Tải bản đầy đủ (.doc) (169 trang)

phương hướng và giải pháp đổi mới 98 sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước 98 cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.21 KB, 169 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc” [41, tr.4]. Trong lịch sử vẻ vang của mình, Đảng luôn
giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng và xã hội Việt Nam.
Kể từ ngày thành lập đến nay, với lý tưởng và mục tiêu cao đẹp,
bằng trí tuệ, tài năng và phẩm chất chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Nhìn nhận khách quan và sâu sắc, ai ai cũng thấy: “Đó là thắng
lợi oanh liệt của cuộc kháng chiến chống xâm lược, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa đến
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho thế và lực nước ta
mạnh hơn bao giờ hết” [92].
Nói đến thắng lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có nghĩa là nói
đến thắng lợi của các tổ chức đảng, của các đơn vị, của các tỉnh uỷ, thành
uỷ trong cả nước. Các tỉnh uỷ, thành uỷ (gọi chung là tỉnh uỷ) là một cấp uỷ
Đảng, đồng thời là “nhịp nối” không thể thiếu trong guồng máy của Đảng.
Một mặt, nó bảo đảm cho đường lối, chính sách của Trung ương đến với cơ
sở, đi vào quần chúng; mặt khác, nó kịp thời tổng kết thực tiễn phong phú của
từng địa phương để khẳng định hoặc bổ sung đường lối, chủ trương của Đảng.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta
suốt hơn 70 năm qua đã chứng minh sinh động cho nhận định này.
Trong giai đoạn vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở đường lối
1
chung, các tỉnh uỷ ở hai miền Nam - Bắc đã có những vận dụng linh hoạt,
sáng tạo, chỉ đạo thực hiện các phong trào ở địa phương có hiệu quả. Các


cấp uỷ ở miền Bắc đã lãnh đạo nhân dân xây dựng các mô hình sản xuất
độc đáo, nhiều điển hình tiên tiến; các cấp uỷ ở miền Nam đã có những chủ
trương và hành động táo bạo, góp phần hình thành đường lối chiến tranh
nhân dân đầy sáng tạo. Trong thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, đưa
nước ta tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, các tỉnh uỷ đã đề ra
những chủ trương đúng đắn, sáng tạo, làm cho sản xuất "bung ra" nhằm
phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển
đường lối đổi mới của Đảng.
Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng và xuất phát từ thực tế địa
phương, các tỉnh uỷ đã lãnh đạo toàn xã hội vượt qua những trở ngại, liên tục
phấn đấu vươn lên, đạt đựơc nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ
thống chính trị ở địa phương. Riêng trong lĩnh vực xây dựng và phát triển cơ
quan nhà nước, các tỉnh uỷ đã từng bước nhận thức đúng vị trí, vai trò của
mình trong quan hệ đối với nhà nước; xác định những nhiệm vụ chính trị
ngắn hạn và dài hạn để định hướng hoạt động; có những chủ trương, biện
pháp cụ thể củng cố bộ máy tổ chức, bố trí cán bộ có năng lực công tác cơ
quan nhà nước; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật
và thiết lập các quan hệ công tác ngày càng hợp lý hơn.
Mặc dù đã đạt được những tiến bộ rất quan trọng, nhưng sự lãnh đạo
của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, nếu
không nói là còn chưa bảo đảm tính khoa học và tính hiệu quả. Nhiều khâu
trong quá trình lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh còn
trong tình trạng chồng chéo, lấn sân nhau; và điều đó làm triệt tiêu nhiều
động lực, gây cản trở sự phát triển của xã hội. Thực tiễn lãnh đạo của các
tỉnh ủy trong thời gian qua đã bộc lộ những mặt hạn chế chủ yếu sau đây:
2
Thứ nhất, sự “song trùng” của hai cơ quan quyền lực.
Hai hệ thống bộ máy quyền lực (Nhà nước) và "siêu" quyền lực (Đảng)
này cùng giải quyết các nội dung của một mục tiêu. Đối với đơn vị hành

chính gần cơ sở và cấp cơ sở, sự phân định này bị xoá nhoà. Có chăng, cơ
quan nhà nước thì ban hành các quyết định hành chính, còn cơ quan đảng
thêm được nhiệm vụ công tác đảng và đoàn thể.
Thứ hai, chưa xác định rõ phạm vi chức trách, thẩm quyền của cấp uỷ
địa phương.
Do hiểu sự lãnh đạo của cấp ủy một cách chung chung, đồng nhất sự
lãnh đạo của cấp uỷ với lãnh đạo Đảng, không ít cấp ủy địa phương “sáng
tạo” nhiều chủ trương theo ý muốn chủ quan của mình, buộc chính quyền
“vận dụng”.
Thứ ba, tỉnh uỷ bao biện, "lấn sân" cơ quan nhà nước, xem cơ quan
nhà nước là công cụ "hợp thức hoá" các quyết định của cấp uỷ.
Do ngộ nhận về thẩm quyền tối cao của cấp uỷ trong việc ban hành các
quyết định, bầu cử Hội đồng nhân dân, thiết lập các cơ quan nhà nước, chọn
cử nhân sự mà nhiều người nghĩ rằng, cơ quan nhà nước là tổ chức chỉ để
thực hiện các quyết sách của cấp uỷ. Sự lệch lạc về nhận thức này là một
trong những nguyên nhân làm cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân rơi
vào sự vụ, hình thức, kém năng động.
Thứ tư, tỉnh uỷ bỏ mất vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của mình.
Nhiều lúc, nhiều nơi cấp uỷ đã mặc nhận, thậm chí đồng tình để Uỷ ban
nhân dân thực hiện những công việc, những chính sách trái với quy định
chung, lợi dụng danh nghĩa “vận dụng sáng tạo” để làm những việc phi pháp
chỉ vì lợi ích cục bộ địa phương.
Thứ năm, sự lãnh đạo của tỉnh uỷ bị từ chối.
Có thể do những động cơ khác nhau hoặc sự xung đột trong phong
cách, tính cách của các nhân vật chủ chốt cấp uỷ và cơ quan nhà nước, chủ
thể lãnh đạo cơ quan nhà nước muốn khước từ sự lãnh đạo của cấp uỷ.
3
Trong những vấn đề nêu trên, tình trạng chồng lấn về quyền lực được biểu
hiện dưới dạng lấn sân là hiện tượng có tính phổ biến mà nguyên nhân sâu xa
của nó là do nhận thức quyền lực cấp uỷ là “thống soái” ở mỗi địa phương.

