
những mối quan hệ ngoại giao hữu nghị, tăng cường tình bạn với các
quốc gia trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá cũng là một yếu tố
nhằm nâng cao khả năng huy động nguồn vốn ODA trong thời gian tới.
2.Nguồn vay tư nhân .
Đây là nguồn vốn mà bên cho vay là cá nhân hoặc tổ chức người nước
ngoài .Các điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như ODF
.Song bù lại, nó có ưu diểm rõ ràng là hầu như không gắn với các ràng

buộc chính trị xã hội .Tuy vậy thủ tục khắt khe, thời hạn trả nợ nghiêm
ngặt mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo .
Bộ phận lớn nhất của vốn vay này là từ các NHTM trên thế giới .Do
mức lãi suất cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh NH (tránh rủi ro
do tình hình bất ổn định ở nước đi vay, của thị trường thế giới hoặc của
xu hướng lãi suất quốc tế ) vốn được sử dụng chủ yếu để đáp ứng các nhu
cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn .
Một bộ phận quan trọng khác của loại vốn vay này được dùng để đầu
tư phát triển và mang tính dài hạn .Tỉ trọng cua vốn dài hạn trong tổng số
có thể tăng lên đáng kể nếu triển vọng phát triển lâu dài, đặc biệt là tăng
trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa .
Cũng như ODF, nguồn vốn vay tư nhân sẽ phát sinh các khoản nợ
cho nước đi vay .Trong không ít trờng hợp các khoản nợ này tạo thành
gánh nặng khủng khiếp cho các nước đang phát triển .Nhiều nứoc đang
phát triển đang lâm vào cảnh nợ nước ngoài chồng chất và ngày càng mất
15
khả năng trả nợ .Tình trạng này, ở những thời điểm gay cấn có thể gây ra
khủng hoảng nợ tonà cầu, đe doạ sự tồn tại của hệ thống tài chính quốc
tế .
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 Châu A là một ví dụ mới
nhất .Đây là một cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Thái Lan, sau đố
nhanh chóng lan ra các nước trong khu vực và trên thế giới .Nguyên nhân
của cuộc khủng hoảng này là do Thái Lan nói riêng và các nươc trong khu
vực Đông Nam A nói chung đã quá dễ dãi, không kiểm soát các nguồn
vốn ngắn hạn đổ vào nước mình. Đó là những “đồng tiền nóng " rất nguy
hại đối với nước đang phát triển qúa nôn nóng với việc tăng tỉ lệ tăng
trưởng kinh tế .
Nguồn vay tư nhân là nguồn vay quan trọng để đáp ứng các yêu cầu về
xuất-nhập khầu .Tuy nhiên, nó thường là ngắn hạn do đó Nhà nước cần
kiểm soat nguồn vốn này một cách chặt chẽ .Tuy nhiên nếu nền kinh tế có

