Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

tăng cường pháp chế xhcn trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của viện kiểm sát nhân dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.45 KB, 134 trang )


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong những nguyên tắc cơ
bản làm nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy
nhà nớc XHCN. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nớc trớc hết phải dựa trên cơ sở pháp luật và đợc tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật; mọi cán bộ, công chức nhà nớc phải nghiêm chỉnh
tôn trọng pháp luật trong khi thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình. Tăng
cờng kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật
cũng là một nội dung quan trọng của nguyên tắc pháp chế XHCN.
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một trong bốn hệ thống cơ quan
cấu thành nên bộ máy Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế
định về VKSND là một đặc điểm riêng có của kiểu Nhà nớc XHCN theo sáng
kiến vĩ đại của V.I. Lênin. Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nớc,
thời gian qua ngành Kiểm sát nhân dân (KSND) đã không ngừng trởng thành
và lớn mạnh. Từ năm 2001 trở về trớc, VKSND là cơ quan duy nhất trong bộ
máy nhà nớc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực
hành quyền công tố. Từ khi ra đời (ngày 26/7/1960) cho đến nay, hệ thống
VKSND đã phát huy đợc vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức năng của mình,
góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN nhằm mục đích
bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang chủ trơng đổi mới
toàn diện đất nớc theo hớng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Thực
hiện chủ trơng đó, Đảng ta xác định phải đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan trong bộ máy nhà nớc sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh
đổi mới của đất nớc. Một trong những trọng tâm của quá trình đổi mới đó là
1

việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan t pháp, trong đó có hệ


thống VKSND các cấp.
Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan t pháp đã
đợc đề cập trong các văn kiện của Đảng trong các nhiệm kỳ từ Đại hội lần thứ
VII của Đảng đến nay nh: Hội nghị Trung ơng 8 khóa VII, Hội nghị Trung -
ơng 3 khóa VIII, Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng.
Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ơng khóa VII tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ
của cải cách tổ chức và hoạt động t pháp trong giai đoạn hiện nay là:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp
luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan t
pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân
đều bình đẳng trớc pháp luật.
Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan t pháp, phân định lại
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, từng bớc mở rộng thẩm
quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức,
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan
thi hành án và các cơ quan tổ chức bổ trợ t pháp.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định:
Cải cách tổ chức, nâng cao chất lợng và hoạt động của các
cơ quan t pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán
bộ t pháp trong công tác bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án,
không đợc để xảy ra những trờng hợp oan sai. Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động t pháp.
Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, tổ chức lại Cơ quan điều tra
và Cơ quan thi hành án theo nguyên tắc gọn đầu mối.
Trên cơ sở chủ trơng của Đảng, Quốc hội nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa X tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi một số
2

điều của Hiến pháp năm 1992. Theo đó, chức năng của VKSND là: "thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp". Để thực hiện chức năng theo
Hiến pháp quy định, hệ thống VKSND phải đổi mới cả về tổ chức và phơng
pháp hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới.
Trong hoàn cảnh đó, việc tăng cờng pháp chế XHCN không chỉ là một
nhiệm vụ mà còn là một quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tiếp
tục cải cách bộ máy nhà nớc nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nớc
Cộng hòa XHCN Việt Nam nhằm đảm bảo thắng lợi cho quá trình đổi mới và
phát triển đất nớc. Để tăng cờng pháp chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nớc,
không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, mà quan trọng hơn là
tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật đợc thực hành thờng xuyên
và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật không đợc tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất thì pháp luật sẽ
không có hiệu lực và trên thực tế cũng sẽ không có pháp chế.
Muốn cho pháp luật của Nhà nớc đợc đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh
và thống nhất thì điều quan trọng trớc nhất là các cơ quan nhà nớc, các tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế,các cán bộ của Đảng
và công chức nhà nớc phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, phải tôn
trọng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, phải làm đúng trách nhiệm là
ngời thừa hành ý kiến của nhân dân, là ngời bảo vệ và phục vụ lợi ích của
nhân dân. Từ đó đòi hỏi phải tăng cờng pháp chế XHCN trong hoạt động của
VKSND nói chung và của mỗi cán bộ, kiểm sát viên của VKSND thành phố
Hà Nội nói riêng.
Trong những năm qua, VKSND thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt công
tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của các cơ quan t pháp
trên địa bàn Thủ đô và thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật đợc
tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, phát huy vai trò tích cực của mình trong
cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
3