Từ rất sớm, Lênin đã cảnh báo hiện tượng: "Giữa đảng và các cơ
quan Xô-Viết, hiện đã có những quan hệ không đúng”. Nhưng, nó chẳng
những không được ngăn chặn, mà còn xảy ra khá phổ biến ở các mô hình
nhà nước xã hội chủ nghĩa giai đoạn sau đó. Trước khi Đảng cộng sản Liên
Xô bị giải tán, sự việc ấy vẫn diễn biến ở mức độ trầm trọng. Một nhà lãnh
đạo của Đảng này vào thời gian ấy đã chỉ rõ:
Kết quả là thường dẫn đến chỗ làm giảm tinh thần trách nhiệm của
người lãnh đạo các cơ quan Nhà nước, dẫn đến chỗ muốn đẩy trách
nhiệm này sang các cơ quan Đảng, còn ở các cơ quan này lại tự
dưng sinh ra các yếu tố của cách giải quyết công việc theo quan
điểm bản vị [17, tr.37].
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng từng mắc phải lỗi lầm đó và đã gây
nên hậu quả nặng nề trong đời sống xã hội. Sau này nhìn lại, nhân vật lãnh
đạo đầy uy tín của Đảng nhận thấy:
Hiện tượng quyền lực quá tập trung lại thêm khẩu hiệu lãnh đạo
nhất nguyên hoá của Đảng không thích hợp nữa, quyền lực tập trung
vào mấy cá nhân lãnh đạo, vào Bí thư thứ nhất, lãnh đạo nhất
nguyên hoá trở thành cá nhân lãnh đạo như thế tất nhiên tạo nên chế
độ quan liêu, phạm đủ loại sai lầm [126, tr.94].
Đối với nước ta, cách đây hơn 30 năm, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn
đã lưu ý: "Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức
năng của Nhà nước”. Và mặc dù sau đó, hầu như tất cả các Văn kiện Đại hội
của Đảng đều có phê phán và nêu phương hướng, giải pháp khắc phục hiện
tượng trên, nhưng chưa có chuyển biến căn bản. Rõ ràng, sự việc này đã ẩn
chứa những vấn đề lý luận và thực tiễn cần được lý giải.
4
Sự chồng chéo, trùng lấp giữa lãnh đạo của tỉnh uỷ và cơ quan quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực làm cho bộ máy cồng kềnh, giảm hiệu lực, kém
hiệu quả. Những hạn chế trong sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà
nước sẽ gây trở ngại lớn hơn trong điều kiện nước ta hiện nay. Nước ta đang

thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; gia nhập ngày
càng sâu hơn nền kinh tế quốc tế trong một "sân chơi" chung; công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Chỉ riêng nội dung
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng đủ để xem xét lại cách
thức lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước. Đặc trưng cơ bản nhất
của một nhà nước pháp quyền là tính tối cao của pháp luật, quyền lực thống
nhất, sự thứ bậc trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính. Và điều này đặt
ra câu hỏi về vị trí, thẩm quyền của cấp uỷ trong tình hình mới.
Thực trạng những năm qua cho thấy, sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ
quan nhà nước đã có những dấu hiệu không ổn; trong hiện tại và tương lai, để
thực hiện mục tiêu cách mạng trọng đại là xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước cần phải được đổi mới. Những nghiên cứu về Đảng cầm
quyền ở nước ta đều nhận thấy rằng:
Là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo mọi mặt đời sống kinh tế
- xã hội của đất nước, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, thực
hiện quản lý, điều hành mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội chủ
yếu bằng Hiến pháp và pháp luật, đòi hỏi phương thức cầm
quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đổi mới cho
phù hợp [112, tr.11].
Sự chậm trễ trong nghiên cứu và tiến hành đổi mới mạnh mẽ sự lãnh
đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh sẽ làm cho tỉnh uỷ rơi vào
5
hoạt động sự vụ, vụn vặt, kém hiệu lực và hiệu quả và nguy cơ lớn hơn, tỉnh
uỷ đứng ngoài lề sự phát triển, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước tuột
dần khỏi "tầm tay" của tỉnh uỷ. Từ những vấn đề đã nêu, việc nghiên cứu sự
lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh là một đòi hỏi cấp
bách, không những có ý nghĩa cho thực tiễn, mà còn có giá trị về mặt lý luận,

vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt, vừa đặt cơ sở cho việc nghiên cứu
khoa học sau này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đảng lãnh đạo Nhà nước mà chủ yếu là phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Đảng (hoặc cấp uỷ từng cấp) lãnh đạo trên các lĩnh
vực cụ thể như: kinh tế, hành chính, tư pháp là những mảng đề tài lớn được
sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Điều đó được thể hiện rõ ở một
khối lượng công trình đồ sộ, phong phú, với nhiều khía cạnh khác nhau:

- Về lý luận Đảng cầm quyền:
Có các tác phẩm: “Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền” của Lê Duẩn, Nxb
ST Hà Nội - 1981; “Đảng Cộng sản Liên Xô trong hệ thống chính trị của xã
hội Xô Viết”, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội - 1986; “Đảng trong hệ thống
chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa”, Nxb APN, Mátxcơva-1987; “Đảng
Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị” Nxb Sự thật, Hà Nội - 1991;
“Đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay”, tài liệu tham khảo phục vụ lãnh
đạo, nghiên cứu và giảng dạy (Đề tài KX05.09 - Hà Nội 1993); “Nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Học viện Hành
chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội - 1996; “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng cầm quyền” (Tạp chí Cộng sản số 28 tháng 10 năm
2003); “Bản chất của Đảng cầm quyền” của Hoàng Chí Bảo (Tạp chí Cộng
sản số 3, tháng 02 năm 2004); “Xây dựng Đảng cầm quyền: Một số kinh
nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí
Cộng sản số 5-2004); "Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt
6
Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004;
“Về sự cầm quyền của Đảng” của Nhị Lê (Tạp chí Cộng sản số 16 tháng 8
năm 2006); “Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội trong
sự nghiệp đổi mới - một số vấn đề đặt ra” của Hoàng Chí Bảo (Tạp chí Cộng
sản số 17 tháng 9 năm 2006).

