Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TẢN mạn về địa LAN KIẾM cổ TRUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 18 trang )

TẢN MẠN VỀ ĐỊA LAN KIẾM
Lan Kiếm (Cymbidium) là một chi trong họ Lan. Lan Kiếm có những lồi bám trên cây, chúng ta g ọi là phong lan Ki ếm
(Epiphytic Cymbidium) và có những lồi mọc trên đất, được gọi là địa lan Kiếm (Terrestrial Cymbidium).
Địa lan Kiếm cổ truyền có các đặc điểm sau: Bản lá hẹp, dài, l ả l ướt, đ ầu nh ọn; Ba cánh đài c ủa hoa xoè r ộng, hai cánh hoa
hơi úp lại, che phía trên của nhuỵ hoa. Cánh mơi thường cong, có đi ểm các màu. Cành hoa th ẳng t ừ d ưới lên, có th ể cao ho ặc th ấp
hơn lá; Độ bền của hoa từ 15 đến 30 ngày; Mùi hương của hoa: nhiều loài hoa rất thơm nh ưng mùi h ương d ịu rất d ễ ch ịu.
Cuốn sách về lan đầu tiên của loài người là cuốn Kim Chương Lan Ph ổ của Tri ệu Th ời Khang vi ết vào năm 1233 mơ t ả 30
lồi địa lan Kiếm, chủ yếu là Mặc lan.
Ở Việt Nam, hiện nay người ta thường biết đến các loại địa lan kiếm như:
1.Cymbidium
aloifolium * (L.) Sw.
1799: Kiếm lô hội: các
biến thể như: vàng cánh
bầu, vàng cánh chim,
ánh tím thái nguyên,
trắng thái nguyên, trắng
yên bái, trắng hạ long

2. Cymbidium
bicolor* Lindl. 1833:
Kiếm 2 màu

Vàng cánh chim

Bicolor

Vàng cánh bầu

Bicolor trắng

Trắng thái


nguyên

Ánh tím thái nguyên

Tuyết Ngọc


3. Cymbidium
finlaysonianum* Wall.
ex Lindl. 1833: Kiếm
tiên vũ (các biến thể:
phan trí (lá sần, thùy
trơn), xanh huế, vàng
tây ninh, vàng củ
chi….)

Phan Trí lá láng

Xanh Huế

Thùy trơn

Vàng Tây Ninh

5. Cymbidium
eburneum Lindl.
1847: Bạch ngọc

lá sần


4. Cymbidium
dayanum* Rchb. f
1869: Bích Ngọc, Tố
Tâm

Bích ngọc

Bích ngọc đỏ

Bích ngọc
trắng

5. Cymbidium
ensifolium* [L] Swartz
1799: Thanh ngọc

Đại thanh

Đại hồng

Tứ thời

Thanh ngọc

Hoàng Vũ

Hoàng điểm

Vàng Củ Chi



27. Cymbidium
sinense* [And.] Willd.
1805: Mặc lan

Đại mặc

Mặc biên

Ngân biên

Cẩm tố

19. Cymbidium
kanran Makino 1902
21. Cymbidium
lowianum* (Rchb. f.)
Rchb. f. 1879: Hoàng
lan (Trần Mộng)
Một số loại địa lan lai
khác như: Địa rủ, địa
lan Sato …

Địa lan Kiếm sống ở các thảm rừng núi chủ yếu là ở 16 tỉnh mi ền Trung và Nam Trung Qu ốc, vô cùng phong phú. Các nhà
khoa học phân loại thành 28 lồi trong đó chỉ có 11 là các loài lan Kiếm m ọc trên đ ất (đ ịa lan Ki ếm). Tuy v ậy ch ỉ có 6 lồi đ ược tơn
vinh và chăm sóc như Quốc hoa: Cymbidium Goeringii, Cym Longibracteatum; Cym. Ensifolium, Cym Sinense, Cym Karan.


Điều đáng chú ý nhất là các sách báo Trung Qu ốc vi ết về lan, ch ỉ chú tr ọng đ ến đ ịa lan Ki ếm, r ất ít sách nói đ ến các lồi lan
khác. Trong mười năm gần đây mới có sách viết về các gi ống phong lan lai đã nuôi tr ồng công nghi ệp hố nh ư: H ồ đi ệp, Hồng