nớc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, bên cạnh những

u điểm trên, công tác kiểm sát các hoạt động t pháp và thực hành quyền công tố
còn bộc lộ những sai sót cần khắc phục. Để hoàn thành tốt chức năng của mình,
xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ nền pháp chế
XHCN, ngành KSND phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế và
khắc phục khuyết điểm. Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận và thực
tiễn của việc tăng cờng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động t pháp, tác giả chọn đề tài: "Tăng cờng pháp chế
XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
t pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ
luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nớc và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp chế XHCN là một phạm trù khoa học pháp lý cơ bản, đã đợc
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nớc nghiên cứu với nhiều góc độ khác
nhau. Lý luận về pháp chế XHCN và tăng cờng pháp chế XHCN đã đợc hình
thành và phát triển rực rỡ trong nền khoa học pháp lý Xô-viết và các nớc
XHCN trớc đây. ở nớc ta, vấn đề tăng cờng pháp chế XHCN đã trở thành
quan điểm chính thống và nhất quán đợc thể hiện trong các văn kiện của Đảng
ta qua nhiều kỳ Đại hội; quan điểm đó cũng đã đợc thể hiện trong nhiều tác
phẩm của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nớc. Đồng thời, vấn
đề pháp chế XHCN và tăng cờng pháp chế XHCN đã trở thành một nội dung
khoa học có vị trí không thể thiếu trong giáo trình Lý luận chung về Nhà nớc
và Pháp luật của các trung tâm đào tạo Chính trị - Pháp lý nh: Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học
Luật Hà Nội v.v
Hiện nay vấn đề "tăng cờng pháp chế XHCN"đã trở thành một nguyên
tắc hiến định, chính vì vậy nó đã thu hút đợc sự quan tâm nghiên cứu của
4

nhiều nhà khoa học pháp lý; có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về pháp
chế và tăng cờng pháp chế XHCN gần đây đã đợc công bố nh:

- Luận án TS Luật học của Nguyễn Phùng Hồng về "Tăng cờng pháp
chế XHCN trong hoạt động của lực lợng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo
vệ an ninh quốc gia ở nớc ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 1994.
- Luận án TS học Luật học của Quách Sỹ Hùng về "Tăng cờng pháp
chế về kinh tế trong quản lý nhà nớc nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
1996.
- Luận án TS Luật học của Nguyễn Nhật Hùng về "Tăng cờng pháp
chế XHCN trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nớc ta hiện nay", Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng về "Tăng cờng
pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đờng bộ ở nớc ta hiện nay", Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác.
Nh vậy, vấn đề pháp chế và tăng cờng pháp chế XHCN trong một số
lĩnh vực cụ thể đã đợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tuy
nhiên, về pháp chế và tăng cờng pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp của VKSND thì ch-
a có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện.
Chính vì vậy có thể coi đề tài "Tăng cờng pháp chế XHCN trong hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp của Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội" là công trình đầu tiên nghiên cứu về
lĩnh vực này.
5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các quan điểm, giải pháp
nhằm tiếp tục tăng cờng pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp của VKSND thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp.
- Đánh giá thực trạng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động t pháp thông qua việc phân tích kết quả hoạt
động của VKSND thành phố Hà Nội trong một số năm gần đây.
- Đề xuất những phơng hớng và giải pháp nhằm tăng cờng pháp chế
XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t
pháp của VKSND thành phố Hà Nội.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp chế XHCN
và pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động t pháp của VKSND thành phố Hà Nội và trong một số năm gần đây.
5
. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh về nhà nớc và pháp luật; cũng nh các quan điểm, lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam để chỉ đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc, từng bớc đổi mới
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc theo yêu cầu xây dựng Nhà nớc pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân hiện nay.
6

Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở các phơng pháp nghiên cứu của triết
học Mác - Lênin nh: phơng pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phơng pháp
phân tích và tổng hợp; phơng pháp nghiên cứu lịch sử, cụ thể và toàn diện.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
khác nh: phơng pháp lôgic, các phơng pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, mô

hình hóa
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về pháp chế XHCN
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp.
-
Lần đầu tiên đánh giá có hệ thống về pháp chế XHCN trong hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp VKSND thành phố
Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm tăng cờng pháp chế XHCN
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chơng, 7 tiết.
7

Chơng 1 cơ sở lý luận về pháp chế và pháp chế
trong hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động t pháp
1.1. Cơ sở lý luận chung về pháp chế xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN là một khái niệm khoa học đợc hình thành trong nền
khoa học pháp lý XHCN. ở nớc ta đã từ lâu, pháp chế XHCN không chỉ đợc
quan tâm về khái niệm mà đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nớc, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Nhà nớc cũng nh hoạt động của công dân trong đời sống xã
hội. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân; chính vì vậy, pháp chế XHCN càng phải là một nguyên tắc cơ
bản đợc xếp trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nớc XHCN (nh các nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nớc thuộc về
nhân dân; tập trung dân chủ; nguyên tắc quyền lực nhà nớc là thống nhất nhng