triển vọng phát triển trong dài hạn thì bộ phận vay dài hạn trong nguồn vốn
này sẽ được tăng lên, lúc đó nó không chỉ dùng cho yêu cầu về xuất nhập
khẩu mà còn dùng để phát triển sản xuất .Nếu tình hình xuất nhập khẩu
tăng lên thì loại vốn này sẽ được đổ vào nhiều hơn .
Nếu mức lãi suất của nước tiếp nhận vốn nước ngoài so với lãi suất
quốc tế càng cao thì sức hút đôí với dòng vốn vay này chảy vào càng mạnh.
Ngoài ra sư giảm thấp tương đối của lãi suất quốc tế còn đồng nghĩa với sự
giảm xuống tương ứng cuả khối lượng lãi phải trả cho nước ngoài. Trong
điều kiện toàn cầu hoá và mở cửa, mức lãi suất trong nước tương đối cao
hơn còn là vũ khí hiệu nghiệm để chính phủ có thể bảo vệ đưọc nguồn lực
khan hiếm vào bậc nhất của các nước nghèo, đó là vốn
Tỷ giá hối đoái là một yếu tố quan trọng bậc nhất đối với việc thu hút
vốn từ nguồn vay tư nhân. Cả nguyên tắc lý thuyết lẫn kinh nghiệm thực
16
tiễn đều xác nhận rằng: khi tỷ giá hối đoái càng mềm, tức là khả năng
sinh lợi từ xuất khẩu càng lớn thì sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng
lớn .Vấn đề là ở chỗ một nước có tăng trưởng xuất khẩu cao thì khả năng
trả nợ của nó cũng sẽ bảo đảm hơn. Khi đó đối với bên cho vay ( cũng như
với các nhà đầu tư ), độ mạo hiểm sẽ giảm xuống.Hơn thế, trong mô thức
tăng trưởng kinh tế hiện đại, tăng trưởng xuất khẩu cũng đồng nghĩa với
tăng trưởng kinh tế nói chung. Một tỷ giá hối đoái phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế của đất nước sẽ tạo ra khả năng thúc đẩy xuất khẩu, vì
thế có vai trò trực tiếp to lớn đối với việc huy động thật hiệu quả nguồn vốn
Trong những hoàn cảnh cụ thể, việc tăng hay giảm lãi suất hay làm
tỷ giá hối đoái cứng hoặc mềm hơn nhằm mục tiêu mở rộng dòng vốn nươc
ngoài chảy vào phải đặt trong giới hạn không được phá vỡ các mục tiêu cơ
bản khác của chính sách tiền tệ và sự ổn đinh vĩ mô .Ngoài ra, vốn vay
tư nhân còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: mức độ ổn định của tiền
;tỉ lệ lạm phát ;môi trường pháp lý ;năng lực tăng trưởng của nền kinh tế
;tình hình nợ nước ngoài

Nguồn vốn vay tư nhân ở nước ta hiện nay chưa được khai thác một
cách có hiệu quả .Trong giai đoạn tới, với sự ổn định và phát triển của
nền kinh tế cũng như tình hình chính trị xã hội, việc huy động nguồn vốn
nay sẽ được nâng cao hơn nữa một cách đùng mức
3, Đầu tư nước ngoài trực tiếp
( Foreign Direct Investment-FDI )
Đây là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng
vốn đầu tư là một chủ thể .
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn do chủ thể người nước ngoài bỏ vốn vào
đầu tư và họ trực tiếp sử dụng vốn này, tức là họ trực tiếp tham gia vào
17
quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư vào vận hành các kết quả đầu tư
nhằm thu hồi đủ số vốn đã bỏ ra .
Nguồn vốn FDI có những điểm khác biệt cơ bản với các nguồn vốn vay
nước ngoài mà ta đã nói ở trên
- Thứ nhất: FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà còn đi
kèm với vốn là cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực
Marketing .
- Thứ hai: việc tiếp nhận FDI không làm phát sinh nợ cho nước tiếp
nhận .Thay cho lãi suất, nứơc đầu tư được nhận phần lợi nhuận thích đáng
khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả .
Do đầu tư trực tiếp mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh nên nó
thúc đẩy sự phát triển về các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi
cao về kỹ thuật-công nghệ, hay những ngành nghề cần nhiều vốn.Vì thế
FDI có tác dụng cực kỳ quan trọng với quá trình CNH, chuyển dịch cơ
cầu và tăng trưởng nhanh ở nước ta .Kinh nghiệm phát triển hiện đại của
một số nước Đông Nam A cho thây: FDI là nguồn lực đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình tăng trưởng thần kỳ của nó .Các nhân tố chủ yếu
tác động tới việc thu hút FDI :
- Sự ổn định về kinh tế và chính trị xã hội, luật pháp đầu tư

- Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu
tư nước ngoài
- Sự phát triển cơ sở hạ tầng
- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa hoc công
nghệ và hệ thống DN trong nước và trên địa bàn
18
Hiện nay, nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn nước ngoài quan trọng
nhất ở nước ta. Song bản thân FDI chưa đựng tính hai mặt mà ta cần phải
hiểu rõ để từ đó tận dụng, khai thác triệt để những lợi thế và hạn chế tối
đa mặt trái của nó
*) Những lợi thế của FDI đối với các nước nhận đầu tư
 Một là: FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự
thiều hụt về vốn-ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước
kém phát triển .Hầu hết các nước kém phát triển đều bị rơi vào " vòng luẩn
quẩn " là: thu nhập thấp dẫn tới tiết kiệm thấp, vì vây đầu tư thấp và rồi
hậu quả lại là thu nhập thấp .
Điểm nút quan trọng nhất trong vòng luẩn quẩn này đó là vốn đầu tư
và kỹ thuật .Vồn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước .đổi
mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động từ đó tao điều kiện
để tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của xã hội .Tuy nhiên để
tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó
tránh khỏi là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới .Do đó vốn
nước ngoài đặc biệt là FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình
trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư .FDI góp phần làm
tăng khả năng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của
nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ công ty nước ngoài, thu
ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI .
 Hai là :lợi ích quan trọng mà FDI đem lại đó là công nghệ kỹ thuật
hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý của nước đi trước .
Về lâu dài thì đây chính là lợi ích căn bản nhất đôi với các nước nhận

đầu tư .FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật trong các nước nhận đầu tư
như :góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành
của sản phẩm và suất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là
19
những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao .Vì thế nó có tác dụng lớn
đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu tăng trưởng nhanh
ở các nước nhận đầu tư .
FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ
kỹ thuật cho các đỗi tác trong nước nhận đầu tư thông qua những chương
trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm .Trong thực tế, hầu hết các
nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ kỹ thuật, công nghệ của
mình .
 Ba là :lợi ích về tạo ra công ăn việc làm .Thực ra đây là một tác động
kép :tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là tăng thu nhập cho người
lao động .Từ đó tao điều kiện tăng tích luỹ trong nước
FDI ảnh hưởng trực tiếp tới cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua
việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài .FDI cần
tạo ra việc làm cho các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua
hàng hoá, dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước hoặc thuê họ thông qua
những hợp đồng ra công chế biến .Thực tiễn ở một số nước cho thấy: FDI
đã góp phần tích cực tạo ra công ăn việc làm cho các ngành sử dụng nhiều
lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến .Tuy nhiên sự đóng góp
của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều
vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó
 Bốn là; thông qua FDI, các nươc nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị
trường thế giới .
Các nước đang phát triển nếu có khả năng sản xuất ở mức chi phí có thể
cạnh tranh được thì lại rất khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường
nước ngoài .Trong khi đó thông qua FDI, các nước này có thể tiếp cận đến
thị trường thế giới vì: hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa

quốc gia thực hiện, các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách
20
hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy
tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn
.
Như vậy ta có thể thấy rằng việc tiếp nhận FDI là lợi thế hiển nhiên
mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Tuy nhiên cần xác định rõ: vốn
nước ngoài dù quan trọng đến đầu cũng không thể đóng vai trò quyết định
sự phát triển của môt quốc gia
Bên cạnh những lợi thế nói trên, FDI cũng có những mặt trái của nó
Những mặt trái của FDI đối với các nước nhận đầu tư .
 Một là ; chi phí của việc thu hút FDI .để thu hút FDI, nước nhận
đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như :giảm thuế,
miễn thuế trong một thời gian khá dài cho hâu hết các dự án đầu tư, hoặc
việc trả tiền thuê đất đai, nhà xưởng của họ thấ hơn nhiều so với các nhà
đầu tư trong nước .Hay họ được nhà nước bảo hộ thuế quan cho một số lĩnh
vực .Và như vậy phải đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể lớn hơn lợi ích
của nước nhận được .
 Hai là: các nhà đầu tư thường tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho
các nhân tố đầu vào .Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên
vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực
hiện đầu tư .Việc làm này mang lại những lợi ích cho nhà đầu tư: trốn thuế
của nước chủ nhà đánh vào lợi nhuận cao của nhà đầu tư, hoặc để dấu số
lợi nhuận họ thu đựoc trong thực tế để hạn chế các đối thủ cạnh tranh khác
xâm nhâp vào thị trường .Điều này gây ra chi phí sản xuất cao ở nước chủ
nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hoá do nhà đầu nước ngoài sản xuất ra
với giá cao hơn .Việc tính giá cao hơn xảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông
tin, trình độ kiểm soát, quản lý .chuyên môn yếu, hoặc do chính
sách của Nhà nước đó còn nhiều khe hở
21

