Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

lễ hội chùa đọi trong đời sống của cư dân trong vùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.38 KB, 136 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lễ hội là hoạt động phán ánh rõ nét nhất những sinh hoạt văn hoá của
một công đồng cư dân trong một không gian cụ thể và là môi trường tốt nhất
để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại. Mỗi vùng quê Việt
Nam đều nằm trong dòng chảy văn hoá thống nhất nhưng nó vẫn mang nét
riêng biệt, đặc trưng của con người nơi đó tạo nên một bức tranh văn hoá lễ
hội Việt Nam phong phú và đa dạng.
Hà Nam là một vùng đất cổ và là vùng gần trung tâm ĐBSH hiện nay.
Do vậy lễ hội nơi đây mang đậm nét văn hoá chung của vùng hoà quyện với
những nét riêng của văn hoá cư dân vùng trũng quanh năm ngập úng tạo nên
một sắc thái văn hoá độc đáo. Nói đến lễ hội ở Hà Nam ta không thể không
nhắc đến lễ hội chùa Long Đọi Sơn như một trung tâm hội tụ văn hoá truyền
thống của cư dân vùng này.
Chùa Long Đọi Sơn còn có tên là Diên Linh Tự không chỉ là biểu
tượng của Hà Nam (núi Đọi-sông Châu), là một danh thắng trấn Sơn Nam
xưa mà lễ hội chùa Đọi và những lễ hội khác trong vùng còn là nơi lưu giữ
những gía trị văn hoá truyền thống, là dịp để con người gửi gắm bao ước mơ
khát vọng về một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Tìm về chùa Đọi và lễ hội
chùa Đọi là chúng ta tìm đến chìa khoá để giải mã phần nào đó con người và
truyền thống văn hoá nơi đây.
Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi chúng tôi nhằm làm rõ vai
trò và vị trí của nó trong đời sống văn hoá của cư dân trong vùng. Đây không
chỉ là nơi để cho mọi người về đây hành hương lễ Phật, nơi các con nhang đệ
tử tìm về chốn tùng lâm đất tổ, trung tâm Phật giáo xưa kia mà còn là nơi để
du khách có thể tham quan vãng cảnh chùa, tìm hiểu di tích, lịch sử, chiêm
ngưỡng ngôi chùa bề thế hay để thưởng thức vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của
1
thiên nhiên hoà quyện nơi đây. Lễ hội chùa Đọi ngoài là ngày giỗ của vị cao
tăng đắc đạo nơi đây (Hoà thượng Thích Chiếu Thường) còn là nơi tưởng
niệm những người có công với đất nước, có công xây dựng ngôi chùa như Lý


Thường Kiệt, Nguyên phi Ỷ Lan, Lý Nhân Tông, mẫu Liễu Hạnh…Đây vừa
là nơi thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta vừa là môi trường
giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ.
Lễ hội chùa Đọi như một sự hội tụ văn hoá đặc trưng của Hà Nam-
vùng chiêm trũng quanh năm ngập úng. Lễ hội nơi đây không duy yếu tố tâm
linh mà còn là cách ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Trong điều
kiện hoàn cảnh đó họ phải đoàn kết nhau lại chống chọi với thiên tai và địch
hoạ. Từ đó tinh thần đoàn kết đã trở thành sức mạnh giúp con người nơi đây
chiến đấu và chiến thắng.
Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi chúng tôi nhằm mục đích
góp phần khắc hoạ toàn cảnh về đời sống vật chất cũng như đời sống văn hoá
tinh thần của người dân nơi đây. Đó chính là động lực to lớn, là sức mạnh tinh
thần của nhân dân Đọi Sơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời
Đọi Sơn còn là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, một trung tâm tôn giáo
của trấn Sơn Nam xưa. Nghiên cứu về di tích và lễ hội chùa Đọi như một biểu
tượng tiêu biểu nhất của văn hoá nơi đây, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá
truyền thống tốt đẹp của lễ hội vùng này đang bị biến đổi mạnh mẽ trong đời
sống xã hội hiện đại. Đồng thời qua đó phát huy giá trị văn hoá và thắng cảnh
của khu di tích lịch sử nổi tiếng này nhằm phục vụ đời sống tinh thần của
nhân dân trong vùng và hoạt động du lịch của địa phương trong sự nghiệp
phát triển kinh tế hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Quần thể di tích và lễ hội chùa Long Đọi Sơn là một thắng cảnh đẹp và
là một lễ hội lớn trong vùng. Do vậy, đã từ lâu nó đã được nhiều người biết
đến.
2
Trong sách Đại Việt sử kí toàn thư-bộ chính sử thời phong kiến có chép
về sự tích vua Lê Đại Hành cày ruộng tịch điền dưới chân núi Đọi, sách Việt
Sử lược, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thống nhất chí có nói đến
ngày, tháng xây dựng ngôi chùa và ngọn bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh cao

13 tầng, những nhân vật quan trọng trong quá trình xây dựng chúng. Đặc biệt
hiện nay tại chùa còn lưu giữ một tấm bia đá lớn trong đó có bài văn bia của
Binh bộ viên ngoại lang Nguyễn Công Bật soạn vào năm 1122 theo lệnh của
vua Lý Nhân Tông nhân ngày khánh thành cây bảo tháp. Tấm bia cho ta biết
rất nhiều về lịch sử, danh thắng và vị thế của chùa Đọi, kiến trúc chùa Đọi, về
cây bảo tháp và về vua Lý Nhân Tông. Năm 1992 Bảo tàng tổng hợp Hà Nam
Ninh đã có hồ sơ về di tích này.
Từ ngày Hà Nam tái lập tỉnh (1997) núi Đọi, sông Châu được chọn là
biểu tượng của văn hoá Hà Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về di
tích Đọi Sơn như: Danh thắng chùa Đọi, Truyện dân gian trấn Sơn Nam xưa
của tác giả Lương Hiền, Lịch sử chùa Đọi của Duy Phương đã giới thiệu về
lịch sử chùa Đọi, danh thắng Long Đọi Sơn và những truyền thuyết quanh nó.
Gần đây trong Những phát hiện mới của Khảo cổ học thì chùa Đọi đuợc nhắc
đến như một địa danh có bề dầy lịch sử và là nơi lưu giữ nhiều di vật cổ và
quý giá. Bên cạnh đó còn có nhiều bài viết nghiên cứu sưu tầm của các tác giả
đăng trên Tạp chí Sông Châu: GS Trần Quốc Vượng có bài: Địa linh nhân
kiệt Hà Nam, Núi Đọi–sông Châu-biểu tượng của Hà Nam quê tôi (số 19-
1/2000); Chùa Đọi Sơn của Trần Đăng Ngọc (số 1-1997); Hà Nam ngũ sắc
của Lương Hiền, Kí ức Sông Châu của Phương Thuỷ ( số 1-1997) và một số
bài viết khác. Ngoài ra, trên Website của Hà Nam cũng có trang giới thiệu về
di tích chùa Đọi…
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đi trước mới đề cập và đề cao danh
thắng, di tích cũng như bề dày lịch sử của chùa Long Đọi Sơn. Như vậy, nó
mới chỉ là một mặt của giá trị văn hoá tổng thể nơi đây. Mảng nghiên cứu về
3
lễ hội chùa Long Đọi Sơn vẫn còn bỏ trống. Lễ hội chùa Đọi là một hoạt động
mang đậm bản sắc văn hoá của người dân nơi đây trong ứng xử với tự nhiên
và xã hội, nó là chìa khoá để giải mã văn hoá truyền thống của vùng. Do vậy
trong khuôn khổ của khoá luận này mục đích của chúng tôi là đi sâu vào tìm
hiểu lễ hội chùa Đọi cùng với việc so sánh một số lễ hội khác của Đọi Sơn để