- Về vai trò lãnh đạo của Đảng:
Có các tác phẩm: “Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản” của V.Lênin và
Stalin, Nxb ST, Hà Nội - 1972; “Đảng trong sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa
xã hội” Nxb ST, Hà Nội- 1990; "Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới” của Phân viện Đà Nẵng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Nxb Đà Nẵng - 2000; “Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất
nước” của Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002; “Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước” của Nhị Lệ (Tạp chí
Cộng sản số 30, tháng 10 năm 2002); “Đảng Cộng sản Việt Nam với công
cuộc đổi mới đất nước” Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2003; “Tìm hiểu
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam” do Đinh
Xuân Lý (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2005.
- Về thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước:
“Cải cách thể chế chính trị”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội - 1996.
“Thể chế Đảng Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do
Đặng Đình Tân (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2005. “Về xây
dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện nay” của Lê Minh Quân (Tạp chí
Cộng sản số 13, tháng 7 năm 2004).
- Về phương thức lãnh đạo của Đảng:
“Về phương thức lãnh đạo của Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
chuyên đề, 12 - 1995; “Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Trần
Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội - 2001; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với chính quyền cấp quận” của Vũ Hồng Khanh (Tạp chí Cộng sản số 23,
7
tháng 8 năm 2002); “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước” của Lê Đức Bình và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số 19,
tháng 7 năm 2003); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ở Đảng bộ Sơn
La” của Nguyễn Văn Thạo (Tạp chí Xây dựng Đảng số 6 - 2004); “Phương thức
lãnh đạo của Đảng với nhà nước và xã hội” của Nguyễn Khánh và Phạm Ngọc
Quang (Tạp chí Cộng sản số 9 tháng 5-2004); “Châu Thành (Bến Tre) đổi mới

phương thức lãnh đạo của cấp uỷ” của Nguyễn Văn Huỳnh (Tạp chí Xây dựng
Đảng số 10 - 2004); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của
Thang Văn Phúc (Tạp chí Cộng sản số 9/5-2006); “Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước” của Nguyễn Khánh (Báo Nhân dân
số: 18620 – 03/8/2006); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ với Uỷ ban
nhân dân tỉnh từ thực tiễn Tiền Giang” của Xuân Tế - Ngọc Chung (Tạp chí Xây
dựng Đảng tháng 9-2006); “Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh
đạo của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước” của Trương Tấn Sang (Tạp chí
Cộng sản số 24 tháng 12 – 2006).
- Về sự lãnh đạo của Đảng ở một cấp hoặc một lĩnh vực cụ thể:
Có các tác phẩm “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đoàn
thể nhân dân cấp phường trong điều kiện kinh tế thị trường” của Phân viện
Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1995; “Sự lãnh đạo kinh tế của tỉnh uỷ"(đề tài
cấp Bộ) của Lưu Văn Sùng, Hà Nội – 1999; “Hoàn thiện nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tư pháp” của Trần Đại Hưng (Tạp
chí Cộng sản số 21, tháng 11 năm 2004); “Đảng lãnh đạo xây dựng nền hành
chính nhà nước Việt Nam trong sạch, dân chủ và hiện đại” của Nguyễn
Khánh (Tạp chí Cộng sản số 20, tháng 10 năm 2006).
Dĩ nhiên, sự phân chia trên đây chỉ là tương đối. Và mặc dù đứng với
các góc độ và phạm vi đề cập khác nhau, các tác giả đều có sự tương đồng về
những điểm chính sau đây:
8
Thứ nhất, lý luận về Đảng lãnh đạo:
Một số chuyên luận đề cập sâu về khái niệm, quan niệm Đảng cầm
quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo và quản lý. Một số tác giả làm rõ
khái niệm về Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, trong đó các tác giả có sự
thống nhất khá cao về nội dung Đảng lãnh đạo.
Thứ hai, trong điều kiện có chính quyền, Đảng lãnh đạo phải thông

qua các cơ quan nhà nước:
Nội dung này được nhiều tác giả bàn luận và có chung quan điểm. Tiêu
biểu của luận điểm này được ghi nhận trong tác phẩm “Mấy vấn đề về Đảng
cầm quyền”. Cụ thể là:
Nhiệm vụ của Đảng khi chưa có chính quyền là giác ngộ, tổ chức
quần chúng đấu tranh lật đổ ách thống trị của giai cấp bóc lột để
giành lấy chính quyền. Khi đã có chính quyền thì nhiệm vụ của
Đảng là xây dựng và giữ vững chính quyền, triệt để sử dụng và phát
huy quyền lực của chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, trấn áp các lực lượng chống đối [23, tr.99].
Thứ ba, thành tựu của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo:
Các tác giả chứng minh thành tựu đổi mới toàn diện của đất nước do
Đảng lãnh đạo (tác phẩm: “Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới
đất nước”, “Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới”, “Đảng Cộng
sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước” ).
Thứ tư, tính tất yếu về sự đổi mới của Đảng:
Các tác giả đã làm rõ thực trạng, yêu cầu của đất nước, của thế giới để
chỉ ra tính tất yếu của việc Đảng phải đổi mới.
Tinh thần cơ bản là Đảng tự đổi mới để đổi mới xã hội, Đảng phải đổi
mới để củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng (tác phẩm “Đảng trong sự nghiệp
đổi mới vì chủ nghĩa xã hội” ).
9
Thứ năm, việc đổi mới phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản:
Các tác giả đều kiến nghị việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước phải tôn trọng các nguyên tắc như bảo đảm sự ổn định chính trị,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tiến hành thận trọng.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng với hình thức và phương
pháp mới:
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một trong
những chủ đề lớn được nhiều người đề cập. Kể từ khi nguyên Tổng Bí thư Lê