có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và t pháp;
giữa nhà nớc Trung ơng và các cơ quan nhà nớc ở địa phơng ).
Trớc khi đi sâu tìm hiểu về khái niệm pháp chế XHCN, chúng ta hãy
tìm hiểu quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng
nh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề này.
1.1.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về
pháp chế XHCN
C.Mác và Ph.ăngghen là những ngời đã đề ra phơng pháp luận tiên
tiến và khoa học để nghiên cứu lý luận về Nhà nớc và pháp luật. Tuy hai ông
không nêu ra một khái niệm cụ thể nào về pháp chế song qua các tác phẩm
8

của mình, t tởng của các ông về pháp chế đã đợc đề cập trong khi nghiên cứu
pháp luật trong các nhà nớc bóc lột.
Trong bộ T bản, tuy C. Mác không bàn trực tiếp về vấn đề pháp chế
nhng khi nghiên cứu các quan hệ giữa nhà nớc và công dân trong nền kinh tế
t bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng pháp chế là một chế độ tuân thủ pháp luật
trong thực tiễn.
Còn Ph.ăngghen, trong tác phẩm "Bàn về vấn đề nhà ở" đã luận về
pháp chế nh sau:
ở một giai đoạn rất cổ xa nào đấy của sự phát triển xã hội,
nhu cầu làm cho ngời ta thấy cần phải tập hợp dới một quy tắc
chung. Những hành vi sản xuất phân phối và trao đổi sản phẩm tái
diễn hàng ngày cần phải làm thể nào để mọi ngời phải phục tùng
những điều kiện chung về sản xuất, trao đổi. Quy tắc đó thoạt tiên là
thói quen sau đó trở thành pháp luật. Có pháp luật thì những cơ quan
có nhiệm vụ duy trì pháp luật đó tất phải xuất hiện: quyền lực công
cộng, nhà nớc. Trong tiến trình phát triển sau này của xã hội, pháp
luật phát triển thành pháp chế ít nhiều rộng rãi. Pháp chế càng phức

tạp bao nhiêu thì thuật ngữ của nó càng xa rời thuật ngữ biểu hiện
những điều kiện kinh tế thông thờng của xã hội bấy nhiêu. Lúc đó
pháp chế ấy xuất hiện nh một nhân tố độc lập mà lý do tồn tại và cơ
sở của sự tiến triển sau này của nó không phải xuất phát từ những
điều kiện kinh tế mà từ chính những nguyên nhân sâu sắc của bản
thân nó hay có thể nói ra từ khái niệm về ý chí [38, tr. 752].
Phát triển t tởng pháp chế của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã đề
cập rõ nét t tởng pháp chế XHCN ở nhiều bài nói, bài viết trong đó có thể kể
đến những tác phẩm tiêu biểu nh: "Sơ thảo đề cơng nghị quyết về tuân thủ
pháp luật", "Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế, "Th gửi công
9

dân và nông dân về việc đánh thắng Côn-tsắc" Và chúng ta có thể nói rằng,
V.I. Lênin chính là ngời đầu tiên đã đa ra các luận điểm cơ bản về pháp chế
XHCN.
Trong các tác phẩm của mình, Lênin đã đa ra nhng luận điểm cơ bản
về pháp chế. Không những thế, Ngời còn cho rằng, việc thực hiện pháp luật là
một chế độ trong đời sống xã hội. Nó là vấn đề thờng xuyên phải chăm lo.
Pháp chế phải là một chế độ tuân thủ pháp luật của nhà nớc cách mạng. Lênin
yêu cầu phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất trong toàn nớc cộng hòa.
Ngời cũng quan tâm đến cơ chế bảo đảm pháp chế đợc tôn trọng trong đó có
nhấn mạnh "nhà nớc và mọi công dân phải chịu kiểm sát" mà sự kiểm sát này
đợc giao cho một cơ quan không tổ chức theo mô hình "song trùng trực
thuộc".
V.I. Lênin là ngời đầu tiên đa ra các luận điểm cơ bản về pháp chế
XHCN. Ngay từ năm thứ hai của nhà nớc Xô viết, Lênin đã viết "Sơ thảo đề c-
ơng quyết định về việc tuân thủ đúng pháp luật" - Đề cơng này đã trở thành cơ
sở đề ra nghị quyết về việc tôn trọng nghiêm chỉnh pháp chế. Năm 1922, trong
bức th "Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp chế", Lênin đã đa ra
những luận điểm cơ bản làm cơ sở cho pháp chế XHCN. ở đây, Ngời đã nêu

lên những nội dung cơ bản về pháp chế XHCN.
Trong bối cảnh cách mạng Nga mới thành công, một chính sách kinh
tế, một đạo luật, sắc lệnh đợc ban hành và thực hiện là một cuộc đấu tranh giai
cấp hết sức gian khổ. Bên cạnh sự thù địch của các thế lực phản cách mạng
còn là sự cản trở của bệnh hành chính quan liêu trong bộ máy nhà nớc và hiện
tợng không tuân thủ các đạo luật của chính quyền Xô viết trong đời sống xã
hội. Một sự thật mà Lênin đã nói là: "Chúng ta đang sống trong tình trạng mà
đâu đâu cũng có những hiện tợng không tôn trọng pháp luật và ảnh hởng của
địa phơng là một trong những trở ngại lớn nhất cho công cuộc thiết lập pháp
chế" [32, tr. 234].
10