thấy được sự phong phú và đa dạng trong đời sống văn hoá và tín ngưỡng của
người dân nơi đây. Đồng thời qua đó ta thấy được quá trình biến đổi, xu
hướng biến đổi và hội nhập của lễ hội chùa Đọi trong truyền thống và hiện
đại. Chúng tôi cố gắng để có cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ nhất về tổng thể văn
hoá của trấn Sơn Nam thượng xưa.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện khoá luận này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau trong phương pháp nghiên cứu chung của ngành khoa
học xã hội và những phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành dân
tộc học. Đó bao gồm những phương pháp như: khảo sát thực địa, điều tra hồi
cố, quan sát trực tiếp, phỏng vấn sâu, xử lí tài liệu thu thập được trong quá
trình nghiên cứu.
Ngoài việc tham khảo những công trình nghiên cứu khoa học về chùa
Đọi và di tích chùa Đọi như đã nêu trên, trong khoá luận này chúng tôi đặc
biệt sử dụng nguồn tài liệu thu thập được trong quá trình đi điền dã thực địa
hơn một tháng tại xã Đọi Sơn như nguồn tài liệu quan trọng chủ yếu. Đó
chính là những văn bia, hoành phi, câu đối, truyền thuyết và những lời kể của
các cụ già cao tuổi ở địa phương…May mắn cho chúng tôi là người con của
quê hương từ nhỏ rất hay đi xem lễ hội chùa Đọi và trong thời gian làm khoá
luận này được tham dự lễ hội chùa Đọi tổ chức vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch (
vào 27, 28,29 tháng 4). Do vậy chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tái hiện lại
một cách sinh động và đầy đủ nhất về lễ hội chùa Đọi đồng thời nêu bật văn
4
hoá truyền thống cũng như sự biến đổi của lễ hội chùa Đọi trong đời sống xã
hội hiện đại.
4. Bố cục của khoá luận.
Ngoài những phần dẫn luận, kết luận, mục lục sách, báo tham khảo,
phụ lục… khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Đọi Sơn và di tích chùa Đọi.
Chương 2 : Lễ hội chùa Đọi.

Chương 3: Lễ hội chùa Đọi trong đời sống của cư dân trong vùng

5
CHƯƠNG 1:
ĐỌI SƠN VÀ DI TÍCH CHÙA ĐỌI
1.1. Đọi Sơn.
1.1.1. Vài nét về Hà Nam.
Sơn Nam là vùng địa danh chỉ vùng núi phía nam núi Ngũ Lĩnh (Phú Thọ-
thời Hùng Vương), phía nam thành Cổ Loa (thời An Dương Vương), phía
nam Kinh Bắc, nam Long Biên, nam Thăng Long, Hà Nội. Sách Lịch triều
hiến chương loại chí có ghi:
“Sơn Nam đời cổ là nước Lạc Long. Đời Tần thuộc về quận Nam Hải,
Hán đặt là quận Giao Chỉ. Tuỳ theo như thế. Đường đổi là Giao Châu. Nhà
Đinh, Lê đặt là đạo hay đặt là lộ, là phủ. Những nơi là Đỗ Động, Đường Lâm,
Phù Liệt, Đăng Châu đều là đất Sơn Nam cả. Triều Lý đổi gọi là các lộ, nhà
Trần đổi thành những lộ: Thiên Trường, Kiến Xương, Ứng Thiên, Lý Nhân,
Tân Hưng, Khoái Phủ,Trường An, Long Hưng, Đại Hoàng, An Tiêm. Triều
nhà Lê cũng theo như thế. Trong năm Quang Thuận (1466) đặt là thừa tuyên
Thiên Trường thống trị các phủ, huyện. Đến khi định bản đồ, mới đổi thành
thừa tuyên Sơn Nam, có 9 phủ 36 huyện.
Trấn Sơn Nam, phía Tây ven theo núi, phía Đông gần biển lớn, Kinh
Bắc, Hải Dương ở về phía Bắc, Thanh Hoá ở về phía Nam. Địa thế trấn này
rộng, xa, người nhiều, cảnh tốt, là bậc thứ nhất trong 4 thừa tuyên. Hai đạo
thượng, hạ phong vật khác nhau. Đạo Thượng lịch sự hơn nhưng có vẻ đơn
bạc, đạo Hạ thì quê kệch nhưng có phần thật thà. Văn vật thì thượng lộ thịnh
hơn, của cải thì hạ lộ nhiều hơn; tóm lại đều là đất tụ khí tinh hoa, tục gọi là
văn nhã, thực là cái bình phong phiên chắn của trung đô và kho tàng của nhà
vua”.
Như vậy Hà Nam là phủ Lý Nhân xưa (1 trong 9 phủ của trấn Sơn Nam
và thuộc trấn Sơn Nam thượng) với diện tích 849,5 km

2
, dân số là 811.126
6
người với mật độ 941người/km
2
gồm 5 huyện là Duy Tiên, Kim Bảng, Lí
Nhân, Thanh Liêm, Bình Lục và thị xã Phủ Lý là thủ phủ của Hà Nam. Địa
thế đất này rất linh thiêng, phong cảnh hữu tình lại là mảnh đất ngàn năm văn
vật. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, những gì còn lại ở nơi đây
hiện nay đủ để khẳng định Hà Nam là mảnh đất địa linh nhân kiệt (dẫn lời của
GS Trần Quốc Vượng).
Hà Nam–một vùng đất của nền văn minh Việt cổ có từ thời Hùng
Vương vào thế kỉ III trước công nguyên. Những ngôi mộ quan tài hình
thuyền, những di vật cổ như trống đồng Ngọc Lũ … đã chứng minh điều đó.
Sự thay đổi các thể chế chính trị đã kéo theo sự thay đổi hành chính nơi đây.
Từ thời Hùng Vương đến năm 1741 dù có thay đổi thế nào, được gọi là trấn,
lộ, phủ thì Hà Nam vẫn thuộc trấn Sơn Nam. Dưới thời Minh Mạng, Hà Nam
được tách ra thành một tỉnh mới là tỉnh Hà Nam. Đến năm 1890 Hà Nam lại
được nhập vào tỉnh Hà Nội, đến 1923 Hà Nam lại được tách ra thành một tỉnh
riêng. Năm 1965 Hà Nam được sát nhập với tỉnh Nam Định thành lập ra tỉnh
Nam Hà. Đến năm 1976 Nam Hà sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà
Nam Ninh. Đến năm 1992 tỉnh Hà Nam Ninh lại tách ra thành tỉnh Nam Hà
và Ninh Bình, Hà Nam thuộc tỉnh Nam Hà. Năm 1997 tỉnh Nam Hà lại tách
thành Nam Định và Hà Nam và ngày nay Hà Nam cơ bản lại trở về địa giới
hành chính vốn có ban đầu của nó.
Đây là một vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập úng lấy nông
nghiệp làm nền kinh tế chủ đạo nên kinh tế Hà Nam không có gì nổi bật. Tuy
là một mảnh đất nghèo nhưng người Hà Nam hiếu học, họ đã xây dựng một
nền văn hoá bề dầy mang đậm bản sắc văn hoá của con người nơi đây. Đây
không chỉ là những giá trị văn hoá truyền thống mà trong xã hội ngày nay nó

