Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện ban thường vụ tỉnh uỷ bắc giang quản lý trong giai đoạn hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.24 KB, 126 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 77 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân
tộc Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang, từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hoàn toàn độc
lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH. Công cuộc đổi mới đất nước đã
và đang giành được những thành tựu to lớn, được bạn bè trên thế giới hết sức
khâm phục, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên.
Những thắng lợi trên trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn và
từ việc dày công xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng.
Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề hệ trọng, từ lâu đã
được các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập tới trong các tác
phẩm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” [45, tr.269] và “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”[45, tr.240]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá
VII) đã chỉ rõ: “cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc kìm hãm hoặc thúc
đẩy tiến trình đổi mới” [13], Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá
VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ ” [13].
Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ
nhiều nội dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là
công tác QHCB, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) nêu rõ:
“Công tác QHCB là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm
cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [13]. Có làm tốt QHCB mới từng bước nâng
cao được chất lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính
liên tục, kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và
không đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác QHCB sẽ tạo cơ sở,
1
điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ như: ĐTBD,


điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và thực
hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng ĐTBD cán bộ tràn lan, không có
trọng tâm, trọng điểm; lúng túng trong lựa chọn, phân công, bố trí cán bộ…
Những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết
định, thông tri về công tác QHCB: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và
sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng và chỉ đạo
thực hiện tốt QHCB là một biện pháp đặc biệt trọng yếu, có tính quyết định để
tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt. Ngày 02/6/1978, BCHTW (khoá IV) đã
ra Chỉ thị số 45-CT/TW “Khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng QHCB lãnh
đạo, cán bộ quản lý”. Ngày 12/11/1983 Ban Bí thư TW Đảng (khoá V) ra Thông
tri số 31-TT/TW về việc “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QHCB lãnh đạo và cán
bộ quản lý ở các ngành, các cấp”. Năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VI) có Quyết
định số 55-QĐ/TW về “Công tác QHCB lãnh đạo các cấp từ nay đến năm
1990”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) đề ra yêu cầu: “Cán
bộ chủ trì phải điều hành, thực hiện quy hoạch chung về công tác cán bộ, đồng
thời trực tiếp bồi dưỡng người kế cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất
một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của mình và kiểm tra việc thực hiện
quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh” [13]. Ngày 30/11/2004
Bộ Chính trị có Nghị quyết số 42-NQ/TW về công tác QHCB lãnh đạo quản lý
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Nhờ vậy công tác QHCB đã có chuyển
biến tích cực, góp phần đổi mới từng bước công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên
đứng trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác QHCB vẫn là một
khâu yếu, chất lượng và hiệu quả còn hạn chế. Hội nghị lần thứ 3, BCHTW
(khoá VIII) đã đánh giá: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa
chủ động xây dựng QHCB, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm” [13]. Do
vậy sắp tới “Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ định kỳ
kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác QHCB” [13].
2
Quán triệt những quan điểm của Đảng, từ nhiều năm nay BTV Tỉnh uỷ

Bắc Giang đã quan tâm đến công tác QHCB, tích cực, tập trung lãnh đạo công
tác QHCB ở tỉnh, do đó công tác QHCB đã bước đầu đi vào nền nếp, đạt
được kết quả nhất định, góp phần làm tốt công tác cán bộ của tỉnh. Tuy vậy
công tác QHCB trong thời gian qua cũng bộc lộ không ít những thiếu sót,
khuyết điểm cần sớm được khắc phục.
Là một tỉnh miền núi, mới được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện
tích 3.882, 6 km
2
, dân số trên 1,5 triệu người, địa hình phức tạp, mặc dù tình
hình chính trị-an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng
với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn là nông
nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân
đầu người còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ
CBCC nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý,
bởi lẽ đây là ĐNCBCC của hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, là lực lượng
chủ yếu, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa bàn tỉnh. Muốn có đội ngũ cán
bộ ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài thì trước hết phải
thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước, yêu
cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị nơi mình đang công tác, tôi
mạnh dạn chọn đề tài “Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp khoá học thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng tại Học Viện
Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác QHCB, mà nhiều cơ
quan, nhà khoa học, nhiều cán bộ, đã tập trung nghiên cứu vấn đề này, đã có
không ít đề tài, báo cáo, bài viết và công trình nghiên cứu về công tác QHCB

3
với các góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian khác nhau được công bố, chẳng
hạn như:
-“Xây dựng đội ĐNCBCC trước hết là người đứng đầu” của đ/c Chu
Văn Rỵ, Tạp chí Cộng sản, số 5, 1997.
- Xây dựng và thực hiện tốt công tác QHCB trong thời kỳ mới” của Tô
Huy Rứa, Tạp chí Cộng sản, số 3 (tháng 2/1999).
- “Quan niệm khoa học về QHCB-lịch sử vấn đề và quá trình tiếp cận
vấn đề” của Phó Giáo sư Lê Văn Lý, Tạp trí Thông tin lý luận, tháng 6/1999.
- “Công tác QHCB chủ chốt của hệ thống chính trị-một số giải pháp
chủ yếu” của Tiến sĩ Ngô Kim Ngân, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, năm 2002.
- “QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Hoan, Tạp chí Cộng
sản, số 33, năm 2003.
- "Thực trạng trình độ học vấn và giải pháp quy hoạch đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn của Hà Nội”, Đề tài khoa học của
Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong, năm 1998.
- “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Minh Thấu, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000.
- “Quy hoạch ĐNCBCC của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Quảng
Ngãi trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Mỹ Trang,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
- “Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ Lao động-
Thương binh và xã hội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Xuân Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Công tác QHCB lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện BTV
Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thị Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
4