Duẩn nêu lên vào đầu thập kỷ 70 của thế kỷ thứ XX, việc bàn luận chủ đề này
tái bắt đầu từ những năm 90 được kéo dài mãi đến nay và nó là một nội dung
lớn của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X). Các tác giả đều nhất trí rằng, Đảng lãnh đạo Nhà nước phải thông
qua đường lối, chính sách; sự thuyết phục của tổ chức đảng và gương mẫu của
cán bộ, đảng viên; việc kiểm tra, giám sát của Đảng, của nhân dân đối với cơ
quan, công chức nhà nước và thực hiện thẩm quyền đối với công tác cán bộ.
Dù tực tiếp hay gián tiếp tiếp, các tác phẩm nêu trên đã có những gợi ý
tốt cho Luận án. Tuy nhiên, dưới góc độ chính trị học, chuyên đề về sự lãnh
đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh - một cấp có tính chiến
lược này - còn thiếu vắng. Luận án này cố gắng kế thừa những giá trị quý báu
đã có, tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề cần được làm sáng tỏ trong
điều kiện nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo, cụ thể là Đảng lãnh đạo Nhà
nước, Luận án phân tích thực trạng về sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan
nhà nước cấp tỉnh, nêu lên phương hướng và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo
của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong tình hình hiện nay nhằm
tăng cường vai trò và hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với các cơ quan
nhà nước và toàn xã hội.
10
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước và thực chất,
nội dung, yêu cầu của sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với chính quyền cấp tỉnh.
- Khảo sát, phân tích thực trạng, làm rõ mặt tốt và hạn chế cũng như
những vấn đề bức xúc đặt ra trong sự lãnh đạo của cấp uỷ tỉnh đối với cơ
quan nhà nước cấp tỉnh.
- Nêu phương hướng, giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với

cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đảng cầm quyền, về quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính
trị, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp hệ thống để xác định vị trí và mối
tương quan giữa các chủ thể trong hệ thống chính trị, nhất là mối quan hệ cơ
bản giữa Đảng và Nhà nước, Trung ương với địa phương.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp
lịch sử - logic; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp điều tra - phỏng
vấn; gắn lý luận với thực tiễn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trong giai đoạn từ đổi mới đến nay, dẫn chứng tư liệu từ thực
tiễn của tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh
Long, Long An, Tiền Giang, Bình Dương, Nghệ An, thành phố Hải Phòng.
11
Mặc dù luận án phân tích một số tỉnh, nhưng phạm vi luận án đề cập đến sự
lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước của cả nước nói chung. Tuy
mỗi tỉnh có những đặc điểm khác nhau, nhưng nội dung và thẩm quyền của
cấp tỉnh là thống nhất. Và do đó, kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa
cho các tỉnh, thành và các cấp hành chính trong toàn quốc.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án đã hệ thống hoá, phân tích các khái niệm lãnh đạo, đảng lãnh
đạo, lý luận về đảng cầm quyền; phản ánh và phân tích thực trạng sự lãnh đạo
của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước; góp phần luận giải rõ thêm lý luận về

sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với các cơ quan nhà nước cấp tỉnh; đưa ra ý kiến
mới về nội dung, mô hình lãnh đạo toàn diện nhưng không can thiệp trực tiếp,
xây dựng uy tín lãnh đạo, khắc phục tập trung quyền lực tuyệt đối và dự báo
các xu hướng lớn cần tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần hình thành nội dung, mô hình, phương thức cụ thể
hơn về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước ở địa phương và giúp cho tỉnh
ủy tiếp cận đầy đủ tính khoa học trong lãnh đạo, quản lý. Luận án có giá trị
không chỉ cho cấp uỷ địa phương trực thuộc Trung ương, mà còn cho các cấp
uỷ theo địa giới hành chính nói chung.
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu cho việc nghiên cứu,
biên soạn tài liệu giảng dạy, đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 3 chương, 9 tiết.
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO
NHÀ NƯỚC VÀ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH
1.1. KHÁI NIỆM LÃNH ĐẠO, ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm lãnh đạo, đảng lãnh đạo
Từ ngàn xưa, hoạt động của con người luôn gắn liền với tính cộng đồng
xã hội. Cộng đồng xã hội dù ở quy mô nào cũng đòi hỏi phải được tổ chức và
được quản lý. Chính vì vậy, quan hệ lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo là quan
hệ chính yếu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cho nên, vấn đề
lãnh đạo và quản lý đã trở thành đối tượng nghiên cứu, bàn luận của các
nhà tư tưởng, các nhà chính trị. Thông thường, khi nói đến lãnh đạo, người
ta hay nghĩ đến vai trò của những cá nhân đầy quyền lực, tác động mạnh
mẽ vào tổ chức mà người đó đứng đầu và thường là trên phạm vi quốc gia.

Cách hiểu trên đây thiên về hướng đồng nhất sự lãnh đạo nói chung với vai
trò lãnh đạo của các vĩ nhân, thường được thể hiện trong các học thuyết
trước học thuyết C.Mác. Mặc dù các học thuyết chính trị xã hội khác nhau
có nêu ý niệm về lãnh đạo, nhưng nó chỉ thực sự được mổ xẻ vào những
thế kỷ gần đây, nhất là ở thế kỷ XX. Phần lớn các nghiên cứu cũng chỉ chú
trọng vào hiệu quả lãnh đạo và do đó, tập trung giải thích về năng lực, hành
vi, phẩm chất và những yếu tố liên quan (tính mục đích, ý chí kiên cường,
lòng can đảm, lòng nhân ái và lòng tốt, chính trực và lương thiện, tính
khiêm nhường, công bằng và bình đẳng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản
lý, phát triển đội ngũ lãnh đạo…) xác định khả năng của người lãnh đạo
ảnh hưởng tới người khác nhằm đạt tới các mục tiêu của tổ chức. Từ những
năm giữa thế kỷ XX, các nước trên thế gới đã xuất bản rất nhiều công trình
nghiên cứu về lãnh đạo, quản lý. Ở nước ta, mãi tới những năm gần đây
mới xuất hiện những đầu sách, chuyên luận bàn về lãnh đạo, quản lý.
Trong các tác phẩm này, trước khi trình bày về những nội dung chính, các
tác giả thường dành hẳn một phần hoặc một chương bàn về khái niệm lãnh
13
đạo. Trong nhiều công trình, các tác giả chỉ ra rằng, thuật ngữ lãnh đạo
tương đồng với các khái niệm: “chỉ huy”, “soái lĩnh”, “trị nước”, “cầm
quân”, “tiết chế”, “tư lệnh”, “cai quản”, “tri nhậm”, “cai trị”, “đầu lĩnh”,
“tướng lệnh”, “quân lệnh”, “dụng nhân”, “kinh bang tái thế”, “bá đạo,
vương đạo”, hoặc “king”, “chief”, “head”, “captain” v.v. Có người làm rõ
nội hàm của khái niệm: “Lãnh đạo là sự ảnh hưởng (tác động) mang tính
tương tác, được thực hiện trong một tình huống, được chỉ đạo, thông qua
quá trình thông tin để đạt tới những mục tiêu cụ thể” (Tannenbaum,
Weschler và Masarik, 1961); “Lãnh đạo là quá trình ảnh hưởng tới những
hoạt động của nhóm có tổ chức để đạt tới mục tiêu" (Rauch và Behing,
1984) [61, tr.14]. Từ việc tìm dấu hiệu chung của Khái niệm, có tác giả
đã khái quát:
Lãnh đạo là một chức năng hoạt động xã hội của con người (cá