đã trở thành một động lực to lớn giúp Hà Nam xây dựng và phát triển vươn
lên.
7
1.1.2. Đọi Sơn – một danh lam thắng cảnh trấn Nam Sơn.
1.1.2.1. Vị thế của Đọi Sơn.
Đọi Sơn là một xã nằm phía Đông Nam của huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam. Phía Bắc giáp xã Yên Nam, phía Tây Bắc giáp xã Tiên Ngoại, phía Tây
giáp xã Tiên Hiệp, phía Nam giáp xã Châu Sơn, Tiên Phong, phía Đông giáp
sông Châu Giang và xã Văn Lý (huyện Lý Nhân-Hà Nam).
Hiện nay, xã Đọi Sơn về hành chính gồm 7 thôn hợp thành. Đó là các
thôn Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín và Sơn Hà
sống tập trung xung quanh núi Đọi. Đó là khối cộng đồng dân cư đã sinh sống
ở đây rất lâu đời và họ có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong sản xuất kinh
tế đặc biệt là trong các hoạt động văn hoá, tín ngưỡng.
Trung tâm xã Đọi Sơn có một quả núi cao khoảng 80m với diện tích
23,9 ha mọc giữa đồng bằng bát ngát lúa ngô. Đây là một kì quan mà thiên
nhiên đã ban tặng cho người dân nơi đây. Chính cảnh đẹp đó đã thu hút và là
nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhiều danh nhân đã từng đặt chân đến nơi
này. Năm 1476 vua Lê Thánh Tông–người đứng đầu phái Tao đàn nhị thập
bát tú một lần dừng chân tại chùa Long Đọi Sơn đã có cảm nhận:
Lên cao tầm mắt nhìn bao quát
Muôn dặm cây xanh một dải mờ.
(Đề bia chùa Đọi)
Đọi Sơn không chỉ có phong cảnh đẹp sơn thuỷ hữu tình mà còn nằm
trên một thế đất thiêng theo quan niệm phong thuỷ của người xưa. Do vậy đã
từ lâu trong vùng đã truyền tụng câu ca dao:
Đầu gối núi Đọi
Chân dọi Tuần Vường
Phát tích đế vương
Lưu truyền van đại.

8
Tuần Vường là ngã ba sông Hồng, sông Ninh Giang, và sông Đáy (gần
cống Hữu Bị-Lý Nhân hiện nay). Ngày xưa khi chưa có đê đập thì đây là
vùng có dòng nước xoáy cực kì nguy hiểm, nơi người ta thường nói là chỗ ở
của Hà Bá Long Vương cai quản thuỷ quốc. Đó cũng là vực nước sâu nhất
của sông Hồng mà từ xưa đã có câu:
Nhất cao là núi Tản Viên
Nhất sâu là vũng Thuỷ Tiên Tuần Vường.
Sông Châu trước đây gọi là sông Kinh nối giữa sông Nhị Hà (sông
Hồng) và sông Sinh Quyết (sông Đáy). Ngày xưa khi dòng Nhị Hà còn và
chưa có bờ như bây giờ và dòng Châu Giang chưa đổi thì nó là một con sông
ôm sát chân núi Đọi. Chẳng vậy mà khi vua Lí Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra
Thăng Long bằng đường thuỷ, nhân dân Đọi Tam tổ chức múa trống, múa
rồng chào mừng nhà vua đi qua. Vào thời Trần nó là con đường huyết mạch
nối giữa Thăng Long với hành cung nhà Trần ở Tức Mặc. Ngày nay Châu
Giang đã đổi dòng chỉ còn lại rất nhỏ và đã lùi xa chân núi tiến về phía đông.
Tuy nhiên với vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho nó, sông Châu đã được
chọn làm biểu tượng của Hà Nam: núi Đọi–sông Châu.
Hiện nay đường thuỷ qua đây không còn tấp nập như xưa nhưng Đọi
Sơn lại rất phát triển về giao thông đường bộ. Trên địa bàn xã có hai trục tỉnh
lộ là 9710 và 9711 là trục giao thông huyết mạch nối Đọi Sơn với các xã
trong huyện và với các vùng trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Đây là một lợi thế
quan trọng trong việc thúc đẩy và giao lưu kinh tế-văn hoá của Đọi Sơn.
Là một xã thuộc ĐBBB lại rất gần các con sông lớn nên đây là một
vùng đất phù xa màu mỡ. Trong diện tích 611,48 ha đất tự nhiên thì đất nông
nghiệp ở đây là 356,4 ha chiếm 58,28%. Đây là điều kiện thuận lợi cho Đọi
Sơn phát triển nông nghiệp.Tuy có núi nhưng là núi nhỏ đá lẫn đất nên chỉ có
thể trồng được chè xanh và một số cây gỗ nhỏ.
9
Khí hậu ở Đọi Sơn thuận lợi cho trồng trọt và cuộc sống con người.

Ngay từ thế kỉ XII khi vua Lý Nhân Tông cho xây dựng và mở mang chùa
Đọi Sơn và tháp Sùng Thiện Diên Linh nơi đây đã nhận thấy “mùa xuân thì
trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân”. Đọi Sơn mang đặc trưng của
vùng ĐBBB là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình
hàng năm khá cao khoảng từ 23-24
0
C, lượng mưa là 1900mm, độ ẩm 85%,
giờ nắng là từ 1300-1500h/năm và khá ổn định.
Với điều kiện như vậy, Đọi Sơn được thiên nhiên ưu đãi nhiều. Nơi đây
có khí hậu ôn hoà, tài nguyên phong phú, cảnh sắc tươi đẹp là một điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, thiên nhiên cũng không
quá ưu ái đối với vùng đất này. Là vùng trũng nhất của ĐBSH lại rất gần các
con sông lớn nên trước đây nó là rốn nước trong mùa lũ, khi hệ thống đê điều
chưa được kiên cố như bây giờ thì vùng liên tục bị lụt lội hoành hành. Những
năm trở lại đây vùng này không còn xảy ra tình trạng ấy. Dòng Châu Giang
đã hi sinh tự cắt mình ở đoạn đầu qua Duy Tiên để ngăn lũ ở cửa Tuần Vường
nên đoạn sông dưới đó mới có tên Tắc Giang là vậy.
1.1.2.2. Lịch sử Đọi Sơn.
Đọi Sơn là một địa danh xuất hiện từ bao giờ? Tên chính thức của xã
này là Đọi sơn hay là Đội Sơn? Đọi Sơn là một xã lấy tên núi đặt làm tên gọi
cho mình. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi đó.
Ở xung quanh chân núi Đọi có 9 cái giếng tự nhiên đã xuất hiện từ lâu.
Nước giếng này rất trong và không bao giờ cạn, theo truyền thuyết dân gian
đó là 9 mắt rồng thiêng. Phía Bắc núi có một cái hang rất rộng ăn sâu vào
trong lòng núi trông rất giống miệng con rồng nên nhân dân nơi đây gọi là
Hàm Rồng. Lại thêm sự tích vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long
(năm Canh Tuất-1010) theo con đường thuỷ qua sông Châu Giang để ra Phố
Hiến về Thăng Long. Được tin, nhân dân Đọi Tam chuẩn bị một màn độc đáo
đón chào đoàn thuyền của nhà vua đi qua. Khi đoàn thuyền của nhà vua đến
10