- “Quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện Quận uỷ Ba Đình, Thành phố Hà
Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Lưu Tiến Định,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu, những công trình, bài viết đó mới
chỉ đề cập vấn đề QHCB nói chung hoặc là QHCB riêng của một số địa
phương, đơn vị. Cho đến nay chưa có tác giả nào công bố đề tài về quy hoạch
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về công tác QHCB,
để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần làm tốt công tác QHCB của
tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn chủ yếu là đi sâu làm rõ những cơ sở khoa học
và đề xuất những giải pháp chủ yếu, góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quy hoạch ĐNCBCC
thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng ĐNCBCC và quy hoạch ĐNCBCC thuộc
diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) đến nay;
chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót, rút ra những kinh
nghiệm trong quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi,
nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc
Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu cụ thể là ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ
quản lý (theo quyết định về phân cấp quản lý cán bộ) bao gồm các chức danh:
5

Bớ th, phú bớ th Tnh u, ch tch, phú ch tch HND, UBND tnh; trng,
phú cỏc ban, c quan ca Tnh u, MTTQ v cỏc on th nhõn dõn tnh;
giỏm c, phú giỏm c cỏc s, ban, ngnh tnh v tng ng; bớ th, phú
bớ th, u viờn BTV huyn u, thnh u, ng u trc thuc Tnh u; ch tch,
phú ch tch HND, UBND cỏc huyn, thnh ph. Khụng i sõu nghiờn cu
i ng CBCC núi chung, cỏn b lónh o, qun lý cỏc chc danh khỏc tnh
v cp huyn hoc NCBCC c s, xó, phng, th trn.
- Phm vi nghiờn cu: Cụng tỏc quy hoch NCBCC thuc din BTV
Tnh u Bc Giang qun lý, t nm 1997 n nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
* C s lý lun:
Lun vn c thc hin trờn c s nhng nguyờn lý v phng phỏp
lun ca ch ngha Mỏc - Lờnin, t tng H Chớ Minh v cỏc quan im ca
ng Cng sn Vit Nam v cỏn b, cụng tỏc cỏn b núi chung v cụng tỏc
QHCB núi riờng, cú k tha cỏc cụng trỡnh khoa hc ó c cụng b liờn
quan n ti.
* Phng phỏp nghiờn cu:
Trờn c s phng phỏp lun ca ch ngha duy vt bin chng v duy
vt lch s, lun vn s dng cỏc phng phỏp c th nh: Lụgớc- lch s,
thng kờ s liu, kho sỏt thc t; phng phỏp phõn tớch - tng hp, khỏi
quỏt hoỏ, gn lý lun vi thc tin, coi trng tng kt thc tin.
6. úng gúp v mt khoa hc ca lun vn
- Cung cp nhng lun c khoa hc, lm rừ quan nim, quan im,
nguyờn tc, phng chõm, quy trỡnh v quy hoch NCBCC thuc din BTV
Tnh u Bc Giang qun lý trong giai on hin nay.
- ỏnh giỏ ỳng thc trng cụng tỏc quy hoch NCBCC thuc din
BTV Tnh u Bc Giang qun lý trong thi gian 10 nm qua. xut phng
hng, nhim v v nhng gii phỏp ch yu cú tớnh kh thi nhm nõng cao
6
cht lng quy hoch NCBCC thuc din BTV Tnh u Bc Giang qun lý

trong giai on hin nay, gúp phn i mi cụng tỏc cỏn b ca tnh, ỏp ng
yờu cu nhim v trong thi k cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kt qu nghiờn cu ca lun vn gúp phn cung cp lun c khoa hc
cho vic hoch nh, iu chnh, b sung, c th hoỏ ch trng, chớnh sỏch
ca ng v Nh nc v quy hoch NCBCC thuc din BTV Tnh u
qun lý.
- Lun vn cú th s dng lm ti liu nghiờn cu, phc v cho vic
s, tng kt v cụng tỏc cỏn b núi chung v cụng tỏc quy hch cỏn b ca
tnh v lm c s xõy dng mt s k hoch, ỏnv quy hoch, TBD,
luõn chuyn, b nhim, b trớ, sp xp v thc hin chớnh sỏch i vi i ng
cỏn b lónh o, qun lý cỏc c quan, s, ban, ngnh, on th tnh v cp
huyn trong giai on t nay n nm 2010 v nhng nm tip theo.
- Lun vn cng cú th s dng lm t liu tham kho trong ging dy
cho i ng cỏn b Trng Chớnh tr tnh v trung tõm bi dng chớnh tr
cp huyn.
8. Kt cu ca lun vn
Ngoi phn m u, kt lun, ph lc v ti liu tham kho, ni dung
ca lun vn chia lm 2 chng, 4 tit.
7
Chương 1
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT, QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.1. Quan niệm, vai trò và đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay

1.1.1.1. Một số khái niệm
- Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong
nhân dân ta. Nó xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục
năm gần đây, để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người
mới, luôn gắn bó với nhân dân, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, vì sự
nghiệp độc lập, tự do của dân tộc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ
trong lịch sử nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay. Cho đến nay hai từ
"cán bộ " đã rất thân thuộc đối với những đảng viên cộng sản nói riêng và
nhân dân Việt Nam nói chung. Tuy nhiên khi nghiên cứu, đề cập đến khái
niệm "cán bộ " vẫn còn những ý kiến, quan điểm chưa đồng nhất.
Xuất phát từ đặc điểm, truyền thống dân tộc và lịch sử từng quốc gia
nên việc xác định đối tượng cán bộ ở mỗi nước có khác nhau. Từ trước đến
nay khái niệm cán bộ thường được dùng phổ biến trong các nước XHCN, các
tổ chức thuộc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, còn ở các nước
phương Tây như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức thường dùng khái niệm công chức, ở
Nhật dùng khái niệm quan chức. Theo Từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ
cán bộ được giải thích là: Xuất phát từ tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Nhật.
Như vậy từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, sau đó được chuyển sang
Trung Quốc, và từ Trung Quốc du nhập vào nước ta. Trong tiếng Pháp, cũng
8
như tiếng Anh, từ "cán bộ " có nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa chủ yếu được
chuyển vào từ "cán bộ" của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là
cái khung (ảnh), cái khuôn. Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ
huy trong quân đội trong một số tổ chức làm nòng cốt.
Ở nước ta, từ "công chức" cũng được dùng từ lâu và có nhiều văn bản
đã quy định. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số
76/SL về quy chế công chức. Năm 1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính
phủ) ban hành Nghị định 169/HĐBT quy định đối tượng công chức. Ngày
09/3/1998 Uỷ BTV Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức, trong đó tại
Điều 1 nêu: “Công chức là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước

được tuyển dụng, bổ nhiệm làm nhiệm vụ thường xuyên trong biên chế, được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, theo ngạch, bậc lương được pháp luật quy
định” [52] Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, ghi công chức là:
"Người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ
quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp" [65, tr.207]. Tuy
vậy trong thời gian dài từ công chức ít được sử dụng, từ cán bộ gần như được
dùng thay thế cho từ công chức, vì hình ảnh công chức trong xã hội cũ thường
bị coi là xấu "sáng vác ô đi, tối vác ô về". Từ những năm 90 của thế kỷ XX,
trở lại đây đã có người ta thường gọi những người công tác trong các cơ quan
nhà nước là công chức, những người đang công tác trong các cơ quan Đảng,
đoàn thể là cán bộ. Song tiêu thức phân biệt giữa khái niệm cán bộ và khái
niệm công chức chưa thực sự rõ ràng.
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản
năm 1999, từ cán bộ được định nghĩa là:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường không giữ chức
vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [19, tr.249].
Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nxb Đà Nẵng, năm 2002, nêu cán bộ
có hai nghĩa:
9
1. Người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị.
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức
phân biệt với người thường không có chức vụ. Đoàn kết giữa cán
bộ và chiến sĩ. Họp cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ
Đoàn thanh niên [65, tr.109].
Ở đây hàm nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành
chính công trong các cơ quan Nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ
hành chính cao nhất đến những người không có chức vụ hành chính nào, tất
cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ, trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước

và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch lương nhất định do
Nhà nước quy định. Nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ
và trách nhiệm cao hơn người khác trong bộ máy tổ chức. Điều này phản ánh
nghĩa gốc của từ cán bộ, bởi vì chính những người có chức vụ, trách nhiệm
cao mới có vai trò là nòng cốt, là người chỉ huy và đây chính là một góc độ
trong cách hiểu thông thường.
Hai định nghĩa nêu trong từ điển nói trên so với các định nghĩa trong
một số thời điểm khác có sự phát triển và hợp lý hơn, nhưng cũng cần lãm rõ
nội hàm và cả ngoại diên của khái niệm cán bộ hơn nữa:
Một là, nói cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn, cần
chỉ rõ là được đào tạo thông qua hệ thống nhà trường để có trình độ (tốt
nghiệp) từ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ để phân biệt
với người dưới trình độ này gọi là nhân viên.
Hai là, nói cán bộ là người làm công tác có chức vụ để phân biệt với
người không có chức vụ. Nhưng cần nói rõ là chức vụ được hình thành thông
qua con đường bầu cử dân chủ, hoặc đề bạt, bổ nhiệm. Mặt khác nói cán bộ là
người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức thì phải nói
của cả hệ thống chính trị. Thực tế, từ cán bộ không chỉ có đối tượng là các
công chức nhà nước mà là toàn bộ những người làm việc trong hệ thống chính
10
trị. Điều này xuất phát từ chỗ sự hình thành và phát triển của hệ thống chính
trị ở các nước XHCN trong đó có Việt Nam là: Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội đều là các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, tất cả
những người làm việc trong các tổ chức đó đều được tuyển chọn, quản lý và
hưởng quyền lợi theo quy chế chung thống nhất.
Ba là, nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ ở nước ta
phải được đặt trong các mối quan hệ xác định. Trước hết là trong mối quan hệ
với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ, quan hệ với tổ
chức và cơ chế chính sách, quan hệ với thực tiễn và phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân. Trong xã hội có giai cấp, cán bộ phải mang bản chất

của giai cấp cầm quyền. Người cán bộ cách mạng phải là người trung thành,
tận tuỵ vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Chính vì vậy Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, viết từ năm 1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [45, tr.269].
Trước đây, trong chiến tranh cách mạng, cán bộ được coi là tất cả
những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể,
quân đội. Hiện nay, mặc dù hoàn cảnh thực tế khác đi và trong nhận thức của
con người cũng có nhiều thay đổi, nhưng trong cách hiểu thông thường nhất,
từ cán bộ trước hết vẫn đề phân biệt những người làm việc trong các cơ quan,
đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể nằm trong biên chế, với những người
dân không nằm trong các tổ chức trên.
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", từ cán bộ được dùng
với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
11
Một là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ
sở đến TW (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên,
hội viên; hai là, người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ
chức này.
- Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên (cán bộ tiểu
đội, cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn ) và thường là sĩ quan từ cấp uý trở lên.
- Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan hành chính, cơ quan
tư pháp. Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy,
phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng ).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có