Ngời thờng gắn việc củng cố quyền lực nhà nớc, quyền lực của nhân
dân với việc củng cố pháp chế cách mạng, pháp chế XHCN. V.I. Lênin cho
rằng: "Điều kiện của một chính quyền vững vàng và chắc chắn càng tiến bộ,
sự trao đổi của dân chúng càng phát triển, thì phải cấp bách đề ra khẩu hiệu
kiên quyết phải có pháp chế cách mạng rộng lớn " [33, tr. 404].
Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, việc tổ chức và hoạt động của nó
phải trên cơ sở bảo vệ chế độ thực hiện pháp luật thống nhất trong cả nớc cộng
hòa. Vì vậy, V.I. Lênin cho rằng tổ chức Viện kiểm sát (VKS) theo nguyên tắc
"Song trùng trực thuộc" nh các cơ quan nhà nớc khác là một sai lầm. VKS
theo V.I. Lênin là cơ quan kiểm sát toàn bộ chế độ tuân thủ pháp luật của các
cơ quan nhà nớc, viên chức nhà nớc và mọi công dân. Nó bảo đảm cho "bất cứ
quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành chính địa phơng nào cũng không
đi ngợc lại pháp luật" [32, tr. 233]. Cho nên "Viện kiểm sát địa phơng chỉ trực
thuộc vào Trung ơng" [32, tr. 236].
T tởng pháp chế của V.I. Lênin có thể khái quát nh sau:
Thứ nhất: Pháp chế là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để pháp luật
trong thực tế của mọi tổ chức, mọi thành viên trong xã hội.
Thứ hai: Chính sách của Đảng cộng sản phải đợc khẳng định bằng

pháp luật. Quá trình ban hành pháp luật, hoàn thiện pháp luật phải đi đôi với
việc thiết lập nền pháp chế XHCN.
Thứ ba: Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp - cơ sở thiết lập một chế
độ pháp chế thống nhất trong cả nớc.
Thứ t: Pháp chế là những phơng pháp chuyên chính vô sản, phơng
pháp quản lý nhà nớc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ năm: Pháp chế XHCN là phơng pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con
ngời, thực hiện nền dân chủ XHCN, xóa bỏ bóc lột và bất công, thiết lập bình
đẳng, công bằng xã hội.
11

1.1.1.2. T tởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về pháp chế
XHCN
ý tởng về việc xây dựng một Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì
dân và tăng cờng pháp chế không phải gần đây mới đợc đề cập tới, mà từ lâu
đã đợc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm và chú trọng. Trong t tởng
Hồ Chí Minh về con đờng của cách mạng Việt Nam, từ năm 1919, Nguyễn ái
Quốc (Hồ Chí Minh) đã nói lên tiếng nói của các dân tộc thuộc địa trong đó
có Việt Nam về khao khát một xã hội thực sự có luật pháp và những thiết chế
cần thiết cho sự duy trì và thi hành pháp luật:
"Bẩy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
Đây là một trong 8 yêu sách mà Nguyễn ái Quốc gửi cho các nớc
đồng minh tại Hội nghị Vessailles năm 1919. Và trên cơ sở nhận thức đợc vai
trò vô cùng quan trọng của Hiến pháp trong việc xây dựng và củng cố một
Nhà nớc kiểu mới, nhằm phát huy các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và
bảo đảm quyền lực nhà nớc thực sự thuộc về nhân dân, trong cuộc họp đầu
tiên của Chính phủ nớc Việt Nam độc lập - Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng
hòa, ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Trớc chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi

đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nớc ta không
có Hiến pháp. Nhân dân ta không đợc hởng quyền tự do dân chủ.
Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ
chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu.
Dới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau một thời gian
ngắn, ngày 09-11-1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã đợc Quốc hội khóa I thông qua.
12