thảo, Cát lan.
Các loài địa lan Kiếm mọc trong rừng sâu, được tuy ển l ựa đưa về các v ườn Th ưởng uy ển do các “Lan quan” chăm sóc. Sau
đến dinh các vị quan lại, các mảnh vườn của các nhà văn hố l ớn, các nhà giàu có, d ần d ần thành m ột ngành tr ồng tr ọt trong dân,
bên cạnh một ngành săn lùng lan trong rừng sâu, núi cao.
Sách hướng dẫn nuôi trồng, phân loại, săn tìm và th ưởng th ức đ ịa lan Ki ếm đ ược vi ết liên ti ếp t ừ đ ời này sang đ ời khác và
được bổ sung không ngừng. Ngày nay không kể các sách viết về lan ở Trung ương mà các đ ịa ph ương cũng vi ết r ất nhi ều sách v ề
địa lan Kiếm. Nghệ thuật chụp ảnh hoa lan đạt tới trình độ cao nên ảnh trong sách r ất đ ẹp.
Nền giáo dục cổ xưa của Trung Quốc và các nước Đông Á như: Nh ật B ản, Tri ều Tiên, Vi ệt Nam th ường uyên thâm, tr ừu
tượng, liên tưởng sâu sắc từ một sự kiện cụ thể, nhỏ nhoi nhưng bao giờ cũng đi tới những hi ện tượng to l ớn h ơn nhi ều:
Ngô

đồng
nhất
diệp
lạc
Thiên
hạ
tận
tri
thu
(Một chiếc lá ngô đồng rơi, cả thiên hạ đều cảm thấy mùa thu).
Do đó các sách viết về địa lan Kiếm đều khá chú ý đến hướng d ẫn chiêm ng ưỡng lan và gi ới thi ệu các l ời nói c ủa các v ị hi ền
triết cùng với các bài thơ hay nhất nói về lan của các nhà văn hoá nổi ti ếng.
Người ta phân biệt rõ hai hoạt động: chăm sóc lan là các ho ạt đ ộng lí trí mang tính khoa h ọc kỹ thu ật, nh ưng th ưởng th ức
lan là hoạt động mang tính nghệ thuật, thẩm mỹ, tình cảm. Thường người ta hi ểu thưởng thức địa lan Ki ếm trong 4 ch ữ:
*
Hương,
Sắc,
Tư,
Vận

- Hương lan Kiếm được tôn là Vương giả chi hương, thiên hạ đệ nhất hương, h ương thanh, không h ắc, nh ưng đ ậm đà, khó quên,
thoắt
ẩn
thoắt
hiện,
như
gần
như
xa.
- Mầu sắc của hoa lan là mầu sắc của 3 cánh đài, của 2 cánh hoa, c ủa cánh môi, c ủa h ọng hoa, c ủa lá. Thiên nhiên đã vô cùng t ỉ m ỉ
tuyển lựa mầu, tô vẽ cho các phần của hoa rất phong phú, nh ưng thanh nhã không quá s ặc s ỡ.
- Tư là dáng vẻ của cây địa lan Kiếm được đánh giá thanh cao c ốt cách, phong đ ộ hiên ngang, nh ưng v ẫn rung rinh tr ước gió, hài
hồ
giữa
cương

nhu.
- Vận là chỉ ý vị của địa lan Kiếm, đây là đi ều tự hào nhất c ủa tất c ả các dân t ộc Đông Á – Chiêm ng ưỡng lan d ần d ần sẽ t ự th ấy có


sự thống nhất cái đẹp bên ngoài của cây lan v ới “cái th ần” th ẳm sâu bên trong, hình thành s ự liên t ưởng ch ặt chẽ sâu s ắc, c ửa s ổ
trí tuệ văn hố như được mở rộng, khơi thông thế giới tinh thần, hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.
Địa lan Kiếm đã chiếm vị trí độc tơn hàng nghìn năm trong văn hố c ủa ng ười Đông Á, nh ất là ở Trung Qu ốc, nên s ự tuy ển
lựa và chăm sóc rất tinh vi đã hình thành các quan đi ểm, các h ọc thuy ết về th ẩm đ ịnh lan.
Quan điểm địa lan Kiếm là “Bách hoa chi anh” nên phải có s ự k ết h ợp c ủa hoa lan v ới nhi ều loài hoa quý khác. B ằng các s ự
tuyển lựa chăm sóc đặc biệt nên hình thành rõ rệt bốn chủng lan có các cánh đài t ừ hình lá trúc t ới hình cánh hoa sen, cánh hoa
thuỷ tiên và cánh hoa mai. (Hình 1)

Quan điểm vật dĩ hy vi quý (vật hiếm được quý trọng) các gi ống lan có bi ến d ị đ ược q h ơn vì hi ếm có.
- Biến dị về vị trí cánh đài ở hai bên được gọi là vai (Hình 2)



- Biến dị về lá, lá ngắn đi, có viền ở mép đầu lá, có vi ền ở mép t ừ g ốc t ới đ ầu, lá có các đ ốm – th ường là vi ền có m ấu tr ắng
hoặc ngà. (Hình 3).