khác nhau, nhưng về cơ bản từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ
khung, là nòng cốt là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung
nhất, "cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức và có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ
chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần
định hướng cho sự phát triển của tổ chức" [62, tr.18].
Trong pháp lệnh CBCC Việt Nam năm 1998, đã xác định đối tượng là
CBCC bao gồm những người:
Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; những
người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên… trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và trong các cơ quan, đơn vị
quân đội nhân dân và công an nhân dân [52, tr.5-6].
Từ những điều nêu trên, chúng ta có thể khẳng định: Cán bộ là một
phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả
những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp
vụ không giữ chức vụ.
12
Trong khoa học tổ chức chúng ta có thể phân chia cán bộ thành các loại
khác nhau tuỳ theo từng tiêu thức. Thường người ta phân loại cán bộ theo
những cách sau:
- Cách 1: Phân theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn: Cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, lãnh đạo chủ chốt, cán bộ chính trị, cán bộ
quân sự, cán bộ kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật…
- Cách 2: Phân loại theo chức vụ, cấp hàm trình độ tổ chức xã hội và vị
trí vai trò của cán bộ: Cán bộ cao cấp, trung cấp, sơ cấp
- Cách 3: Phân theo loại hình tổ chức trong hệ thống chính trị: Cán bộ
Đảng, cán bộ Nhà nước, cán bộ đoàn thể nhân dân
Ngoài ra có thể phân loại theo thẩm quyền chủ thể quản lý cán bộ

(được quy định tại quyết định phân cấp quản lý cán bộ): Cán bộ thuộc diện
TW quản lý (Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW), cán bộ thuộc diện BTV tỉnh uỷ
(thành uỷ) quản lý, cán bộ thuộc diện BTV huyện uỷ (quận uỷ) quản lý Trên
cơ sở phân loại cán bộ như trên chúng ta thấy cần làm rõ khái niệm vị trí, vai
trò, đặc điểm của từng loại cán bộ, từ đó mới có cơ sở vững chắc để xây
dựng, hoạch định các chủ trương, chính sách về công tác cán bộ. Trong khuôn
khổ giới hạn của đề tài, ở đây chúng ta đi sâu vào khái niệm sau:
- Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nằng, năm 2002, định nghĩa: "Chủ chốt
quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào"
[65, tr.174].
Trong mỗi tổ chức có những người lãnh đạo, nhiều tổ chức có tập thể
lãnh đạo. Những người đó là cán bộ chủ chốt. Vậy cán bộ chủ chốt là những
người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối toàn bộ hoạt động của
một tổ chức nhất định.
Khi nghiên cứu cán bộ chủ chốt cần phân biệt cán bộ chủ chốt với cán
bộ lãnh đạo chủ chốt. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu trong một
tổ chức, cán bộ chủ chốt là những người lãnh đạo của một tổ chức nhất định.
Chúng ta đã biết rằng:
13
Trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước ta hiện nay
được phân thành nhiều cấp và nhiều bộ phận khác nhau. Nếu như ở
mỗi cấp, mỗi bộ phận trong các hệ thống tổ chức đều có một tập thể
lãnh đạo quản lý, thì những người đứng đầu quan trọng nhất, có
chức vụ cao nhất trong các tập thể ấy được gọi là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt [57, tr.35].
Việc xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt không những phải gắn với một
hệ thống tổ chức nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh cụ thể của từng
người, bởi vì trong thực tế một người cán bộ "ở cương vị này, trong tổ chức
này là chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì lại không phải

là chủ chốt" [57, tr.35].
Khi nói đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt người ta không coi họ chỉ là
những người thực hiện các chức năng lãnh đạo đơn thuần, mà còn nhìn nhận
họ là những người có trách nhiệm cả về phương diện quản lý.
Trên thực tế người ta quan niệm: Tất cả những đ/c là uỷ viên BTV tỉnh
uỷ, huyện uỷ đều là cán bộ chủ chốt vì:
Một là: Xét trong mối quan hệ tổ chức, cấp uỷ đảng là cơ quan lãnh
đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Các đ/c cấp uỷ viên đều coi là cán bộ lãnh
đạo của tổ chức Đảng. Trong mỗi cấp uỷ bầu ra BTV để lãnh đạo tổ chức
Đảng giữa hai kỳ họp BCH. Vì vậy, những đ/c uỷ viên ban thường vụ đều là
những người có trọng trách là thành viên trong tập thể lãnh đạo của tổ chức
đảng.
Hai là: Trong mối quan hệ với các tổ chức của hệ thống chính trị cùng
cấp, uỷ viên ban thường vụ thường được các tổ chức đảng giới thiệu ra ứng
cử và thông qua bầu cử dân chủ để trở thành người đứng đầu các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Do đó, những đ/c uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ đảng
là những cán bộ chủ chốt của tổ chức đó.
Cần phân biệt khái niệm cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cán bộ chủ chốt:
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người lãnh đạo nhưng là lãnh đạo toàn
14
diện, có thẩm quyền cao nhất, trọng trách nặng nề nhất trước tập thể lãnh đạo.
Khái niệm cán bộ chủ chốt rộng hơn, có thể đồng nhất với cán bộ cấp trưởng,
cấp phó ở mỗi cơ quan, tổ chức, có tác dụng chi phối mọi hoạt động của cơ
quan, tổ chức. Mỗi cán bộ chủ chốt được gắn với một tổ chức và chức danh
cụ thể.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý:
Có đội ngũ cán bộ, tất yếu phải có công tác quản lý cán bộ, cũng
như trong QLNN, công tác quản lý cán bộ của Đảng bao giờ cũng được
phân công, phân cấp giữa TW và các cấp uỷ, tổ chức đảng các ở cơ quan,
đơn vị, địa phương, tuỳ thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể trong từng