gần vùng núi Đọi bỗng nhiên thấy xuất hiện một đoàn múa rồng, múa trống.
Một con rồng lớn với cờ quạt phấp phới, hàng trăm chiếc trống to nhỏ các loại
ầm ầm như tiếng sấm dậy đất trời. Đoàn múa rước đi từ chân núi uốn lượn lên
đỉnh núi cao đón chào nhà vua đi qua. Cảnh tượng đó trông giống như một
con rồng khổng lồ đang đội núi bay lên, nhân đó nhà vua đổi tên núi thành
Long Đội Sơn (tức là rồng đội núi-ý muốn ban phúc cho nhân dân vùng này
có sức mạnh phi thường như rồng đội núi bay lên ấm no hạnh phúc). Do vậy
xã Đọi Sơn đã từng mang tên là xã Đội Sơn. Tên Đội Sơn chỉ có thể xuấn
hiện vào đầu thế kỉ XI.
Tuy nhiên, người dân ở đây từ xưa đến nay vẫn thường gọi là xã Đọi
Sơn, núi Đọi, chùa Đọi. Vậy thì từ Đọi xuất phát từ đâu và có từ bao giờ?
Theo cách giải thích của các cụ già cao tuổi trong vùng thì Đọi ở đây là một
từ Việt cổ chỉ chiếc bát như người Việt ở nhiều vùng quê ĐBSH hiện nay vẫn
còn dùng. Người ta thường nói ăn mấy đọi cơm thay cho việc nói ăn mấy bát
cơm. Nói như vậy cũng có cái lý của các cụ. Nhìn từ xa núi Đọi có ba trái núi
nằm kế tiếp nhau như 3 chiếc bát úp liền kề. Do vậy từ Long Đọi Sơn có thể
hiểu như những chiếc bát úp những con rồng. Đó cũng là một cách giải thích
địa danh vùng này rất thú vị.
Còn theo như ý kiến của PGS. TS Hoàng Lương thì có cách giải thích
khác về từ Đọi. Chữ Đọi có thể bắt nguồn từ tiếng Thái và có thể ở nơi đây có
dấu tích sinh sống của người Thái hay sự giao lưu văn hoá Việt-Thái. Chữ
Đọi trong tiếng Thái có nghĩa là đồi. Điều này có liên quan gì đến tục thờ Cao
Sơn Đại Vương- một vị thần núi làm thành hoàng làng chung của 6 làng Đọi.
Theo trí nhớ của các cụ cao tuổi trong vùng thì trong lễ hội đền Đức Thánh
Cả là ngày hội làng chung của 6 làng Đọi, ngày xưa được tổ chức rất long
trọng có những người đóng giả Hổ và ăn vận giả theo trang phục Mường cùng
tham gia đoàn rước lễ. Tuy nhiên hiện nay thì tục này không còn nữa nhưng
11
đó là một tục lệ có từ lâu đời truyền lại mà trong lần tổ chức vào năm 1946
vẫn duy trì. Đây cũng là một giả thiết cần được chú ý.

Dù là Đội Sơn hay là Đọi Sơn thì đối với người dân nơi đây cũng
không có gì khác biệt và hiện nay họ hay dùng cả hai cách gọi trên. Tuy
nhiên, từ cổ đến nay nhân dân vùng này vẫn thường gọi là Đọi Sơn, trong các
văn bản chính thức về mặt hành chính thì vẫn dùng tên gọi là xã Đọi Sơn,
chùa Long Đọi Sơn, núi Đọi Sơn.
Xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, trấn
Sơn Nam xưa. Đây là vùng đất cổ nơi sinh sống của cư dân là chủ nhân của
nền văn hoá Đông Sơn được khẳng định qua những di vật còn để lại ở nơi đây
như những ngôi mộ quan tài hình thuyền, mộ kè đá và mộ giát tre được phát
hiện ở những khu vực xung quanh núi Đọi. Đồng thời xung quanh núi Đọi và
núi Điệp (thuộc xã Yên Nam) còn phát hiện thấy rất nhiều ngôi mộ mang
phong cách kiến trúc của mộ Hán. Do vậy ta có thể suy luận rằng từ rất sớm
nơi này là nơi cư trú của người Việt cổ và vào một thời kì nào đấy trong lịch
sử thuộc Hán, Đọi Sơn có thể là một trị sở hay một khu thương mại sầm uất
trên bờ sông Kinh xưa.
Đến trước Cách mạng tháng Tám–1945, xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi
Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Tổng Đọi Sơn lúc đó gồm 8 làng xã: xã
Đọi Sơn, làng Trung Tín, làng Đọi Lĩnh, làng Đọi Trung, xã Câu Tử, xã Thọ
Cầu, xã Lê Xá, xã Dưỡng Mông. Lúc đó Đọi Sơn chỉ có 3 thôn: Đọi Nhất,
Đọi Nhì, Đọi Tam. Sau này làng Trung Tín, Đọi Lĩnh, Đọi Trung sát nhập
vào xã Đọi Sơn. Cách đây 180 năm, thôn Đọi Tam do sự phát triển về mặt
dân cư nên đã chuyển một bộ phận dân cư thành lập thôn Sơn Hà. Khoảng
gần 100 năm trở lại đây thôn Đọi Trung và Đọi Lĩnh tách một bộ phận dân cư
thành lập thêm hai thôn trại là trại Trung và trại Lĩnh, nhưng sau đó hai thôn
này lại sát nhập lại như cũ. Từ đó, đơn vị hành chính này ổn định cho đến
ngày nay.
12
Trong kháng chiến chống Pháp, khi giặc về Đọi Sơn định lập đồn bốt
nơi đây, nhân dân Đọi Sơn thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, phá huỷ
những nơi mà địch có thể lấy để đóng đồn bốt như chùa Long Đọi Sơn, đền

Đức Thánh Cả… do vậy địch không thể ở lại Đọi Sơn mà phải quay về đóng
bốt ở núi Điệp (xã Yên Nam) cách đó 2km. Nhân dân Đọi Sơn đã đóng góp
một phần công sức vào thắng lợi của đất nước qua hai cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ. Ngày nay trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước,
Đọi Sơn đang từng bước chuyển mình tìm cách thoát khỏi đói nghèo và lạc
hậu, đưa nền kinh tế của xã đi lên, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm bản
sắc dân tộc
1.1.2.3 . Dân cư.
Truyền thuyết trong dân gian kể rằng: Vào thời Hùng Vương thứ 18 có
một vị nhân thần là tướng đồng thời là em họ của thánh Tản Viên, người đã
có công rất lớn trong việc giúp vua Hùng chống lại Thuỷ Tinh và giặc Thục
Phán được vua Hùng phong là Cao Sơn Đại Vương. Khi đất nước thanh bình,
Cao Sơn Đại Vương chu du thiên hạ xuống mảnh đất trấn Sơn Nam. Đến
vùng Đọi Sơn, ông thấy phong cảnh nơi đây đẹp, địa thế linh thiêng, nhân dân
hiền lành nhưng thưa thớt. Ông bèn dừng chân nơi đây cùng 6 người con của
mình giúp dân khai khẩn trồng trọt và lập ra 6 làng Đọi là: Đọi Nhất, Đọi Nhì,
Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín. Để tưởng nhớ công ơn của Cao Sơn
Đại Vương và các người con của ông, nhân dân nơi đây đã tôn ông làm Đức
Thánh Cả và 6 người con của ông là thành hoàng của 6 làng. Từ đó về sau,
vùng Đọi Sơn dân cư ngày càng trù phú.
Vào năm 1983 trong khi đắp nền nhà, nhân dân nơi đây đã đào được 11
ngôi mộ cổ. Trong 11 ngôi mộ ấy có 3 ngôi mộ quan tài hình thuyền làm bằng
thân cây khoét rỗng, 2 ngôi mộ kè đá, 4 ngôi mộ có áo quan làm bằng những
thanh tre ken lại như tấm giát giường và 2 ngôi mộ không rõ cấu trúc có thể là
những ngôi mộ chôn trực tiếp không có áo quan. Hiện vật tìm thấy trong
13
những ngôi mộ cổ này chủ yếu là những công cụ hay vũ khí là đồ đồng thời
Đông Sơn. Bên cạnh đó còn có tiền Bán Lạng và đỉnh đồng 3 chân mang
phong cách của thời Đông Hán (25-220 SCN). Trong 11 ngôi mộ đó có 5 ngôi
mộ không có hiện vật. Điều đó chứng tỏ rằng từ thời đó Đọi Sơn đã là một