Biến
dị
về
hoa,
hoa

nhiều
cánh,
hoa

- Quan điểm về thẩm định mầu sắc.
Luận
về
ý
nghĩa
mầu
sắc
của
hoa
lan
được
ghi
Mầ u
trắng:

thanh
khiết,
trang
nhã,
Mầ u
trắng
ngà:
dịu
dàng,
thanh
cao,
Mầ u
hồng,
màu
đỏ:
rực
rỡ,
nồng
nhiệt,
Mầ u
lục:
thanh
tân,
tao
nhã,
sống
động,
Mầ u
tía:
u

kiều,
đằm
thắm,
dịu
dàng,
Mầ u
tím:
thanh
cao,
đằm
thắm,
Mầ u
vàng:
trong
sáng,
thần
bí,
kiêu
sa,

3

cánh

mơi.


như
cao
dun

may
hấp
chân
mộng
thanh

sau:
q.
dáng
mắn.
dẫn.
thành
mơ.
nhã.


Mầ u
hồng
đỏ:
huy
Mầ u
đen:
tráng
lệ,
uy
nghiêm,
Nhiều
mầu:
sặc
sỡ,

phồn
Pha lê trên cánh hoa (và trên lá): Kỳ diệu, lung linh, cao quý, trong sáng, ng ọc ngà.
Bảng phân loại lan theo các quan điểm trên.

hồng,
thần
vinh

hào
bí,


độc
hoa

hoa.
đáo.
lệ.

Gần đây nhiều nhà nghiên cứu về thẩm định lan đưa ra việc g ắn sao cho các gi ống lan – t ừ 1 sao đ ến 5 sao, t ừ l ương ph ẩm
(loại thường) đến giai phẩm, quý phẩm – cao quý phẩm cuối cùng là cực phẩm (tinh ph ẩm).
Các loại được xếp cực phẩm thường có nhiều biến dị về hoa và về lá và được gọi là lan ngh ệ thu ật.
Nhiều sách của Trung Quốc cũng giới thiệu và đánh giá khá chi ti ết v ề các gi ống lan ở Đài Loan, Nh ật B ản và Tri ều Tiên.
Có 4 dịng Xn lan nổi tiếng của Trung Quốc và người Nh ật cũng ca ng ợi các loài này là T ứ đ ại Thiên V ương c ủa Qu ốc hoa
Nhật. Người ta cũng so sánh thấy Xuân lan của Trung Qu ốc th ơm h ơn Xuân lan Nh ật B ản, nh ưng màu s ắc Xuân lan c ủa Nh ật B ản
lại phong phú hơn, có giống mầu vàng, màu tím, mầu đỏ, màu trắng hoặc đa sắc.
Cho đến nay hàng ngàn giống địa lan Kiếm của Trung Qu ốc, Đài Loan, Nh ật B ản, Hàn Qu ốc đã đ ược đ ặt tên trên c ơ s ở: loài
lan, cánh đài giống hoa sen, hoa mai, hay hoa thuỷ tiên, mầu sắc, địa phương đ ặc bi ệt có lồi hoa đó, ho ặc m ột đ ặc đi ểm riêng Hu ệ