Kể từ khi nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa và bản Hiến pháp đầu tiên
của nớc Việt Nam độc lập ra đời cho đến nay, trong suốt hơn 50 năm dới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nớc ta trong mọi thời kỳ phát
triển khác nhau của đất nớc không chỉ chú trọng tới việc ban hành Hiến pháp
và các văn bản pháp luật khác mà còn luôn đòi hỏi sự chấp hành và thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật.
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin về nhà nớc và pháp luật, sự kế thừa và
phát triển t tởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nớc ta đã sớm hình thành và từng
bớc hoàn thiện t tởng về pháp chế XHCN, và tăng cờng pháp chế XHCN. Điều
đó thể hiện rõ trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng, các bản Hiến pháp qua
các thời kỳ khác nhau của cách mạng nớc ta.
Ngay tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần III (Đại hội đầu tiên
sau khi miền Bắc đợc giải phóng) vấn đề pháp chế đã đợc quan tâm. Trong
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã ghi:
Nhà nớc cần nghiêm trị những cán bộ lợi dụng cơng vị công
tác của mình để xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm pháp luật
của nhà nớc, đồng thời cần khen thởng những cán bộ có công và có
đạo đức.
Cần phải tăng cờng vai trò của cơ quan nhà nớc các cấp, thực
hiện đúng chế độ tập trung dân chủ trong sinh hoạt của các cơ quan

nhà nớc. Tất cả những chế độ pháp luật, thể lệ của Nhà nớc phải đợc
cơ quan chính quyền các cấp chấp hành nghiêm chỉnh. Kế hoạch nhà
nớc là một pháp lệnh, các cơ quan nhà nớc phải chấp hành đúng và phải
đảm bảo cho mọi ngời chấp hành đúng [5, tr. 118].
Có thể thấy rằng, cách đề cập này còn sơ sài. Ngay thuật ngữ pháp chế
cũng cha đợc nêu một cách trực diện. Điều đó cũng dễ hiểu bởi thời điểm đó
đất nớc còn chia thành hai miền với hai nhiệm vụ chiến lợc, việc nghiên cứu lý
13

luận còn hạn chế. Đáng chú ý là tại Đại hội lần này, Thủ tớng Phạm Văn
Đồng đã trình bày tham luận quan trọng với nhan đề "Mấy vấn đề về Nhà nớc
dân chủ nhân dân" trong đó khẳng định: "Tăng cờng nhà nớc dân chủ nhân
dân là tăng cờng pháp chế XHCN" [5, tr. 64]. Ông còn nói: " chúng ta phải
rất xem trọng công tác lập pháp, dần dần xây dựng nền pháp chế XHCN ngày
càng đầy đủ. Đồng thời, chúng ta phải ra sức giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh
thi hành pháp luật và có thái độ xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi
phạm pháp luật" [5, tr. 65]. ở đây, pháp chế đã đợc đề cập rõ hơn song vẫn
còn cha tách bạch giữa "pháp chế" và "hệ thống pháp luật".
Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ơng Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã khẳng định:
Quyền làm chủ tập thể của nhân dân bằng Nhà nớc dới sự
lãnh đạo của Đảng phải đợc xác định bằng Hiến pháp và pháp luật.
Sức mạnh và nội dung cơ bản của pháp chế XHCN chính là quyền
làm chủ tập thể của nhân dân. Cần tăng cờng pháp chế XHCN, làm
cho mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nớc đi vào khuôn phép và
quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể và
đảm bảo quyền lợi của công dân.
Pháp luật phải quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của công
dân, đòi hỏi công dân phải làm tròn nghĩa vụ, phải tuân theo pháp
luật. Đối với những ngời không tự giác thì phải cỡng chế và bất cứ ai

vi phạm pháp luật đều phải xử phạt thích đáng [6, tr. 146- 147].
Rõ ràng là trong giai đoạn này, t tởng pháp chế XHCN của Đảng ta
không những đợc xác định rõ hơn về vai trò, nội dung mà còn đợc quan tâm đến
cả cơ chế đảm bảo. Một mặt nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân;
mặt khác là thực hiện sự cỡng chế đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V thì vấn đề tăng cờng pháp
chế XHCN đã đợc đề cập một cách trực diện. Đó là: "Tăng cờng pháp chế
14

XHCN là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nớc, bảo
đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động" [7, tr. 114]. Không những
thế trong văn kiện của Đại hội còn nêu lên vấn đề "khắc phục cho đợc tình
hình không bình thờng là nhiều luật và pháp lệnh đợc ban hành không đợc thi
hành nghiêm chỉnh, thậm chí không đợc thi hành" [7, tr. 115]. Nhiều biện
pháp nhằm tăng cờng pháp chế XHCN đã đợc đa ra trong đó đáng chú ý là "đa
việc giáo dục về pháp luật vào các trờng học, các cấp học, xây dựng ý thức
sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật" [7, tr. 115]. Bên cạnh đó là việc tăng
cờng công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu tố và yêu cầu cán bộ, đảng
viên gơng mẫu thi hành pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các hành
vi vi phạm pháp luật, tăng cờng pháp chế XHCN.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thì trong Nghị quyết đã chỉ rõ:
"Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cơng vị nào, đều phải
sống và làm việc theo pháp luật. Mọi vi phạm đều phải xử lý" [8, tr. 121]. Do
vậy, Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu đối với các cấp ủy Đảng từ Trung ơng tới
địa phơng phải thờng xuyên quan tâm lãnh đạo công tác pháp chế, kiểm tra
hoạt động của tất cả các cơ quan và đặc biệt là các cơ quan pháp chế. Phát huy
sức mạnh của quần chúng nhân dân và d luận xã hội để đấu tranh kiên quyết,
không khoan nhợng với các biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng xác định: "Điều quan trọng