nhân hay tập thể) bằng phương pháp tác động, gây ảnh hưởng,
thuyết phục (một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng xã hội, một
dân tộc) nhằm tổ chức các mối quan hệ, tập hợp các thành viên để
huy động mọi khả năng và ý chí của họ hành động đạt nhưng mục
tiêu chung đã xác định [83, tr.35].
Có tác giả đi sâu vào việc phân biệt khái niệm lãnh đạo với khái niệm
quản lý, chỉ ra dấu hiệu đặc trưng của khái niệm lãnh đạo ở chỗ nó hướng
vào việc:
Nhận thức, lãnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ
mệnh của hệ thống; Làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ
thống (bao gồm việc phân tích các mâu thuẫn trong quá trình phát
triển), phát hiện nhân tố mới; Tổng kết được quy luật, xu thế phát
triển của hệ thống; Đề xuất các phương án chiến lược phát triển hệ
thống [115, tr.18].
Nói khái quát nhất, lãnh đạo là: "đề ra chủ trương, đường lối và tổ
chức, động viên thực hiện” [125, tr.568].
14
Mặc dù khai thác, nhấn mạnh ở những điểm khác nhau, nhưng phần lớn
các tác giả đều nhất trí đặc trưng của lãnh đạo là tính định hướng và sự vươn
tới việc đạt được mục tiêu của tổ chức. Tổng hợp các yếu tố đã nêu, có thể
hiểu rằng lãnh đạo là khả năng, tài năng vạch phương hướng, chỉ đường và
bằng ý chí, niềm tin, phẩm hạnh của mình (của tổ chức) nhằm lôi cuốn, cổ vũ
mọi người thực hiện mục tiêu của cá nhân, tổ chức đã định. Trên địa hạt chính
trị, khái niệm lãnh đạo gần đồng nghĩa với quyền lực chính trị, tức là “quyền
lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội (hoặc của nhân
dân - trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội), nó nói lên khả năng của một giai
cấp thực hiện lợi ích của mình” [122, tr.195].
Trên nền nhận thức chung về khái niệm lãnh đạo, nhiều tác giả đã đề
cập đến khái niệm lãnh đạo trong chính trị - khái niệm đảng lãnh đạo. Một số
tác giải luận giải khái niệm này xuất phát từ mục đích của tổ chức: “Đảng

chính trị được hiểu là một nhóm người được tổ chức để giành và thực thi
quyền lực” [1, tr.304]; “Chính đảng như một nhóm người cùng chung một lý
tưởng chính trị, kết hợp lại thành một tổ chức để chinh phục chính quyền hay
để tham gia vào chính quyền… Ảnh hưởng của chính đảng trên các cơ cấu
chánh phủ là rất dễ hiểu vì, các chính đảng đảm nhiệm việc cán bộ hóa không
những những cử tri và ứng cử viên mà còn cả các nghị sĩ và tổng, bộ nữa”
[111, tr.48]. Trong vài năm gần đây, hàng loạt công trình nghiên cứu về đảng
nói chung, Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng đã lý giải nhiều về đảng lãnh
đạo. Sự đồng thuận cao về khái niệm đảng lãnh đạo thể hiện ở: tính định
hướng chính trị, tổ chức lực lượng, thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư
tưởng nhằm lôi kéo các tầng lớp khác trong xã hội đi theo và thực hiện những
mục tiêu chính trị của đảng. §¬ng thêi, Lênin cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng
còn mềm dẻo hơn nhiều so với việc “chỉ huy nhẹ nhàng của một viên nhạc
trưởng”. Đảng lãnh đạo là việc định hướng chính trị, đề ra chủ trương và
tuyên truyền, cảm hóa, thu hút, lôi cuốn các lực lượng, các tầng lớp, các giới
15
tham gia thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chính trị ấy. Còn khi nói đảng
cộng sản lãnh đạo là nói đảng đưa ra những định hướng về quan điểm, nguyên
tắc xây dựng đất nước theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; lựa chọn các nội
dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và vận động, thuyết phục, tổ chức
các tầng lớp nhân dân thực hiện cho bằng được các nội dung ấy.
Tiến thêm một bước, một số tác giả còn phân biệt khái niệm đảng lãnh
đạo và đảng cầm quyền. Thật ra, các thuật ngữ “đảng cầm quyền”, “đảng
chấp chính”, “đảng nắm chính quyền” đã được dùng từ lâu ở các nước
phương Tây để chỉ rõ vai trò, vị thế và trách nhiệm của một đảng khi đã có
chính quyền; phân biệt đảng nắm chính quyền với những đảng không nắm
chính quyền, chưa giành được chính quyền hoặc ở vị trí đối lập. Người ta
nhận thấy rằng; “hễ đảng nào trong tổng tuyển cử mà chiếm được trên 50% số
ghế trong quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền, nếu không đủ thì
có thể liên minh các đảng để cầm quyền” [101]. Dù diễn đạt từ ngữ hoặc chỉ