thời kỳ mà có những quy định cụ thể về phân cấp quản lý cán bộ. Khi nói
đến ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay, tức
là nói đến những người giữ các chức vụ cao nhất trong hệ thống chính trị
của tỉnh và cấp huyện. Số cán bộ này do BTV Tỉnh uỷ quy định tiêu
chuẩn, xem xét quyết định đề bạt, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, giới
thiệu ứng cử, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách cán bộ,
trên cơ sở Điều lệ Đảng, điều lệ của các đoàn thể và những quy định của
Pháp luật. BTV Tỉnh uỷ thông qua các cơ quan tham mưu của Tỉnh uỷ để
thực hiện chức năng quản lý: Nhận xét, đánh giá, quy hoạch, ĐTBD, bố
trí sử dụng cán bộ, theo dõi, kiểm tra, giám sát, quản lý hồ sơ lý lịch cán
bộ nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất, trình độ và năng lực cán bộ
thuộc diện quản lý của mình.
Có thể hiểu khái niệm cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc
Giang quản lý là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ
quan trong hệ thống bộ máy tổ chức: Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn
thể chính trị - xã hội ở cấp tỉnh; những người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cấp uỷ đảng, chính quyền cấp huyện, chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị, điều hành công tác, chỉ đạo CBCC thuộc
15
quyền quản lý của mình thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế -
xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương.
Thực hiện Quyết định số 49-QĐ/ TW ngày 03/5/1999 của Bộ Chính
trị, BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã ban hành Quy định số 135-QĐ/TU ngày
03/12/1999 về phân cấp quản lý cán bộ của tỉnh, trong đó, tại Điều 8, quy
định cụ thể đối tượng cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý là:
- Ở cấp tỉnh: Các đ/c uỷ viên BTV, uỷ viên BCH Đảng bộ tỉnh, uỷ viên
UBND tỉnh, uỷ viên UBKT Tỉnh uỷ; các bí thư ban cán sự đảng, đảng đoàn;
phó chủ tịch HĐND tỉnh, phó chủ tịch UBND tỉnh; trưởng ban, phó trưởng
ban của Tỉnh uỷ; chánh văn phòng, phó văn phòng Tỉnh uỷ; hiệu trưởng,
Phó hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh; tổng biên tập, phó tổng biên tập Báo

Bắc Giang; chủ tịch, phó chủ tịch: Uỷ ban MTTQ, Liên đoàn Lao động, Hội
Nông dân; Hội LHPN, Hội Cựu Chiến binh tỉnh, Hội Đồng Thi đua Khen
thưởng tỉnh; bí thư, phó bí thư Tỉnh đoàn; trưởng ban, phó trưởng ban của
HĐND tỉnh; chánh văn phòng, phó văn phòng UBND tỉnh; các giám đốc,
phó giám đốc sở và Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh; chánh thanh tra, phó
chánh thanh tra tỉnh; trưởng ban, phó trưởng ban: Ban Dân tộc miền núi,
Ban Tôn giáo Chính quyền, Ban Bảo vệ sức khoẻ cán bộ tỉnh; chủ nhiệm,
phó chủ nhiệm: Uỷ ban Dân số Gia đình và trẻ em tỉnh; chủ tịch, phó chủ
tịch các hội: Hội Văn học Nghệ thuật, Hội Chữ thập đỏ, Hội nhà báo, Liên
minh các hợp tác xã, Hội Liên hiệp Thanh niên, Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh; chánh án, phó chánh án, thẩm
phán TAND tỉnh; viện trưởng, viện phó VKSND tỉnh; giám đốc, phó giám
đốc: Bưu điện tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tỉnh; giám đốc các ngân hàng chuyên doanh, Kho bạc Nhà nước tỉnh; cục
trưởng, cục phó: Cục Thống kê, Cục Thuế tỉnh; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm Lâm tỉnh; giám đốc chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển; giám đốc Điện
lực tỉnh; chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh.
16
- Ở cấp huyện: Bí thư, phó bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ,
đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ
tịch UBND huyện, thành phố.
1.1.1.2. Vai trò của cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Bắc Giang quản lý
Ở thời kỳ nào, quốc gia nào, cũng vậy, cán bộ và công tác cán bộ đều là
vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, sự
tồn, vong của chế độ, sự thành bại của cách mạng.
C.Mác và Ph. Ăngghen, là những người đặt nền móng cho vấn đề cán
bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ
nghĩa xã hội khoa học, mà còn là những người đem lý luận khoa học kết hợp
với phong trào công nhân lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới. Từ

kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính quá trình nghiên cứu,
truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân C. Mác đã khẳng định:
"Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng
thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [42, tr 181].
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen, xây dựng một đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Bản
thân V.I. Lênin vừa là lãnh tụ của Đảng, đồng thời cũng là một lãnh tụ của
nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Trong di sản lý luận của người về
đảng kiểu mới, những quan điểm về cán bộ, vai trò của cán bộ có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc. Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân Nga, trong bài "Những nhiệm vụ bức thiết
của phong trào chúng ta" đăng trên tờ báo "Tia lửa" số 1 (tháng chạp năm
1900) V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào được
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những
lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào" [32, tr.473]. Theo Người, với lôgíc đó, giai cấp công nhân Nga chỉ
có thể lật đổ chế độ Nga Hoàng, giành chính quyền khi xây dựng cho mình được
17
một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản. Đó là
đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga, những
người giúp Đảng "đảo ngược nước Nga lên" [33, tr.162], "những nhà chính trị
của giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém
những nhà chính trị tư sản" [37, tr.80-81]. Sau khi đã giành được chính
quyền, Người khẳng định: "nghiên cứu con người tìm những cán bộ có năng
lực, biết làm việc, thực chất vấn đề hiện nay chính là ở những chỗ đó, nếu
thiếu những điểm này thì tất cả mọi mệnh lệnh, mọi quy định sẽ chỉ là mớ
giấy lộn" [32, tr.449]. Trong hoạt động thực tiễn, Người đã trực tiếp tiến hành
nhìn nhận đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tổ chức ĐTBD cán
bộ để lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động Nga hoàn thành cuộc
Cách mạng Tháng Mười vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.

Như vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin đã thống nhất cách nhìn
nhận và đánh giá vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là những người lãnh
đạo chủ chốt trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và các đảng cộng
sản, đó là lực lượng biến "tư tưởng", "mệnh lệnh", các "quyết định" của Đảng
thành hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ kiệt xuất của nhân dân Việt Nam, là
người vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với
điều kiện cụ thể ở Việt Nam và hình thành nên một tư tưởng cách mạng đặc
sắc - tư tưởng Hồ Chí Minh. Người xem xét vai trò của cán bộ, kể cả cán bộ
chủ chốt, bất kể là ở cấp nào đều thể hiện rõ qua các mối quan hệ cơ bản sau:
1 - Là người lãnh đạo, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức làm đầu
tàu dẫn dắt mọi phong trào cách mạng của quần chúng, làm gương cho quần
chúng và trong mọi việc "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
2 - Là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, họ "đem chính sách của Đảng,
Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành", đồng thời "đem tình
hình của quần chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách
cho đúng" [45, tr269] và với vị trí đó làm cho cán bộ trở thành cầu nối và giữ
mối dây liên hệ qua lại chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng nhân dân.
18
3 - Là người đầy tớ của nhân dân, phụng sự nhân dân, bảo vệ lợi ích và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: "Chủ tịch, Bộ trưởng,
Thứ trưởng, Uỷ viên này khác là làm gì ? Làm đầy tớ cho nhân dân" [47, tr.373].
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác cán
bộ là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng. Vấn đề cán bộ và công tác
cán bộ đã được đề cập đến trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, Trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta nhiều lần xác định: "phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng
Đảng thì công tác cán bộ là một lĩnh vực quan trọng nhất, là khâu then chốt
của vấn đề then chốt” [58, tr.8].

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh những luận điểm của
C.Mác, V.I. Lênin, của Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vai trò của đội ngũ
cán bộ là hoàn toàn đúng đắn.
Trong đội ngũ cán bộ công chức của tỉnh nói chung thì ĐNCBCC thuộc
diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu một ngành, một địa phương, một đơn vị trong hệ thống chính trị ở tỉnh và
cấp huyện, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, xây
dựng, bảo vệ đất nước nói chung và quê hương Bắc Giang nói riêng, vai trò
đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là lực lượng đi đầu,
nòng cốt trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hoá đường lối, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
thông qua quá trình hoạch định, xây dựng các nghị quyết, quyết định, kế
hoạch, chương trình hành động, chính sách cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội ở địa phương, đơn vị. Do những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, phần lớn là ở tầm vĩ mô, mang tính bao quát, đòi hỏi phải
quán triệt sâu sắc, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều
19
kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, đơn vị thì mới đi vào cuộc sống,
đem lại hiệu quả thiết thực.
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý còn thể hiện vai trò to lớn
có tính quyết định của mình trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương của TW Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như các
nghị quyết, quyết định, kế hoạch, đề án, chương trình hành động của tỉnh. Vì
họ là những người lãnh đạo, trung tâm định hướng, điều khiển toàn bộ hoạt
động của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh; các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể
tỉnh; cấp uỷ, HĐND, UBND các huyện, thành phố, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh
uỷ. Thông qua quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn họ tổng kết được những
kinh nghiệm, bài học, góp phần bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.