 Ba là: các nhà đầu tư thường bị buộc tội là đã chuyển giao công
nghệ kỹ thuật lạc hậu vào nước họ đầu tư .
Do sự phát triển như vũ bão của KHCN nên máy móc thiết bị sẽ bị
lạc hậu nhanh chóng .Các nhà đầu tư muốn thay công nghệ lạc hậu đó bằng
những công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao để hạ giá thành .Việc chuyển
giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư và
đây vẫn đang là vấn đề nan giải cho các nước đang phát triển .
Tuy nhiên mặt trái này cũng phụ thuộc một phần vào chính sách công
nghệ, pháp luật bảo vệ môi trường và khả năng tiếp nhận công nghệ của
nước nhận đầu tư
 Bốn là sản xuất ra hàng hoá không thích hợp .Các nhà đầu tư còn bị
chỉ trích là sản xuất và bán những hàng hóa không thích hợp, thậm chí
đôi khi lại là những hàng hoá có hại cho sức khoẻ con người và gây ô
nhiễm môi trường .VD thuốc lá thuốc trừ sâu
 Năm là những mặt trái khác.
Trong số các nhà đầu tư, không phải không có hoạt động tình báo an
ninh chính trị .
Mục đích của nhà đầu tư là kiếm lời nên họ chỉ đầu tư vào những nơi
có lợi nhất .Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm ra tăng thêm sự
mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị .Sự mất cân đối
này có thể gây ra những rối loạn về chính trị .
Hay FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội .Những người
dân bản xứ có thể bị mua chuộc làm thuê cho các nhà đầu tư biến chất,
thay đổi quan điểm, lối sống, nguy hiểm hơn là có thể phản bội tổ
quốc .
22
Như vậy Nhà nứoc cần có những chính sách thích hợp, có những
biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu
cực của FDI .
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn nước ngoài có khả năng khai thác cao

nhất .Nhịp độ thu hút FDI có xu hướng tăng lên kể cả về số dự án và số
đăng ký từ năm 88 đến nay .Việt Nam là một nươc có nền chính trị ổn định,
trình độ dân trí cao, dân số đông, lao độn thì khá rẻ đó là những lợi
thế góp phần tăng khả năng thu hút FDI cho nền kinh tế.
FDI là nguồn vốn do phía nước ngoàI bỏ vốn vào nước ta để kinh
doanh. Do đó, để huy động được tốt nguồn vốn này, chúng ta có thể hy
sinh một số lợi ích trước mắt( như giảm thuế, cho các công ty nước ngoàI
hưởng một số ưu đãI, …) để tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, một môI trường đầu tư sáng sủa với những đIều kiện
như: hành lang pháp lý thông thoáng; thủ tục hành chính đơn giản gọn nhẹ;
cơ sở hạ tầng hiện đại; các dịch vụ đáp ứng kịp thời; lao động đủ khả năng
làm việc dưới áp lực cao, giá cả vừa phảI; thị trường trong nước khả quan;
… Đó mới là nhân tố quan trọng nhất tác động tới khả năng huy động tốt
nguồn vốn này.
IV .Công cụ để huy động các nguồn vốn
Công cụ huy động vốn là một yếu tố rất quan trọng nhằm giúp cho việc
huy động vốn thành công và có hệu quả cao .Việc sử dụng các công cụ này
một các linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh trong nước, với xu thế phát
triển là một vấn đề rất quan trọng .Dưới đây là một số công cụ chủ yếu để
huy động các nguồn vón trong nền kinh tế .
1. Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian.
23
Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian bao gồm :hệ thống các
NHTM, NH đầu tư phát triển, các công ty tài chính, các hợp tác xã
tín dụng, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí,
Các tổ chức tài chính trung gian chuyên làm nhiệm vụ vay trả và các
nghiệp vụ môi giới giao dịch vốn
Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới được chú ý
hoàn thiện trong những năm gần đây .Do đó cả về số lượng loại hình,
công nghệ phục vụ của chúng ta đã lạc hậu so với thế giới hàng chục