lan hoàng thuỷ tiên, (Huệ lan cánh hoa thuỷ tiên mầu vàng). Liên bi ện lan Vân Long Hoàng Hà – (Lan cánh sen vàng, r ồng v ần
mây).
Địa lan Kiếm, có cành hoa thẳng, lá lan dài l ả l ướt rất thích h ợp v ới nét vẽ m ực mài bút lông nên các ho ạ sỹ Đông Á tha h ồ
múa bút để biểu đạt lý tưởng và tình tứ, hình dáng và tinh thần gắn liền nhau, ý nghĩa r ất sâu s ắc.
Trong nhóm Bát quái Dương Châu (Trung Quốc) đặc bi ệt là Tr ịnh Nhi ếp (tự là B ản Ki ều) đã dành 50 năm c ủa cu ộc đ ời đ ể
vẽ về địa lan Kiếm (và tre trúc) để lại cho đời những tác phẩm rất quí giá.
Địa lan Kiếm phát triển tốt ở nhiệt độ từ 10°C đến 30°C. Đặc bi ệt chúng c ần đêm l ạnh xu ống d ưới 15°C và ban ngày trên
25°C để hình thành mầm hoa. Do đó chỉ ở phía Bắc của Việt Nam mới có thú ch ơi địa lan Ki ếm.
Người nổi danh nhất trong giới chơi lan của Việt Nam là vua Tr ần Anh Tông (th ế k ỷ XIII) có Ngũ Bách Lan Viên “V ườn 500
chậu lan”. Các loài địa lan Kiếm tồn tại trong các thảm rừng ở Vi ệt Nam t ới ngày nay ch ỉ có 5 lồi, có tên khoa h ọc: Cymbidium
Cyperifolium, Cym Ensifolium, Cym Insigne, Cym Lancifolium và Cym Sinense. Chúng bao g ồm các gi ống lan có m ầu tím s ẫm, màu
lục, mầu trắng, mầu vàng v.v… như: Đại Mặc, Hoàng Vũ, Thanh Trường, Bạch Ngọc v.v…
Địa lan Kiếm hoa nhỏ và không rực rỡ, hương thơm dịu nên ch ưa th ực hấp d ẫn nhi ều ng ười dân Vi ệt Nam nh ư hoa h ồng,
hoa sen, hoa huệ, hoa cúc. Vì vậy các tao nhân m ặc khách yêu lan th ường t ự hào v ới nhau v ề câu nói c ổ x ưa:
Thức
giả
thị
bảo,
Bất
thức
giả
thị
thảo
Biết thì quý như báu vật – khơng biết thì coi như cây cỏ.
Cũng lý do đó địa lan Kiếm khơng phải là lồi cây hoa mang tính hàng hố nh ư: cúc, sen, h ồng, hu ệ v. v… M ỗi gia đình yêu lan
chỉ trồng độ 5, 10 chậu, sớm chiều nâng niu chăm sóc. Khi có hoa n ở l ại t ụ h ọp, trà quý, r ượu ngon, nh ững bài th ơ hay đ ược mang
ra bình phẩm thâu đêm. Địa lan Kiếm là vật biếu, quà tặng rất quý giá.
Các bài tạp văn, tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, của Nguyễn Tn cịn nói rõ thú ch ơi lan r ất trang nhã c ủa các nho sỹ Vi ệt Nam
thời xưa.
Tâm lý thích truyền thống, khơng ca ngợi biến dị nên có lẽ các gi ống đ ịa lan Vi ệt Nam còn gi ữ nguyên g ốc t ự nhiên nh ư cánh

hoa lá trúc, lá một màu lục biếc – Vài giống có bi ến dị về lá như M ặc biên (có vi ền ở lá) không quý b ằng Đ ại m ặc ho ặc Ngân biên,
Kim biên có viền trắng, viền vàng ở mép lá, không quý bằng Bạch Ngọc Đại Kiều v.v…


Tuy vậy có một số người chịu ảnh hưởng của các lan hữu Trung Quốc như ca ngợi Vai b ằng, Vai bay h ơn vai xuôi.
Nhưng sự biến dị về hoa như cả 3 cánh hoa đều biến thành cánh mơi, hoặc hoa có r ất nhi ều cánh thì hồn tồn khơng đ ược
chấp nhận. Phải chăng vì nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam ch ịu đ ựng s ử hu ỷ ho ại c ủa ch ất đ ộc da cam làm bi ến d ạng con ng ười
và cây cỏ nên không ưa các hoa lan biến dị được coi là quái g ở.
Kiến lan (Cym Emsifilium) được đưa sang Châu Âu vào đầu thế kỷ 18. Người chơi lan Châu Âu không ưa đ ịa lan Ki ếm, chê là
hoa nhỏ, màu xỉn, hương thơm gia vị. Thái độ này khác hẳn v ới s ự n ồng nhi ệt đón ti ếp các gi ống Cát lan t ừ Nam Mỹ t ới ho ặc lan
Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii) đưa từ Việt Nam sang.
Nhưng các nhà thực vật lại đánh giá cao địa lan Kiếm. Vì có kho ảng nhi ệt đ ộ s ống khá r ộng (5°C-37°C) ít sâu b ệnh và d ễ lai
tạo. Chính vì vậy người ta đã lai tạo ra các gi ống địa lan Ki ếm lai, cây to hoa l ớn, m ầu s ắc s ặc s ỡ, r ất h ợp v ới s ở thích ng ười Châu
Âu, thích hoa được cắt cành. Người Đơng Á khơng đón nhận các giống hoa lan l ộc ngộc này.
Mặt khác, người Đông Á không bao giờ cắt cành hoa địa lan Ki ếm đ ể c ắm l ọ. V ới quan đi ểm 11 tháng ch ơi lá, 1 tháng ch ơi
hoa nên chậu địa lan Kiếm khơng có hoa vẫn là một vật trang trí l ịch sự trong các phịng khách.
Trong các bài thơ về lan của Trung Quốc cũng như Vi ệt Nam, xưa và nay có hai đi ều đáng nói: khơng có bài th ơ não nùng ai
ốn vì liên tưởng hoa thơm chóng tàn, người đẹp thì “bạc mệnh”. Chắc vì hoa lan ki ếm khá b ền. M ặt khác cũng không ai bu ồn vì
hoa lan biết nói. Nhà thơ đời Đường, Lưu Vũ Tích đã lo l ắng h ộ các c ụ già, khơng cịn đ ược h ưởng nh ững cái đ ẹp trên đ ời, ch ỉ cịn
có hoa và nếu hoa biết nói
Đãn