Vai trò này xuất phát từ mối quan hệ giữa cán bộ với đường lối, chính
sách và từ vị trí của đội ngũ cán bộ này trong hệ thống chính trị.
Hai là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý đóng vai
trò nòng cốt trong việc xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh vững mạnh. Họ là
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở cấp tỉnh và
cấp huyện, chịu trách nhiệm chính trong việc tuyên truyền, tổ chức, hướng
dẫn, kiểm tra các hoạt động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh, chỉ
đạo xây dựng và củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy; xây dựng đội
ngũ đảng viên, đoàn viên, hội viên; tuyển chọn, ĐTBD, bố trí sắp xếp đội ngũ
cán bộ và đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong từng thời kỳ.
Ba là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý có vai
trò quan trọng trong việc xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, trong đội ngũ cán bộ công chức và nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ
này nếu có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ, năng lực tốt, đồng đều
thì cấp uỷ, HĐND, UBND tỉnh, huyện, thành phố, bộ máy lãnh đạo của các
20
cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh sẽ mạnh, quy tụ được đội ngũ cán bộ
đảng viên, nội bộ đoàn kết. Nhưng nếu thoái hoá về phẩm chất, trình độ, năng
lực không tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ thì sẽ có kết quả ngược lại và các
quyết định thường sẽ thiếu tính hiệu lực và hiệu quả, thậm chí gây mất đoàn
kết và phá hoại tổ chức. Do đó, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý phải có đủ phẩm chất, trình độ,
năng lực ngang tầm nhiệm vụ mới; phải là tấm gương trong học tập, công
tác và sinh hoạt để những người dưới quyền và quần chúng nhân dân noi
theo, là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi nguồn nhân lực, trí lực, vật lực ở
địa phương, phát huy sức mạnh tập thể, động viên mọi người ra sức thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Bốn là, ĐBCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là những người có

vai trò quan trọng nhất trong việc quan tâm chăm lo, bảo vệ lợi ích chính
đáng về tinh thần và vật chất của cán bộ đảng viên và mọi người dân, phát
huy dân chủ trong Đảng, động viên và phát huy tinh thần làm chủ của nhân
dân tích cực tham gia các phong trào hoạt động, nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.
Năm là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý còn là nguồn bổ
sung cán bộ cho các cơ quan, bộ, ban, ngành, đoàn thể TW. Bởi vì hầu hết cán
bộ trong đó đã trưởng thành từ các phong trào cách mạng ở địa phương, được
đào tạo cơ bản về các mặt, thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo
đức, trải qua quá trình công tác ở địa phương đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm thực tiễn, nhiều đ/c độ tuổi còn trẻ, có nhiều triển vọng, có thể đảm
đương được chức vụ cao hơn.
1.1.1.3. Đặc điểm chủ yếu của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay
- ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý là đội ngũ cán
bộ giữ các chức vụ quan trọng nhất trong hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp
huyện, đại đa số các đ/c đều kiêm nhiệm một hoặc một số chức vụ khác trong
21
công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Do vậy có ảnh hưởng lớn đối với đội
ngũ cán bộ của tỉnh. Đây là đội ngũ cán bộ có số lượng không nhiều, thường
từ 300 đến 350 người, chiếm khoảng 1% tổng số CBCC, viên chức toàn tỉnh.
Song lại có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng các nghị quyết, quyết
định, lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế- xã hội của địa
phương trong từng thời kỳ.
- Đây là đội ngũ cán bộ hiểu biết sâu, rộng về đường lối, chủ trương,
chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, am hiểu
tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở trong nước
và ở địa phương; có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động trong công tác xây
dựng đảng, đoàn thể, vận động quần chúng, QLKT, QLNN; có năng lực tổ
chức, quản lý, chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; có khả năng nghiên

cứu khoa học, chủ trì xây dựng hoặc thẩm dịnh các đề án, chuyên đề công tác
liên quan đến lĩnh vực được phân công phụ trách.
- Phần lớn số cán bộ này đã được rèn luyện, thử thách, trưởng thành
trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của đất nước và trong phong trào của
quần chúng, hơn 70% cán bộ trong số đó đã có thời gian tham gia trực tiếp
chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống đế quốc Mỹ và các đội quân xâm
lược khác để bảo vệ tổ quốc, xây dựng tổ quốc XHCN do vậy mà lập trường,
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường XHCN,
trung thành với Đảng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, tích cực đấu tranh
với những luận điểm sai trái. Hầu hết các đ/c đều nêu cao ý thức tổ chức kỷ
luật, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; giữ gìn
phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên, gương mẫu trong thực hiện
các nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý luôn
được BTV Tỉnh uỷ quan tâm thường xuyên lãnh đạo chỉ đạo xây dựng, củng
22
cố, kiện toàn, vì vậy số lượng đã được tăng lên, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn,
chất lượng được nâng lên rõ rệt.
- Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý chủ yếu
được hình thành từ nguồn cán bộ trong quy hoạch tại chỗ, một số đ/c được điều
động, luân chuyển từ nơi khác đến song vẫn là trong nội bộ giữa các cơ quan,
đơn vị, địa phương trong tỉnh. Tuy quê quán, nơi sinh của cán bộ có khác nhau,
từ nhiều miền quê trong cả nước như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng
Yên, Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc nhưng hầu hết đều xuất thân từ nông
thôn, gia đình nông dân, công nhân và đều có quá trình làm ăn sinh sống, học
tập, công tác nhiều năm ở tỉnh. Mặt khác xuất phát từ những đặc điểm riêng về
tự nhiên, kinh tế, văn hoá xã hội địa phương mà đội ngũ cán bộ của tỉnh luôn
có truyền thống yêu quê hương, đất nước, cần cù chịu khó lao động, sản xuất,
cố gắng, tích cực học tập công tác để vươn lên, chủ động sáng tạo trong công