để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cờng
pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp
luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân" [9, tr. 121]. Tới Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, trong công tác xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc cộng
hòa XHCN Việt Nam, Đảng ta tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm "Tăng c-
ờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nớc pháp quyền Việt Nam.
15

Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo
đức" [10, tr. 79].
Nh vậy, vấn đề pháp chế XHCN và tăng cờng pháp chế XHCN từ lâu
đã trở thành quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nớc ta. Pháp chế XHCN
và tăng cờng pháp chế XHCN không chỉ đơn thuần là những vấn đề lý luận
mà còn mang ý nghĩa thực tiễn to lớn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và củng cố chế độ xã hội XHCN,
và đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng Nhà nớc pháp quyền
XHCN Việt Nam trong tình hình mới. Từ sự phân tích về vai trò và ý nghĩa
của pháp chế XHCN và tăng cờng pháp chế XHCN, có thể nhận thức một cách
khái quát về pháp chế XHCN.
1.1.1.3. Khái niệm và những nội dung cơ bản của pháp chế XHCN
Dựa vào những nguyên lý cơ bản của Lênin, các nhà khoa học pháp lý
ở Liên Xô trớc đây đã xây dựng khái niệm mới về "pháp chế cách mạng"
-pháp chế XHCN. Cơ sở thiết lập pháp chế XHCN là hệ thống pháp luật của
Nhà nớc kiểu mới. Điều kiện quyết định để pháp luật đi vào cuộc sống là Nhà
nớc XHCN và ý thức tự giác của đông đảo quần chúng nhân dân. Nội dung cơ
bản của pháp chế XHCN đợc các nhà khoa học pháp lý tập trung nhấn mạnh ở
những điểm chủ yếu. Đó là:
Pháp chế XHCN là sự đòi hỏi sự tuân thủ và chấp hành pháp luật đối
với các cơ quan nhà nớc, các cán bộ nhân viên trong các cơ quan nhà nớc và
các tổ chức và nhân viên của các tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân.

Cùng với sự ra đời của khái niệm pháp chế XHCN, ngày nay với sự
phát triển của khoa học pháp lý các khái niệm, phạm trù pháp lý nói chung và
pháp chế nói riêng đã đợc xây dựng hoàn thiện hơn; phản ánh thực tế khách
quan của đời sống nhà nớc và xã hội. Trong sự hoàn thiện khái niệm pháp chế,
nội dung chủ yếu đã đợc làm rõ là "ranh giới" của hiện tợng pháp luật với t
16

cách là hệ thống các quy phạm pháp luật và hiện tợng của hệ thống các quan
hệ xã hội đợc điều chỉnh bằng pháp luật. Trong thực tế định nghĩa về pháp chế
có tính khoa học đợc nhiều ngời thừa nhận và ghi vào sách giáo trình môn Lý
luận chung về Nhà nớc và pháp luật là: "Pháp chế XHCN là chế độ của đời
sống chính trị xã hội trong đó Nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ
quan nhà nớc; các tổ chức chính trị; các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị
kinh tế và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật;
mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý".
Trong nền khoa học pháp lý Xô viết, các khái niệm, phạm trù pháp lý
khác cũng hình thành và phát triển. Trong đó phải kể đến các khái niệm gần
gũi với khái niệm pháp chế nh: Thực hiện pháp luật và trật tự pháp luật. Thực
hiện pháp luật là quá trình hoạt động có chủ định của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật nhằm làm cho pháp luật đợc thực hiện trong cuộc sống. Quá
trình hoạt động đó bao hàm các dạng hành vi thực hiện pháp luật nh: Tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Nh
thế hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nớc thông qua chế độ thực hiện
pháp luật đã đợc chuyển hóa thành pháp chế.
Nh vậy, quan điểm cơ bản từ trớc tới nay vẫn coi: "Pháp chế chính là
sự đòi hỏi mọi cơ quan nhà nớc, cán bộ công chức nhà nớc, các tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế cũng nh mọi công dân
đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong hoạt động của mình". Theo
đó, định nghĩa này tập trung nhấn mạnh nội dung cơ bản đó là sự tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật của mọi chủ thể pháp luật.