ra các dấu hiệu có sự khác nhau trong chi tiết, nhưng hầu hết các ý kiến đều
thống nhất rằng: “Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền,
chi phối chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và
thực hiện tư tưởng, đường lối của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ
cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện” [113, tr.17].
Xét về bản chất, đảng cầm quyền tức là đảng lãnh đạo trong điều kiện
có chính quyền. Đảng cầm quyền là đảng đã chi phối, dẫn dắt chính quyền, sử
dụng quyền lực nhà nước trên thực tế để thực hiện mục tiêu chính trị của ®ảng.
1.1.2. Quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về đảng lãnh đạo nhà nước
Theo các nhà sáng lập học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, đảng lãnh
đạo hay đảng cầm quyền (khi đảng giành được chính quyền) là một tất yếu
lịch sử. Đây là một kết quả bắt nguồn từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ rõ: “Trong
16
tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô
sản là giai cấp thật sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [71, tr.610].
Với quan điểm khoa học lịch sử, C.Mác đã chứng minh quyền lãnh đạo
lịch sử đã chuyển sang tay giai cấp vô sản bởi những lực lượng sản xuất xã
hội, đã phát triển lên đến mức mà giai cấp tư sản không có thể chế ngự được
nữa, chỉ còn đợi đến lúc giai cấp vô sản đoàn kết lại, đoạt lấy những lực lượng
sản xuất đó để thiết lập nên một chế độ đem lại cho mỗi thành viên của xã hội
khả năng tham gia không những vào công việc sản xuất, mà cả vào việc phân
phối và quản lý của cải xã hội và nhờ đó tổ chức kế hoạch toàn bộ nền sản
xuất, làm tăng thêm những lực lượng sản xuất và những sản phẩm do lực
lượng sản xuất đó tạo ra đến mức đảm bảo thoả mãn được những nhu cầu hợp
lý ngày càng tăng của mỗi người.
Dĩ nhiên, trong cuộc đấu tranh giai cấp có tính lịch sử này, giai cấp vô

sản cần có một đảng chân chính lãnh đạo - Đảng Cộng sản. Trong lịch sử đấu
tranh giai cấp, chưa có giai cấp nào giành thắng lợi mà lại không xây dựng
được cho mình một đảng cách mạng. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của
giai cấp vô sản. Đó là những người kiên quyết nhất, là bộ phận cổ vũ tất cả
những bộ phận khác; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung
của phong trào vô sản. Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là
mục địch trước mắt của tất cả đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản
thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy
chính quyền. Tính quy luật của lịch sử là: chủ nghĩa tư bản nhất định được
thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và người có vai trò thực hiện bước thay đổi
thế giới là giai cấp công nhân mà Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
Đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen rất quan tâm xây dựng tổ chức cách
mạng, tiến hành cách mạng vô sản, lật đổ chế độ tư bản, hướng nhân loại đến
17
xã hội mới, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một
sự nghiệp lâu dài và được tiến hành bởi toàn bộ giai cấp vô sản trên toàn thế
giới, nhưng để làm được điều đó giai cấp vô sản ở mỗi nước phải tiến hành
cuộc các mạng ngay tại nước mình. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không
phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh
dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán
xong giai cấp tư sản nước mình đã” [71, tr.611]. Và “Vì giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái
nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” [71, tr.623-624].
Do chưa có tiền đề khách quan về đảng cầm quyền nên C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa phát biểu được những vấn đề cụ thể về đảng trong điều
kiện có chính quyền. Việc xuất hiện Công xã Pari cũng chỉ đủ để các ông nêu
những kinh nghiệm về giữ chính quyền.

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác về đảng, Lênin đã tích cực
đấu tranh để bảo vệ học thuyết Mác. Người đã phê phán gay gắt các quan
điểm xét lại, duy tâm về Đảng cộng sản, về cách mạng vô sản, kiên trì bảo vệ
và phát triển sáng tạo về “Đảng kiểu mới”. Theo Lênin, “Đảng kiểu mới” phải
là một tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, bao gồm những người giác ngộ
cách mạng cao, có thể xuất thân từ mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội nhưng
tự nguyện hy sinh vì lý tưởng cộng sản, trung thành với cách mạng, với nhân
dân. Người khẳng định rằng:
Không có một đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu tranh, không
có một đảng được sự tín nhiệm của tất cả những phần tử trung thực
trong giai cấp nói trên, không có một đảng biết nhận xét tâm trạng
quần chúng và biết tác động vào tâm trạng đó, thì không thể tiến
hành thắng lợi cuộc đấu tranh ấy được [64, tr.31].
18
Chỉ có một đảng chân chính mới bảo đảm duy nhất cho thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản tác động đến mọi quá trình xã hội, trước hết
là thông qua hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội. Vai trò lãnh đạo của
đảng là ở chỗ nó lãnh đạo nhà nước, các tổ chức xã hội, thông qua các tổ
chức này, lãnh đạo toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin chỉ
ra rằng: “trong nước cộng hoà chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay
tổ chức quan trọng nào do một cơ quan nhà nước giải quyết mà lại không
có chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng” [65, tr.38]. Tuy nhiên, sau
khi lãnh đạo chính quyền trong thời gian ngắn, Lênin cũng đã nhận ra sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những dấu hiệu “trục trặc”. Người
đã yêu cầu: Cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của
Đảng (và của Ban Chấp hành Trung ương của nó) với nhiệm vụ của chính
quyền Xô - Viết; tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động cho cán bộ Xô -
Viết và các cơ quan Xô - Viết, còn về Đảng thì dành quyền lãnh đạo chung
công tác của tất cả các cơ quan Nhà nước gộp chung lại, mà không can thiệp
một cách quá thường xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt như