việc, có tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết gắn bó với cộng đồng, gần gũi
với quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm.
- ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý đều do tập thể
BTV Tỉnh uỷ xem xét ra nghị quyết, quyết định luân chuyển, bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại hoặc giới thiệu ứng cử. Do vậy đều là đối tượng điều chỉnh của quy
chế bổ nhiệm, quy chế bầu cử hiện hành, được thực hiện theo một quy trình
chặt chẽ có xem xét đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực
trình độ, kết quả hoàn thành nhiệm vụ, quan hệ với quần chúng Trong quá
trình đó họ một mặt chịu sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp của BTV Tỉnh
uỷ. Đồng thời họ phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đánh giá của các cơ quan, tổ
chức có liên quan và quần chúng nhân dân nơi công tác và nơi cư trú.
- ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý có đặc điểm là
tuổi đời bình quân cao, phần lớn đều trên 50 tuổi, vì vậy phần nào ảnh hưởng
đến sức khoẻ, năng lực công tác. Là tỉnh miền núi nhiều dân tộc anh em cùng
chung sống, nhưng số cán bộ là người dân tộc thiểu số còn ít, tỷ lệ cán bộ nữ
không cao. Một số đ/c còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến lạc hậu tư
23
tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ, biểu hiện ra thành những bệnh cá nhân chủ
nghĩa như: Hẹp hòi, ích kỷ, gia trưởng, trọng nam khinh nữ, kinh nghiệm, cục
bộ, địa phương
- Trong đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý
nhiều đ/c đã trải qua thời gian công tác trong quân đội, thanh niên xung
phong, tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc hoặc các cuộc chiến tranh
bảo vệ tổ quốc nên ít có điều kiện học tập chính quy có hệ thống tại các
trường đại học, trung học chuyên nghiệp, mà chủ yếu là học tập các hệ ĐTBD
không chính quy, trong thời gian tại chức sau này và tích luỹ kinh nghiệm
trong hoạt động thực tiễn; trình độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ trên
cũng còn bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập quốc tế về
kinh tế. Điều đó đòi hỏi trong những năm tới phải tăng cường công tác quy
hoạch, ĐTBD cán bộ, từng bước bố trí xắp xếp, đội ngũ cán bộ hợp lý hơn.

1.1.2. Quan niệm về quy hoạch cán bộ, vai trò, quan điểm, nguyên
tắc, phương châm, phương pháp, quy trình quy hoạch cán bộ chủ chốt
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay
* Quan niệm về QHCB:
Trong "Đại Từ điển tiếng Việt" Nxb văn hoá thông tin năm 1999 hai từ
"quy hoạch" được định nghĩa như sau:
"1. Bố trí sắp xếp kế hoạch dài hạn;
2. Kế hoạch tổng thể trong thời gian dài" [19, tr.1380].
Trong Từ điển tiếng Việt (2002) Nxb Đà Nẵng nêu: quy hoạch là "bố
trí, sắp xếp theo một trình tựh hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho lập
kế hoạch daìi hạn, quy hoạch các vùng kinh tế, quy hoạch trị thuỷ một con
sông, quy hoạch đào tạo cán bộ " [65, tr.813].
Từ đây có thể hiểu quy hoạch theo nghĩa thông thường là bố trí, sắp
xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc
lập các kế hoạch cụ thể, dài hạn và ngắn hạn, ta hay nói quy hoạch đô thị, quy
hoạch giao thông, quy hoạch các khu công nghiệp Khác với các quy hoạch
24
đó QHCB là một loại quy hoạch đặc biệt đối tượng của nó không phải là cơ
sở vật chất, công trình mà là cán bộ, là con người, họ vừa là chủ thể vừa là đối
tượng của quy hoạch.
QHCB là việc lập dự án thiết kế xây dựng tổng hợp đội ngũ cán bộ, dự
kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định với một
trình tự hợp lý, trong một thời gian nhất định, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch
xây dựng đội ngũ cán bộ.
Nội dung lập dự án thiết kế xây dựng tổng hợp đội ngũ cán bộ rất gần
với chiến lược cán bộ, cụ thể hoá những quan điểm, phương châm, nguyên tắc
và mục tiêu, giải pháp trong chiến lược cán bộ. Nội dung này phải xác định:
Một là, mục tiêu của quy hoạch: Tuỳ theo phạm vi, tính chất của QHCB
mà mục tiêu sẽ khác nhau. Ví dụ QHCB cấp tỉnh có mục tiêu khác cấp huyện,
QHCB của ngành, huyện này có mục tiêu khác ngành, huyện kia.

Hai là, quán triệt cơ cấu cán bộ trong quy hoạch: Trong quy hoạch phải
xác định cơ cấu, tỷ lệ 3 độ tuổi, đảm bảo tính đồng bộ, tính kế thừa và phát
triển, tránh tình trạng "hẫng hụt" cán bộ. Quy hoạch còn phải chú trọng cơ cấu
giai cấp, dân tộc, giới tính hợp lý.
Ba là, xác định rõ tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý, lấy
đó làm cơ sở thực hiện việc đánh giá cán bộ, lựa chọn đúng cán bộ đưa vào quy
hoạch và ĐTBD cán bộ theo tiêu chuẩn.
Bốn là, xác định đúng nguồn cán bộ phạm vi và đối tượng quy hoạch.
Quan niệm về QHCB có nội dung thứ hai là dự kiến bố trí, sắp xếp
tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định với một trình tự hợp lý, trong
một thời gian nhất định, đó là:
- Các chức danh trong quy hoạch phải được xác định rõ ràng, cụ thể
như: Cán bộ Đảng, chính quyền hay đoàn thể, cán bộ cấp trưởng hay cấp phó.
- Cần đặt QHCB trong mối quan hệ hữu cơ với các khâu khác của công
tác cán bộ, như khâu đánh giá cán bộ để làm cơ sở cho việc lựa chọn cán bộ
25

×