vùng dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và bước đầu có sự phân hoá giàu
nghèo.
Đọi Sơn là một xã có diện tích tự nhiên không rộng chỉ có 611,48 ha
nhưng có tới 1601 hộ định cư sinh sống với 6368 nhân khẩu, do vậy mật độ
dân số rất đông lên tới 1007người/km
2
. Đây cũng là tình hình phân bố dân cư
chung của một xã nông nghiệp vùng ĐBSH. Nhận thức được những khó khăn
do mật độ dân số quá đông đem lại nên từ lâu Đọi Sơn luôn vận động để giảm
tốc độ tăng dân số đưa nền kinh tế đi lên. Hiện nay Đọi Sơn đang duy trì được
mức tăng dân số thấp và dần ổn định ở mức 0,8%.
Trong tổng dân số là 6368 người của xã thì số người trong độ tuổi lao
động là 3630 người chiếm 57%. Đây là nguồn lao động dồi dào cho Đọi Sơn
phát triển đi lên trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, những khó khăn của
vùng đồng chiêm trũng vẫn còn bám lấy cuộc sống của người dân Đọi Sơn.
Mặc dù đời sống vật chất đạm bạc nhưng người dân nơi đây chất phác
và rất hiếu khách. Hàng năm cứ vào mùa lễ hội chùa Long Đọi Sơn tháng 3
hay hội làng của 6 làng vào tháng 7 hoặc lễ hội làng nghề vào tháng Giêng
của làng trống Đọi Tam, khách thập phương về đây dự hội sẽ được đón tiếp
nồng nhiệt bởi người dân nơi đây làm cho lễ hội trong vùng càng sôi động.
Tích tụ từ ngàn năm bởi nền văn minh vật chất sông Hồng, bằng bàn
tay tài hoa và trí óc sáng tạo với tâm trong sáng, người dân Đọi Sơn đã xây
dựng nên những sắc thái văn hoá mang đậm bản sắc của quê hương mình
trong tổng thể văn hoá chung của vùng ĐBBB.
1.1.2.4. Đời sống kinh tế.
14
Nằm trong ĐBSH được bồi đắp phù sa bởi nhiều con sông lớn như
sông Hồng, sông Đáy, sông Châu, Đọi Sơn là một xã nông nghiệp trù phú,
quanh năm được bao phủ bởi một màu xanh của lúa, ngô và hoa màu. Bãi dâu
ven sông Châu quanh năm tươi tốt đã nổi tiếng với nghề trồng dâu nuôi tằm

cổ truyền. Nghề này ngay từ thế kỉ I SCN đã phát triển mạnh và được lưu
truyền cho đến ngày nay ở xã Tiên Phong kế bên (Trước đây xã này thuộc
tổng Đọi Sơn). Bà tổ nghề trồng dâu nuôi tằm là Nguyệt Nga công chúa–một
danh tướng dưới thời Hai Bà Trưng nhưng là người con của mảnh đất nơi
đây. Trong thời gian làm quan dưới thời Hai Bà, bà thường về quê căn dặn
nhân dân chăm chỉ nghề nông và trồng dâu nuôi tằm. Tơ kén làm ra được bán
cho làng dệt lụa Nha Xá nổi tiếng cách đó không xa mà đã được Lê Quý Đôn
nhận xét: Lụa Nha Xá bền, đẹp mà nổi tiếng. Ở Tiên Phong có chợ nổi tiếng
là chợ Dâu họp trọn 30 ngày một tháng do nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển
mạnh nên nhu cầu trao đổi lá dâu rất nhiều. Xưa kia Đọi Sơn cũng là một
vùng chuyên trồng và cung cấp lá dâu cho Tiên Phong trên vùng đất bãi bồi
ven sông của quê hương mình.
Nông nghiệp Đọi Sơn được hình thành trên vùng đất phù xa màu mỡ là
một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà ngay
những năm đầu của nền độc lập dân tộc, vào năm Đinh Hợi (987) vua Lê Đại
Hành đã chọn mảnh đất vùng chân núi Đọi để cày ruộng tịch điền mở đầu cho
việc các triều đại phong kiến Việt Nam quan tâm và khuyến khích phát triển
nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong điều kiện đất chật người đông như hiện nay thì diện
tích đất canh tác nông nghiệp của Đọi Sơn không nhiều. Chỉ với 356,4 ha đất
nông nghiệp nên bình quân ruộng chia cho người dân nơi đây chỉ được
1,2sào/người. Với số ruộng ít ỏi như vậy, để nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân là một việc không dễ dàng đặc biệt trong quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế ở một xã thuần nông như Đọi Sơn hiện nay. Với bản chất cần
15
cù lại rất năng động nên người dân nơi đây đã khai thác một cách tốt nhất vốn
đất ít ỏi để đảm bảo nhu cầu về lương thực và để phát triển kinh tế. Ngoài lúa
là cây lương thực chính Đọi Sơn còn có khoảng 20% đất bãi trồng hoa màu và
bên sườn núi Đọi còn trồng chè xanh và sắn. Đất chật người đông, đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên với người dân nơi đây khi cày ruộng không

cày được hũ vàng hũ bạc nhưng đối với họ chỗ nào cũng là ruộng kim ngân.
Hiện nay, Đọi Sơn vẫn lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ đạo.
Trong xã có khoảng 800 hộ gia đình thuần nông có mức thu nhập khoảng 2,5
triệu đồng/năm. Đây là một mức thu nhập không cao trong thời đại hiện nay
vì là vùng đồng trũng quanh năm ngập úng nên năng suất rất bấp bênh. Bên
cạnh đó Đọi Sơn có hệ thống sông ngòi, mương máng, ao hồ dầy đặc là một
điều kiện thuận lợi để phát triển thuỷ sản và cũng là một lối thoát hữu hiệu
cho nhiều gia đình trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay.
Người dân nơi đây nhận thức rất rõ rằng không thể phát triển quê
hương tiến kịp tốc độ phát triển chung của đất nước trong giai đoạn hiện nay
mà chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do vậy họ đã học hỏi và tiếp thu nhiều
nghề thủ công khác nhằm tạo thêm thu nhập trong lúc nông nhàn. Hiện tại
trong xã có khoảng 450 hộ gia đình làm thêm nghề phụ như nghề mây giang
đan, thêu ren, thợ nề, thợ mộc, sản xuất vật liệu xây dựng…đặc biệt là làng
Đọi Tam có nghề bưng trống truyền thống. Với sự tham gia của nghề thủ
công nên thu nhập của những hộ gia đình này cao hơn hẳn bình quân 4,5-
5triệu đồng/năm. Riêng nghề làm trống ở Đọi Tam có thể cho thu nhập cao từ
10-50 triệu đồng/năm.
Nghề bưng trống ở thôn Đọi Tam đã xuất hiện từ rất lâu. Tương truyền
vào thế kỉ X có 2 anh em họ Nguyễn là Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức
Đạt không rõ là người ở đâu đi qua vùng Đọi Sơn thấy phong cảnh nơi đây
đẹp, nhân dân Đọi Tam hiền lành, trong vùng lại có nhiều cây mít. Hai anh
em có nghề bưng trống quyết định ở lại đây hành nghề và truyền nghề trống
16
cho trai làng Đọi Tam. Từ ngày có nghề trống không khí làng Đọi Tam rộn rã
hẳn lên. Một hôm nhân dân Đọi Tam nghe tin vua Lê Đại Hành về đây cày
ruộng tịch điền để khuyến khích phát triển nông nghiệp, hai anh em ông Năng
quyết định làm một chiếc trống to đặc biệt để đón vua. Chiếc trống hoàn
thành vào mùa xuân năm 987. Tiếng trống vang như tiếng sấm nên người ta
gọi ông là trạng Sấm. Sau khi ông mất nhân dân Đọi Tam tôn ông làm ông tổ