Đặc trng lớn nhất của pháp luật là tính qui phạm phổ biến, pháp luật
mang tính bắt buộc chung đối với mọi đối tợng tham gia các quan hệ xã hội
mà nó điều chỉnh, điều này đợc nhà nớc thừa nhận và đợc đảm bảo bằng các
biện pháp cỡng chế mang tính nhà nớc. Mọi chủ thể pháp luật đều phải xử sự
phù hợp với pháp luật. Bản thân nhà nớc - chủ thể ban hành và đảm bảo sự thi
17

hành pháp luật cũng phải tự đặt mình vào việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp
luật. Bởi Nhà nớc và pháp luật của chúng ta mang tính nhân dân sâu sắc, phục
tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đờng lối chính sách
của Đảng đã đợc thể chế hóa thành luật. Nhà nớc pháp quyền XHCN không
cho phép Nhà nớc và các chủ thể quyền lực công đứng ngoài và hành xử ngoài
pháp luật. Đứng trớc pháp luật, mọi ngời đều bình đẳng, tất cả các hành vi vi
phạm pháp luật đều bị trừng trị, mọi chủ thể vi phạm pháp luật đều bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý. Pháp chế XHCN xa lạ với sự phân biệt đối xử, đặc quyền
đặc lợi, không có đất cho các biểu hiện lạm dụng chức quyền.
Định nghĩa nh vậy không có nghĩa là phủ nhận hay coi nhẹ vai trò tiền
đề của pháp luật đối với pháp chế. Bởi pháp chế và pháp luật là hai khái niệm
gần gũi, có quan hệ chặt với nhau nhng không đồng nhất. Trong đó pháp luật
đợc hiểu là hệ thống các qui phạm do nhà nớc ban hành để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Pháp luật là một trong những yếu tố bảo đảm sự phát triển của
xã hội. Đồng thời, pháp luật ghi nhận và thể chế hóa các quyền tự do dân chủ
của công dân, thiết lập nên các bảo đảm pháp lý đảm bảo cho các quyền đó đ-
ợc thực hiện trên thực tế. Qua đó, ngời dân tìm thấy ở pháp luật phơng tiện
bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong điều kiện xây dựng
Nhà nớc pháp quyền XHCN, pháp luật còn là phơng tiện thể chế hóa các đờng
lối của Đảng và đa nó vào cuộc sống.
Tuy nhiên, để pháp luật thực sự phát huy đợc các vai trò quan trọng đó
trong thực tiễn cuộc sống, để pháp luật không chỉ là những trang giấy chứa
đựng các qui phạm, đòi hỏi phải có pháp chế. Bởi pháp chế là phạm trù thể

hiện yêu cầu và đòi hỏi đối với mọi chủ thể pháp luật trong xã hội phải tôn
trọng và tuân thủ triệt để pháp luật. Nh vậy, pháp luật là điều kiện tiền đề của
pháp chế. Song việc có pháp luật cha hẳn là đã tồn tại pháp chế. Một hệ thống
pháp luật thiếu hoàn thiện, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ kéo theo một cơ chế
điều chỉnh pháp luật khiếm khuyết. Hay pháp luật khi đợc ban hành nhng
18

không đợc các chủ thể pháp luật chấp hành và tuân thủ hoặc đợc thi hành nh-
ng không thực sự nghiêm minh thì trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn, xã hội rơi vào
trạng thái vô pháp chế. Hậu quả tất yếu sẽ là tình trạng xã hội với các mặt đời
sống phát triển không bình thờng, các quyền và lợi ích hợp pháp của ngời dân
không đợc đảm bảo. Do đó, vấn đề mấu chốt là: pháp luật chỉ thực sự có hiệu
lực khi nó dựa trên nền tảng vững chắc của pháp chế, bên cạnh đó pháp chế
chỉ có thể đợc củng cố và tăng cờng trong điều kiện một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, đồng bộ.
Trớc sự vận động không ngừng của đời sống xã hội, quan điểm trên
đây về pháp chế XHCN dờng nh đã không còn mang tính chính xác khoa học
cao. Quan điểm đó vẫn đúng nhng cha thực sự đủ. Hiện nay đang phổ biến
một quan điểm khoa học cho rằng: "Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống
pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại
một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nớc, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và
đối với công dân" [49, tr. 680].
Trong định nghĩa này có mấy nội dung chính yếu sau đây:
- Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; và hệ thống pháp luật này là
điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật.
- Tổ chức và hoạt động của Nhà nớc, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và
mọi công dân phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh pháp luật.
Cách tiếp cận thứ nhất cho ta thấy một cách nhìn cận cảnh về pháp chế,
nói một cách khác, định nghĩa thứ nhất về pháp chế là một định nghĩa hẹp về

pháp chế. Cách tiếp cận thứ hai hàm chứa định nghĩa hẹp về pháp chế đồng
thời có bổ sung hai nội dung mới cho ta một cái nhìn bao quát hơn về pháp chế
XHCN. Cách tiếp cận này đáp ứng đợc những đòi hỏi hiện nay của lý luận
cũng nh thực tiễn là phải trả lời câu hỏi: pháp chế dựa trên cơ sở nào, để làm
gì và duy trì nó nh thế nào. Nó cho chúng ta một định nghĩa rộng về pháp chế.
19