năm .Điều nay gây ra nhiều khó khăn thiệt hại đối với nền kinh tế do không
thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển và do sự phát sinh
tự phát của các hoạt động tài chính không chính thức (với các hình thức
cho vay nặng lãi, chơi phường chơi họ )
Nhà nước cần phải phát triển đa dạng hệ thống các NHTM, các công
ty tài chính, các HTX tín dụng làm nhiệm vụ thu hút vốn từ tất cả các
tầng lớp dân cư, các tổ chức xã hội, các DN để cung ứng cho sản
xuất .mặt khác cần thực hiện một chính sách hợp lý và sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các tổ chức thu hút và cung ứng vốn, đảm bảo giá trị tiền gửi
của người có tiền, hạn chế rủi ro, tăng cường chữ tín trong xã hội và
trong nhân dân cần phải đổi mới hơn nữa công nghệ phục vụ của các tài
chính trung gian, nhằm mục đích phục vụ nhanh gọn và kịp thời các yêu
cầu về mua, bán chéng khoán, ngoại tệ, về thanh toán chuyển
nhượng các giấy tờ có giá và các hợp đồng mua bán
Trung tâm của hệ thống các tổ chức tài chính trung gian là hệ thống các
hệ thống các NHTM .NHTM là một tổ chức tín dụng, kinh doanh tiền tệ
và tín dụng .Hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng,
cho vay làm nhiệm vụ triết khấu và thanh toán .Chức năng chủ yếu của
24
NHTM là làm chứcnăng tổ chức trung gian tín dụng để huy động vốn nhàn
rỗi, đồng thời cung cấp vốn cho các chủ thể .
Hiện nay ở nước ta chủ yếu là NHTM NN và NHTM CP .Đặc điểm của
người Việt Nam là chưa có thói quen đầu tư mà thường dùng tiết kiệm của
mình để mua các tài sản có giá như vàng bạc đá quý đồ cổ do đó NHTM
cần tạo được lòng tin trong dân chứng để thu hút họ gửi tiền vào tiết kiệm.
2. Thị trường vốn .
3. Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc .
Đây là hình thức huy động vốn cho NSNN rất mới mẻ ở nước tạ Thị
trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc chính thức được khai
trương và đi vào hoạt động ở nước ta từ tháng 61995. Hình thức này được

thực hiện bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc theo phương
thức đấu thầu qua NHNN.
Hình thức huy động vốn này có lãi suất và chi phí huy động thấp, đáp
ứng kịp thời vốn cho chi tiêu của NSNN cho các dự án phát triển ở trung
ương và địa phương. Tuy mới ra đời được 6 năm, nhưng số thành viên
tham gia vào thị trường này ngày một tăng và trong tương lai nó có thể phát
huy được khả năng vốn có.
4. Các dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có
hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc
đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm
đạt được những kết qủa nhất định và xác định mục tiêu trong tương lai lâu
dàị
25

×