làng trống và lập miếu thờ ông ở chân núi Đọi, hướng nhìn ra cánh đồng.
Năm 1010 được tin vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đi qua
Đọi Sơn, dân làng Đọi Tam đã tổ chức một đoàn múa rồng, múa trống rước
lên núi Đọi như một con rồng khổng lồ đội núi bay lên để đón chào đoàn
thuyền nhà vua, đựơc vua khen tặng và cho người về kinh đô làm trống, lập ra
phố Hàng Trống ngày nay. Để tưởng nhớ công đức của hai ông nên cứ hàng
năm vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch nhân dân Đọi Tam lại mở hội làng
để tôn vinh nghề trống của làng mình.
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, nghề làm trống và nghệ
nhân trống Đọi Tam đã có mặt ở rất nhiều nơi trên đất nước ta. Trong những
giai đoạn thăng trầm, làng nghề tưởng như bị tan vỡ nhưng với tâm huyết và
sự cố gắng của dân làng nên nghề này đã trụ vững và phát triển như ngày nay.
Với dàn trống hội gồm 200 quả to nhỏ trong dịp lễ hội kỉ niệm 990 năm
Thăng Long-Hà Nội, làng trống Đọi Tam đã nổi tiếng trong và ngoài nước, có
rất nhiều đơn đặt hàng khắp nơi về đến tận thôn. Nhân dân Đọi Tam đang có
được vinh dự lớn được chọn là nơi sản xuất 1000 quả trống lớn nhỏ nhân dịp
lễ hội kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Năm 2004 làng trống Đọi Tam
được UBND tỉnh Hà Nam công nhận là làng nghề thủ công truyền thống.
Hiện nay, trong làng Đọi Tam hầu như gia đình nào cũng tham gia sản
xuất trống. Nhiều gia đình có xưởng sản xuất trống được trang bị máy móc
hiện đại đặc biệt là khâu sản xuất tang trống. Đây là một nghề thủ công truyền
thống nhưng có sự chuyên môn hoá sâu sắc đến từng công đoạn như thuộc da,
17
làm tang, bưng trống. Thu nhập của người dân từ nghề này cũng khá cao từ 5
triệu đến 50 triệu đồng/năm. Đời sống kinh tế ở Đọi Tam trên mặt bằng chung
là khá giả. Điều đó được khẳng định thêm trên phương diện văn hoá tinh thần.
Đọi Tam là một thôn nhưng hàng năm thôn này đều tham gia tổ chức 3 lễ hội
lớn: Lễ hội chùa Đọi, lễ hội làng (lễ hội đền Đức Thánh Cả) và lễ hội làng
nghề trống với qui mô bao giờ cũng linh đình, sôi động và phong phú nhất so
với các làng khác trong xã.

Tuy nhiên, đây là một nghề truyền thống mà chỉ có riêng ở làng Đọi
Tam chứ các làng lân cận khác như Đọi Nhất, Đọi Nhì …không thấy một gia
đình nào tham gia. Đó là một hiện tượng mà người ta gọi là bí kíp làng nghề
hay một lí do nào khác mà nghề trống không phổ biến rộng rãi thì chưa rõ cần
phải tìm hiểu thêm.
Ngoài trồng lúa và làm nghề thủ công khác thì trong xã có khoảng trên
200 hộ gia đình tham gia kinh doanh dịch vụ kết hợp với sản xuất nông
nghiệp nên cũng cho thu nhập khá từ 5-10 triệu đồng/năm. Đây chủ yếu là
những gia đình kinh doanh tổng hợp nằm dọc theo tuyến tỉnh lộ 7910 nhưng
không có gia đình nào buôn bán lớn.
Ngày nay, mặt bằng kinh tế chung của Đọi Sơn đang ngày một khởi
sắc.Tuy không có gì nổi bật nhưng Đọi Sơn cũng là một xã có nền kinh tế
phát triển khá trong huyện Duy Tiên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng cao rõ rệt. Cơ sở vật chất, hạ tầng được phát triển, nhà cửa của
nhân dân đã xây dựng kiên cố, nhiều nhà cao tầng đã mọc lên tạo nên một
diện mạo mới cho Đọi Sơn. Toàn xã hiện có 650 xe máy, 1400 ti vi, 250 điện
thoại … Những con số đó đã chứng minh sự phát triển kinh tế-văn hoá và dân
trí ở đây. Là một xã nông nghiệp đặc biệt là trong giai đoạn chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, Đọi Sơn gặp không ít khó khăn, nhân dân
nơi đây đang cố gắng từng bước khắc phục khó khăn đó để hội nhập cùng với
tiến trình phát triển chung của đất nước.
18
1.1.2.5. Văn hoá-Xã hội.
Đọi Sơn là một vùng đất cổ. Họ là chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn
rực rỡ. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và biến đổi nền văn hoá đó đã tích tụ
và lắng đọng để hình thành nên những giá trị văn hoá truyền thống vừa mang
dáng nét chung của văn hoá cư dân vùng ĐBSH vừa mang nét riêng biệt của
người dân vùng rốn nước.
Hà Nam là một tỉnh thuộc ĐBSH nhưng lại là địa bàn trũng nhất nên
xưa kia khi hệ thống đê điều chưa hoàn chỉnh thì hầu như năm nào nơi đây

cũng bị úng lụt, đời sống nhân dân bị đe doạ. Khi mà sức con người chưa
thắng nổi thiên nhiên họ đã phản ứng lại điều đó bằng các hoạt động mang
tính chất tôn giáo thể hiện rõ trong đời sống tâm linh, trong hoạt động lễ hội
nơi đây như tục thờ thành hoàng làng, tục thờ thần nông nghiệp và tục thờ
thần nước.
Có thể nói rằng khắp vùng Hà Nam không có nơi nào mà lễ hội lại diễn
ra thường xuyên và độc đáo như ở Đọi Sơn. Xuân thu nhị kì họ đều tổ chức lễ
hội mang đặc thù của cư dân nông nghiệp vùng chiêm trũng quanh năm sống
ngâm da, chết ngâm xương. Đó là những giá trị văn hoá truyền thống đã trở
thành một phần máu thịt của họ.
Đọi Sơn như một ngôi làng lớn lấy núi Đọi làm trung tâm và người dân
7 thôn sống quây quần bên ngọn núi đó. Núi Đọi không chỉ là trung tâm về
mặt địa lý hành chính mà còn là trung tâm văn hoá tâm linh của cả cộng đồng
vì trên núi có một ngôi chùa cổ và dưới chân núi có ngôi đền Thánh linh
thiêng là cơ sở thờ tự chung của cả 7 làng từ xưa đến nay.
Toàn xã có trên 20 cơ sở thờ tự trong đó gồm 2 ngôi chùa (chùa Long
Đọi Sơn trên núi và chùa Hạ ở làng Đọi Tam), 6 ngôi đình của 6 làng (vì thôn
Sơn Hà mới tách từ thôn Đọi Tam nên không có đình riêng), còn lại là lăng,
miếu, đền, phủ. Trong mỗi làng đều có cơ sở thờ tự riêng là các miếu, đền bản
thổ thể hiện ranh giới nhưng dân trong toàn xã lại có những ngày thờ tự, lễ
19
hội chung được tổ chức hàng năm đựơc lưu truyền từ ngàn xưa. Đó là lễ hội
chùa Đọi (tổ chức vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch), lễ hội đền Đức Thánh Cả
(ngày10,11,12 tháng 7 âm lịch). Lễ hội đền Đức Thánh Cả là ngày hội của cả
6 làng. Những ngày đó Đọi Sơn tưng bừng không khí lễ hội làng để tưởng
nhớ công ơn cha con thần Cao Sơn Đại Vương. Đồng thời lúc này đang vào
mùa mưa bão nhân dân Đọi Sơn tổ chức lễ hội cầu mong thần linh che chở
cho nhân dân trong vùng tránh được lụt lội- điều khủng khiếp nhất của người
dân vùng trũng để có một mùa màng bội thu, đời sống no ấm.
Người xưa thường có câu để chỉ tính chất khép kín của làng quê Bắc