sầu

hoa

hữu
nhân

ngữ

khai.
lời
nua

Bất
vị
lão
Buồn

hoa
nói
lên
Rằng
hoa
chẳng
nở
cho
người
già
(Tản Đà dịch)
Thực ra chiêm ngưỡng hoa địa lan Kiếm cần có tâm hồn thư thái, bình tĩnh, ng ồi lâu th ấm thía d ần d ần: s ắc nhã, h ương d ịu,
dáng thanh. Điều này rất thích hợp với người cao tuổi, nhàn nhã – như v ậy địa lan Ki ếm đã n ở hoa ph ục v ụ các v ị lão thành r ồi,
can chi phải lo lắng hoa lan nở cho ai!


Người

Việt
Nam
cũng

u
q
lan
lắm
chứ:
u
mình
một,
q
lan
mười
Chỉ một lần ngắm, trọn đời ngẩn ngơ.
u
lan
lắm,
q
lan
nhiều
nên
người
ta
cũng
trách
lan
như
trách
ng ười
u:
Hương
lan,

người
ngọc
hay

lững!
Chợt có rồi khơng đến ngỡ ngàng!
Gần đây có một nhận xét khá hay, người nào có thú ch ơi lan cũng tr ẻ h ơn lên:
Ai
đã

lan
chẳng
thấy
già
Vị nào cũng trẻ, ngỡ mười ba.
Nói
vậy

nói
q

nói
cho
vui
thơi
Sắc
mầ u
tươi
thắm,
lan

sau
trước
Hương ngát quanh năm, mãi chẳng già.
Về mặt tâm lý, người cao tuổi chơi lan luôn luôn th ấy những bông hoa lan này đang r ực r ỡ, nh ưng l ại có các n ụ lan kia s ắp
nở – và rồi người ta mong đợi ngày mai, khơng sợ ngày mai, khơng cịn th ấy nh ững chu ỗi ngày dài lê thê bu ồn, vì ln ln có lan
nở và lan sắp nở bên mình.
Cho đến nay ở Hà Nội, địa lan Kiếm chỉ chi ếm chừng 10% trong các v ườn lan (30% là phong lan r ừng, 60% là phong lan lai
đã được ni trồng cơng nghiệp hố). Việc nghiên cứu nhân gi ống và ni tr ồng cơng nghi ệp hố đ ịa lan Ki ếm cịn q ch ậm nên
các lồi hoa này rất đắt. Một chậu Thanh Ngọc (5 thân, 3 giò hoa) đ ắt b ằng 100 ch ậu phong lan Hoàng Th ảo lai, ho ặc 50 ch ậu
phong lan Hồ Điệp lai.
Chúng ta mong rằng các nhà thực vật nghiên cứu về lan nhanh chóng làm cho m ọi ng ười Vi ệt Nam đ ều có th ể chiêm
ngưỡng tất cả cái đẹp, cái quý của địa lan Ki ếm truy ền th ống Vi ệt Nam nh ư: Thanh Ng ọc, Hoàng Vũ, Thanh Tr ường, Đ ại M ặc,
Trần Mộng, Tứ Thời hay Bạch Ngọc đại Kiều, Tiểu Kiều v.v…


(Hoa màu hồng)


(Liên biện lan như ý mai – Lan cánh sen đóa hoa mai như ý)


(Lan cánh sen màu lục có pha lê)


(Hội túy hà lan – Lan cánh sen hội tụ cái đẹp)


(Mặc lan cánh hoa mai)

(Lan đa sắc)



(Đại tuyết tố – Đại tố tâm)


(Xuân kiếm cả ba cánh hoa thành cánh môi – biến dị về cánh hoa)
Theo Dương Xuân Trinh – hoalanvietnam



×