hiện nay.
Nhưng, những lời chỉ dẫn xác đáng này không phải lúc nào cũng được
các đảng cộng sản tổ chức thực hiện nghiêm túc và trong một số trường hợp,
nó bị bỏ qua một cách cố tình.
Ngay từ những ngày đầu trở về nước hoạt động cách mạng, cùng với
việc xây dựng đường lối, chiến lược, sách lược cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng tổ chức Đảng. Người
xác định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy” [72, tr.267-268]. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng kiểu mới, Người ra sức huấn luyện, đào tạo,
19
xây dựng và rẻn luyện những người ưu tú xuất hiện từ các giai cấp, tầng lớp
lao động để hình thành một đảng cách mạng chân chính. Theo Người, Đảng
chính là “con nòi, xuất hiện từ giai cấp lao động”, Đảng nhận lấy sứ mệnh, sự
ủy thác của nhân dân thực hiện nguyện vọng của nhân dân. Từ việc nhận thức
sâu sắc về cội nguồn của quyền lực và mục tiêu cao cả của đảng cộng sản,
Người nhắc nhở, yêu cầu mỗi người trong tổ chức rằng: “đã hy sinh làm cách
mệnh thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh
nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” [72, tr.270]. Người đề cập rất
nhiều lần là: “Đảng chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, không còn có lợi
ích nào khác” [76, tr.462] và theo Người, đó là điều hiển nhiên vì: “Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân” [74, tr.698]. Do đó, Người nhấn mạnh: “Tất cả mọi
việc, Đảng phải lo. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, đấu
tranh thống nhất nước nhà, Đảng phải lo” [76, tr.464]. Mãi cho tới những
ngày chuẩn bị “đi xa”, Người còn yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật
tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống

của nhân dân” [21, tr.37]. Người cũng yêu cầu Chính phủ (suy rộng ra là cơ quan
nhà nước các cấp) phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy: “Việc gì có
lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” [73, tr.22].
Đối với Người, nhà nước là của dân. Đảng đại diện cho giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lãnh đạo nhà nước thực thi nhiệm vụ mà dân tộc giao
phó. Do vậy, quyền lực là thống nhất, không có sự phân chia về quyền lực.
Người cho rằng: “Trong Đảng và Nhà nước ta có sự phân công chặt chẽ như
các bộ phận trong chiếc đồng hồ: Cái kim dây cót khác nhau nhưng hợp tác
chặt chẽ với nhau. Thiếu một bộ phận nào cũng không được”[75, tr.555-556].
Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng lưu ý rằng, trong điều kiện
một đảng duy nhất cầm quyền, để tránh được những sai lầm, khuyết điểm,
20
Đảng cần phải không ngừng phát huy dân chủ trong sinh hoạt và công tác,
đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, đi đúng đường lối quần chúng, giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, chống chuyên quyền độc đoán, kéo bè, kéo
cánh. Và để bảo đảm phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm
quyền, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế “Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý”. Đây cũng chính là một nội dung lớn mà các đảng cộng
sản cầm quyền, trong đó có Đảng ta đã dày công nghiên cứu, thiết kế mô
hình và tổ chức thực hiện.
Tiếp tục bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, Đảng ta
từng bước hoàn thiện về quan niệm Đảng lãnh đạo Nhà nước và cơ quan nhà
nước các cấp. Ngay vào những năm đầu thống nhất Tổ quốc, lãnh đạo Nhà
nước trên phạm vi cả nước, Đảng ta đã sớm đặt vấn đề rất đúng đắn rằng:
“Đảng lãnh đạo cách mạng bằng đường lối, chính sách của mình và chủ yếu
thông qua Nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều tiến hành dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước”
[37, tr.52]. Trên cơ sở kinh nghiệm thành công và sai lầm, khuyết điểm trong
quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, lãnh đạo
Nhà nước nói riêng, Đảng ta xác định những quan điểm, nội dung Đảng lãnh

đạo Nhà nước mang tính định hướng cho cả thời kỳ mới. Đó là:
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính
quyền và đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị [39, tr.329].
Tư duy sáng suốt này vẫn được tiếp tục dẫn dắt hành động trong toàn
Đảng hiện nay. Có thể nhận thấy rằng, mạch tư duy về nội dung Đảng lãnh
21
đạo Nhà nước được xác định khá rõ: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương
lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết
các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng. Đảng tập trung lãnh đạo xây
dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp hợp lý, tôn trọng, phát huy
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và người đứng đầu các tổ chức trong
công tác cán bộ. Đảng kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo và kiểm tra bộ máy
nhà nước thông qua tổ chức đảng và cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ
quan nhà nước.
Trung thành và nhất quán với tư tuởng của các nhà sáng lập học thuyết
chủ nghĩa xã hội khoa học, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt
Nam đã tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm các nước và tổng kết hoạt động thực
tiễn trong nước, từng bước định hình được những quan điểm, nội dung và
phương thức lãnh đạo đối với nhà nước phù hợp với nền chính trị hiện đại.
Mặc dù những vấn đề “cốt lõi” đã được giải đáp và là nền tảng cho các hoạt
động lãnh đạo Nhà nước cả ở cấp vĩ mô và vi mô, nhưng thực tiễn đời sống
chính trị đang đòi hỏi câu trả lời về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
như thế nào trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và trong quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền.
Có thể nhận thấy, hầu hết các lý thuyết gia theo quan niệm phương Tây
đều cho rằng hệ thống độc đảng có những nhược điểm căn bản của nó. Về
mặt phát triển kinh tế, nó bị xao lãng vì những nhà lãnh đạo chú trọng đến sự
củng cố địa vị chính trị của họ hơn. Về phương diện kỹ thuật tổ chức, chính
quyền và đảng có khuynh hướng không phân biệt với nhau và rằng: “Một
chánh quyền giám hộ có thể là một dụng cụ thành lập một quyền hành trung
ương mạnh nhưng sự phát huy tinh thần dân chủ, sự dung tha những quan
niệm dị biệt, sự chấp nhận đối lập có thể nắm quyền khó có thể nẩy nở trong
22
mt bu khụng khớ c ti [111, tr.147]. Tuy cú s thiờn lch trong nhỡn
nhn vn , nhng nhng quan ngi ú cn c lm rừ. Thc ra, ch
chớnh tr dõn ch v mt nh nc dõn ch khụng hon ton ph thuc vo k
thut t chc. C s ca nn dõn ch bt ngun t tớnh cht giai cp ca giai
cp cm quyn. Bn cht ca nh nc khụng thay i bi mt ng hay a
ng lónh o. Cỏc quyt sỏch ca nh nc bao gi cng l ý chớ ca giai
cp cm quyn m ng ca nú l i din. ng cng sn lónh o nh nc
- ng ca giai cp cụng nhõn, chng nhng i din cho li ớch ca giai cụng
nhõn, nụng dõn, tng lp trớ thc, m cũn i din li ớch cỏc tng lp nhõn
dõn lao ng. ng gi vai trũ lónh o duy nht trong h thng chớnh tr, c
bit l nh nc l điều kiện tiên quyết bảo đảm thc hin quyn dõn ch ca
nhõn dõn trờn mi lnh vc, nht l lnh vc kinh t. Dõn ch trong lnh vc
kinh t l nn tng ca dõn ch xó hi, bi cú t liu sn xut, ngi lao ng
t nh ot v cỏch thc sn xut, qun lý, phõn phi v nh ú quyt nh
cuc sng ca mỡnh. C s chớnh tr, kinh t v xó hi ny bo m cho nh
nc xó hi ch ngha dõn ch gp triu ln so vi nh nc t sn. Lịch sử
đã chứng nhận rằng, những vấn đề cơ bản của dân chủ, nhân quyền mang tính
nhân văn cao cả, nh bảo đảm đời sống, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng nhu cầu
nhà ở, giáo dục, công ăn việc làm, giảm thiểu tệ nạn xã hội là những lĩnh
vực chỉ có đợc dới chế độ xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản lãnh đạo. Chính