Bộ:
Trống làng nào làng ấy đánh
Thánh làng nào làng ấy thờ.
Tuy nhiên chùa và đình làng ở Đọi Sơn lại là cơ sở thờ tự chung. Do
vậy lễ hội ở đây rất độc đáo tuy không phải là duy nhất. Sự tôn thờ Cao Sơn
Đại Vương ở đây cũng có điều đặc biệt vì cư dân một vùng đồng bằng lấy
một vị sơn thần làm thánh chung. Đó là tín ngưỡng thờ thần núi của cư dân
Việt cổ đồng thời là tục thờ thánh Tản Viên và tướng lĩnh của ông mong
Thánh phù hộ cho dân trong vùng tránh được lũ lụt, bảo vệ mùa màng.
Đặc biệt riêng làng Đọi Tam ngoài việc tham gia trong hoạt động của
hai lễ hội chung lớn trên, họ còn tổ chức ngày hội riêng của làng trống vào
mồng 7 tháng Giêng hàng năm để tưởng nhớ công ơn của người đã đem nghề
về cho dân làng. Trong ngày lễ đó, lễ vật mà nhân dân Đọi Tam cúng tế
không thể thiếu được hai món đó là bánh dày và chè kho. Đây không phải là
món đặc sản của địa phương nhưng trong ngày đó lại là những lễ vật bắt buộc
đối với từng gia đình làm trống.
Lễ hội làng trống Đọi Tam được tổ chức rất lớn với hoạt động rước
sách linh đình và nhiều trò chơi dân gian được diễn ra trong đó có nhiều hoạt
động mang đặc trưng nghề trống như cuộc thi bưng trống dành cho người dân
20
làng nghề và trò bịt mắt đánh trống dành cho người đi hội. Trong đình làng
Đọi Tam hiện nay có một chiếc trống đại mà nó chỉ được sử dụng trong dịp lễ
hội hay việc quan trọng trong làng hoặc ngày kị của ông tổ (17-4). Trước khi
có chiếc trống lớn trong dàn trống hội Thăng Long kỉ niệm 990 năm (đường
kính cao 2.05m cao 2.75m và là chiếc trống lớn thứ 2 thế giới sau Trung
Quốc) thì đây là một chiếc trống cổ và lớn nhất cả nước được làm từ năm
1989 với đường kính mặt trống là 1.5m, chiều cao 1.8m.
Ngoài những lễ hội và các hoạt động văn hoá cổ truyền ra thì xã Đọi
Sơn cũng thường tổ chức những hoạt động giao lưu văn hoá, thể dục thể thao
hiện đại để tạo nên một sự giao thoa hài hoà giữa các giá trị văn hoá truyền

thống và hiện đại trong đời sống mới. Bên cạnh đó Đọi Sơn còn chú trọng đẩy
mạnh giáo dục, tuyên truyền lối sống lành mạnh để vừa bảo lưu được những
giá trị văn hoá tinh thần truyền thống kết hợp với những giá trị văn hoá hiện
đại, biến nó thành một sức mạnh thời đại, làm động lực cho mảnh đất Đọi Sơn
phát triển toàn diện đi lên trong cuộc sống hôm nay
1.2. Di tích chùa Đọi
1.2.1. Vị thế ngôi chùa Long Đọi Sơn.
Chùa Long Đọi Sơn có tên chữ là Diên Linh Tự là một ngôi chùa xây
dựng ngay trên đỉnh núi Đọi Sơn xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Ngôi chùa nằm ở toạ độ 20
0
35
/
vĩ độ Bắc, 105
0
58
/
kinh độ Đông nay thuộc địa
phận hành chính thôn Đọi Nhất. Núi Đọi gồm 3 quả núi cao gần 80m nổi giữa
đồng bằng trù phú nằm cách sông Châu 500m về phía Tây. Nhìn từ phía Bắc
núi tựa dáng rồng phục. Nhìn từ phía Tây hai ngọn núi hai bên nhô ra như hai
chiếc tay ngai, ngọn ở giữa lùi lại như một chiếc án. Theo quan niệm địa lí
xưa thì núi Đọi nằm ở thế Cửu Long-một thế đất đẹp và linh thiêng.
Toàn bộ ngôi chùa được xây dựng trên đỉnh núi Đọi Sơn trong khuôn
viên 2 ha vườn rừng. Chính diện của chùa quay về hướng Nam theo quan
21
niệm của nhà Phật đó là hướng đức Phật quay về nghe nỗi thống khổ của
nhân gian mà cứu nhân độ thế. Phía Bắc hướng về Thăng Long đất kinh kì,
đứng trước là núi Điệp như một tiền đồn chống giặc phương Bắc ngày xưa và
như một tiền cảnh đón chào khách du lịch ngày nay. Phía Đông là thị xã

Hưng Yên đất Phố Hiến xưa. Gần sát chân núi là dòng sông Châu. Phía Tây
hướng về chùa Hương Tích và con đường huyết mạch Bắc Nam 1A. Toàn
cảnh núi Đọi trông từ xa giống như một con rồng rất lớn nằm phục giữa đồng
bằng đầu nhô cao hướng về phía Thăng Long. Ngoài ra, Đọi Sơn còn là một
vùng núi non tiên cảnh từ xưa đã được biết đến như một sự kì lạ của tạo hoá
và con người nơi đây:
Giữa cánh đồng bằng một trái non
Kìa chùa Long Đọi đứng chon von
Công trình kiến trúc khen ai khéo
Phong cảnh xưa nay dậy tiếng đồn.
(khuyết danh)
1.2.2. Lịch sử chùa Long Đọi Sơn.
Chùa thoạt đầu là nơi truyền bá và tu luyện theo lí tưởng Tứ diệu đế và
Thập nhị nhân duyên của Phật giáo, sau đó nó biến thành nơi thờ Phật, mỗi
thời thêm nhiều vị Phật được đúc tượng và được đưa lên thờ trên các bệ cao
theo một trật tự nhất định….rồi thêm các nhà sư có công với xã hội… không
ít ngôi chùa đã trở thành nơi tiền Phật hậu Mẫu.
Phật giáo là một tôn giáo lớn xuất phát từ Ấn Độ và được truyền bá vào
nước ta khá sớm với trung tâm là Luy Lâu (Thuận Thành-Bắc Ninh). Đạo
Phật được du nhập vào nước ta một cách hoà bình, tự thân nó biến đổi và hoà
nhập với tín ngưỡng dân gian bản địa nên nó nhanh chóng có chỗ đứng vững
và trở thành một tôn giáo quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Do
vậy, trước thế kỉ X ở nước ta đã có rất nhiều nơi dựng chùa thờ Phật mặc dù
22
đó mới chỉ là những am thiền nhỏ. Đạo Phật là tôn giáo có xu hướng thoát
tục lên cõi niết bàn nên thường chọn những nơi yên tĩnh, hoà mình vào núi
non cây cỏ, sống thanh tịnh và xa lánh cuộc đời trần tục.
Phật giáo được truyền bá vào vùng Sơn Nam (Hà Nam) từ rất sớm.
Không biết từ bao giờ nhưng từ những năm 40 phủ Đọi Sơn đã có chùa và
trên núi có am thiền nhỏ. Quân Tô Định đã đồn trú trên núi. Nghĩa quan của

bà Cao Thị Liên (21-43) ở Thạch Tổ-Thanh Liêm đã nhiều lần đem quân đến
đánh và hiện nay còn di tích mả Tàu nhiều đời để lại. Do vậy từ những năm
đầu sau công nguyên ở vùng Đọi Sơn, Phật giáo đã có mặt nơi đây mặc dù
chưa phổ biến.
Đến đời nhà Lý, đạo Phật đã phát triển mạnh và trở thành quốc giáo.
Sau khi dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng và
phát triển chùa chiền ở kinh đô đồng thời ra lệnh cho các hương ấp khắp nơi “
nơi nào có chùa quán đã đổ nát đều phải sửa chữa lại”. Nhân dân Đọi Sơn đã
cho tu sửa am thiền thành sơ thiền bằng tre, gỗ. Đến năm 1054 vua Lý Thánh
Tông cùng Vương phi Ỷ Lan thăm thú đầu xuân thấy cảnh sắc nơi đây rất đẹp
lại thêm những di tích lịch sử (vua Lê Hoàn cày ruộng tịch điền và là nơi Lý
Thái Tổ dời đô đi qua) nên vua cùng vương phi quyết định cho xây dựng chùa
Đọi với quy mô lớn, giao cho tể tướng Dương Đại Gia chỉ huy xây dựng và
mời thiền sư Đàm Cứu Chỉ đang trụ trì một ngôi chùa ở Tiên Du-Bắc Ninh về
trụ trì cùng tể tướng tham gia xây dựng chùa. Qua đây ta có thể hình dung
được quy mô và vị thế của chùa Đọi dưới thời Lý. Đến giai đoạn này chùa
Long Đọi Sơn là một trung tâm Phật giáo lớn của trấn Sơn Nam xưa.
Tiếp đó vào năm 1118 vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh cho xây dựng và
mở mang chùa Đọi to đẹp hơn và cho xây dựng bảo tháp Sùng Thiện Diên
Linh cao 13 tầng. Sách Đại Nam thống nhất chí có ghi: “Ở xã Đọi Sơn đông
nam huyện Duy Tiên….đời vua Lý Nhân Tông dựng chùa và cho xây bảo
tháp Diên Linh”, sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng chép tương tự.
Việt sử lược còn cho biết cụ thể hơn: “Năm Nhâm Dần hiệu Thiên Phù Duệ
23
Vũ năm thứ 3(1122), mùa xuân, tháng 2, Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh
được xây dựng xong”. Xây dựng xong chùa tháp vua Lý cho mở hội mừng
mấy ngày liền và giao cho Binh bộ viên ngoại lang Nguyễn Công Bật soạn
văn bia kỉ niệm ngày khánh thành ngôi chùa và ngọn bảo tháp đề niên hiệu
“Thiên Phù Duệ Vũ”(1121). Hiện nay tấm bia đá này vẫn còn và là nguồn
cung cấp nhiều thông tin quý giá.

Chùa Đọi Sơn và cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh đứng vững được
trên 300 năm. Đầu thế kỉ XV khi giặc Minh sang xâm lược nước ta ngôi chùa
bị phá huỷ và cây bảo tháp cao 13 tầng cũng bị đánh sập hoàn toàn, các tượng
đá cũng bị huỷ hoại. Năm 1467 vua Lê Thánh Tông một lần đi du xuân có lên
thăm núi Đọi, đã phong cho núi Đọi là Nam thiên đệ tam động (Đệ nhất là
động Hương Tích, đệ nhị là động Bích Đào) và có đề thơ trên đó (ở mặt sau
của tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh):
Lý triều quái đản bia không tại
Minh tặc hung tàn tự dĩ canh.
Nghĩa là: Hoang đường vua Lý bia còn đó
Tàn bạo quân Minh chùa tháp khác xưa.
Từ đó ngôi chùa bị hoang phế gần 200 năm. Cuối thế kỉ XVI (1591)
đời Mạc Mậu Hợp, ngôi chùa này được chính quyền phong kiến và nhân dân
trong vùng xây dựng lại với công lao to lớn của Đại đức Thích Hải Triều
“Dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và làm lại những chỗ tường bị hư hỏng khiến
cho hơn 500 năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại đựơc mới mẻ”.
Tuy ngôi chùa được khôi phục nhưng cây bảo tháp thì không đựơc dựng lại.
Dưới thời nhà Nguyễn, chùa Đọi Sơn có sửa lại thượng điện, tiền đường, nhà
tổ, gác hương, nghi môn…ngôi chùa đã dần được khôi phục và mở rộng, đúc
tượng Di Lặc nặng 1000kg bằng đồng. Đến đời sư tổ thứ 5 là Thích Chiếu
Thường trụ trì đã xây dựng hoàn chỉnh ngôi chùa 125 gian. Hoà thượng là
người có pháp tăng quảng đại, có nhỡn thông cao cường, một đêm nhìn thấy
24
một bóng nữ nhân nhưng không có hình từ phía hang động vào chùa ăn mày
cửa Phật. Sư tổ liền sai tiểu sang cúng chúng sinh rồi bí mật rình ở phía sau,
bỗng cửa hang lộ ra những chiếc chĩnh. Nhà sư chỉ kịp viết vội chữ Tam Bảo
lên những chiếc chĩnh. Nữ nhân đó trở về thấy chữ nhà Phật nên không dám
đóng cửa hang liền nộp lên nhầ chùa và xin ăn mày lộc Phật mãi mãi.
Đó là những chiếc chĩnh vàng của bọn giặc Minh. Chúng sang cướp
nước ta, vơ vét của cải rồi tìm thầy địa lí chọn đất xây mả để của và chôn theo

một cô gái đẹp còn trinh để làm thần giữa của. Thời gian đã quá lâu, nữ thần
giữa của không còn linh ứng nữa và chết biến thành con ma đói đêm đêm vào
chùa để xin ăn. Sư tổ dùng những chĩnh vàng đó để xây dựng chùa, hoàn
thành những ván in sách và lưu hành những bộ kinh: Kinh Di Đà, kinh Dược
Sư, kinh A Hàm, kinh Bảo Huấn, kinh Hộ Pháp, kinh Nhật Tụng. Lúc đó chùa
là một trong số ít những ngôi chùa lớn trong nước và trở thành trường Bắc Kỳ
Phật Giáo, là nơi tùng lâm chốn tổ, giáo dục tăng ni trong 3 tháng hè gọi là
trường Hạ.
Đến năm 1947 do chủ trương tiêu thổ kháng chiến, chùa lại bị phá một
lần nữa. Sau ngày hoà bình lập lại vào năm 1957 tăng ni phật tử và nhân dân
trong vùng đã sửa chữa và tôn tạo di tích, từng bước khôi phục lại diện mạo
và không gian chùa. Hiện nay trong chùa vẫn còn lưu giữa nhiều di vật quý
đặc biệt là những di vật có niên đại từ thời Lý. Do lịch sử và ảnh hưởng của
ngôi chùa này đối với đời sống tôn giáo không chỉ với nhân dân trong vùng
mà còn cả các bà con của khu vực lân cận, ngày 10-4-1992 Bộ Văn hoá thông
tin đã có quyết định 519/CP công nhận chùa Long Đọi Sơn là di tích lịch sử
văn hoá quốc gia cần được bảo vệ và tôn tạo. Hiện nay, nhà nước đã cấp kinh
phí cho chùa xây dựng đúng 125 gian nhằm khôi phục diện mạo vốn có xưa
kia của nó.
25

×