những u việt về kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần, khoa học kỹ thuật của
chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo ra động lực thúc đẩy cuộc đấu tranh của ngời
lao động tòan thế giới, buộc chủ nghĩa t bản phải điều chỉnh chính sách kinh
tế xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội, chú trọng dịch vụ công thiết yếu nh
giáo dục, y tế, bảo hiểm, thông tin Thực tiễn cỏch mng Vit Nam ó chng
minh rng, ng Cng sn Vit Nam chớnh l nhõn t cú ý ngha quyt nh
mi thng li cỏch mng Vit Nam. Nhõn dõn Vit Nam tha nhn ng l t
chc duy nht lónh o trong xó hi khụng ch bng nhn thc khoa hc, ý
23
thc chớnh tr, m cũn v thm chớ quan trng hn: bng nhng thnh tu
thc t trong cụng cuc xõy dng v phỏt trin t nc theo con ng xó
hi ch ngha, bng nhng li ớch, nhng giỏ tr, nhng tin b, nhng iu
tt p m ng ang v s mang li cho giai cp, cho nhõn dõn, cho dõn tc
[97]. Tuy nhiờn, về mặt khoa học tổ chức quyền lực, sự độc tôn của một tổ
chức nào đó dễ dẫn đến sự độc quyền, lạm dụng quyền lực. Lịch sử các chế độ
chính trị nói chung, của chủ nghĩa xã hội nói riêng đã từng mắc phải hiện tợng
này. Do vậy, các thể chế chính trị hiện đại, các đảng cộng sản đổi mới rất chú
trọng thiết lập cơ chế phân quyền và thực thi dân chủ. phũng nguy c
c oỏn chuyờn quyn, ng cm quyn phi thit k v thc thi cho bng
c c ch phõn cụng quyn lc, giỏm sỏt quyn lc v hỡnh thc dõn ch
(dõn ch trc tip v dõn ch giỏn tip). V mt c ch lónh o, ng cng
sn cỏc nc, cng nh ng cng sn Vit Nam ó xỏc nh khỏ rừ: ng
lónh o Nh nc bng nhng nh hng ln, thụng qua vic xõy dng t
chc b mỏy v cỏn b ca ng cụng tỏc trong cỏc c quan nh nc, thc
hin vic kim tra giỏm sỏt ton b hot ng ca cỏc t chc trong h thng
chớnh tr v s nờu gng ca ng. V mt thc thi dõn ch, ng luụn luụn
tỡm tũi hon thin ch d dõn ch trong ng v ngoi xó hi, xem dõn ch
trong ng l yu t quyt nh nht, thc hnh t phờ bỡnh v phờ bỡnh trong
ng, ỏp dng hỡnh thc dõn ch trc tip v dõn ch giỏn tip. Dõn ch trc
tip xut hin t thi c i. Cũn dõn ch giỏn tip thỡ phỏt trin di ch

t bn. c trng c bn ca dõn ch t sn l dõn ch giỏn tip thụng qua
ch i ngh v tam quyn phõn lp. S kt hp gia dõn ch trc tip vi
dõn ch giỏn tip to nờn nn dõn ch xó hi ch ngha. Cú th hỡnh dung, dõn
ch giỏn tip l nht thi. Trong tng lai, dõn ch trc tip s c xỏc lp
bn vng. Quỏ trỡnh phỏt trin nn dõn ch xó hi ch ngha l quỏ trỡnh m
rng dõn ch, thu hỳt ụng o nhõn dõn lao ng tham gia vo cụng vic
qun lý nh nc. Tu mc chớn mui ca nhng iu kin kinh t - xó
24
hội, đặc biệt là mức độ nhận thức và năng lực quản lý của đông đảo nhân dân
mà chuyển dần quyền lực từ đảng và nhà nước về nhân dân. Đảng cộng sản
Việt Nam cho rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển đất nước; xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ,
đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân; xác định các
hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; bộ máy nhà nước, các thiết chế
khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá
trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng. Các nội dung “nhân quyền” này đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh quán
triệt trong đội ngũ cán bộ ngay khi chuẩn bị thành lập Đảng và được nhắc đi
nhắc lại trong các văn kiện của Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Đảng ta tiếp tục nêu: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân
dân” [40, tr.125] và: “Thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà
nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự
quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội” [40, tr.117]
để vươn tới một xã hội mà trong đó: “sự cai quản nhân dân do chính nhân dân
đảm nhiệm” như nhà sáng lập học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học đã
phác họa.
Cùng với nội dung đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện đảng duy
nhất cầm quyền mà khắc phục được tình trạng chuyên quyền, việc đảng lãnh

đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền cũng được giải
thích trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nó. Trong quá trình tìm tòi, nghiên
cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại về xây dựng nhà nước, Đảng
ta đi đến kết luận mang tầm chiến lược: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ, năm 1991). Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp
25

×