Định nghĩa này trớc hết đã trực tiếp xác định vai trò vô cùng quan
trọng của một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trong vai trò là nền tảng của việc
thiết lập pháp chế XHCN.
Nh chúng ta đã biết, bất cứ một xã hội nào cũng đều cần có sự quản lý
nhằm ổn định trật tự xã hội và phục vụ cho nhu cầu phát triển xã hội. Kể từ
khi xã hội có giai cấp dẫn đến xuất hiện nhà nớc, giai cấp cầm quyền luôn
mong muốn một trật tự xã hội phù hợp với ý chí giai cấp mình. Giai cấp cầm
quyền tìm thấy ở pháp luật công cụ hữu hiệu nhất trong quản lý xã hội. Chính
sự nhập cuộc của pháp luật vào đời sống xã hội đã tạo ra đời sống pháp lý của
xã hội và tạo ra pháp chế. Đến lợt mình, pháp chế tạo ra một trạng thái bảo
đảm cao về mặt pháp luật cho mọi chủ thể trong xã hội. Đó chính là ý nghĩa
lớn lao của pháp chế XHCN; và ngày nay quan điểm về xây dựng Nhà nớc
pháp quyền cũng có những điểm tơng đồng trong lĩnh vực này.
Với mục tiêu xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân dới cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nớc quản lý, pháp
chế XHCN đợc đặt lên nh một nguyên tắc hàng đầu trong mọi quan hệ về tổ
chức và hoạt động của bất cứ cơ quan nhà nớc, tổ chức chính trị - xã hội nào.
Do vậy, pháp luật, hơn lúc nào hết, cần thể chế hóa đờng lối lãnh đạo của
Đảng làm tiền đề cho pháp chế. Điều đó tạo nên cơ sở pháp lý cho các quan
hệ chính trị đáp ứng nhu cầu ổn định xã hội, phát huy tính dân chủ, xây dựng
Nhà nớc pháp quyền Việt Nam. "Tuy nhiên, hệ thống pháp luật cũng chỉ nên
dừng lại ở mức đáp ứng cần và đủ cho các quan hệ xã hội. Pháp chế XHCN
đòi hỏi việc điều chỉnh pháp luật phải đúng cách" [49, tr. 689]. Một triết gia

phơng Đông nổi tiếng đã từng nói: việc trị quốc ví nh nấu một nồi cá, nếu
quấy mạnh thì nó nát, nếu không quấy thì nó cháy, tốt nhất là nên quấy vừa
phải và đúng lúc, đúng cách.
20

Còn về nội dung cơ bản của pháp chế: đòi hỏi tổ chức và hoạt động của
Nhà nớc, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân tuân thủ và thực hiện đầy
đủ pháp luật, về nội hàm không có gì đổi khác so với cách định nghĩa thứ nhất.
Theo lôgíc của các quan hệ biện chứng trên từ pháp luật đến chế độ
thực hiện pháp luật cấu thành chế độ pháp chế; các nhà khoa học pháp lý đã
xem xét hiện tợng xã hội pháp lý đó và cho rằng đó là trạng thái trật tự pháp
luật. Trật tự pháp luật phải chăng là một hệ thống các quan hệ xã hội hình
thành và phát triển dới sự tác động điều chỉnh của hệ thống các quy phạm
pháp luật.Vậy trật tự pháp luật có phải là pháp chế không? Đã từng có hai
quan niệm để lý giải mối quan hệ giữa pháp chế và trật tự pháp luật. Quan
niệm thứ nhất coi trật tự pháp luật là yếu tố cấu thành của pháp chế. Quan
niệm thứ hai có thể là hợp lý hơn khi cho rằng trật tự pháp luật không phải là
yếu tố bên trong trùng khớp với nội hàm pháp chế mà trật tự pháp luật là mục
đích của pháp chế, là hiệu quả của quá trình thiết lập và tăng cờng pháp chế.
Tóm lại, trong lịch sử ra đời, tồn tại, phát triển của mỗi nhà nớc có một
lịch sử ra đời, tồn tại của pháp luật và pháp chế tơng ứng. Thấu suốt trong dòng
lịch sử đấu tranh chống lạm dụng quyền lực, độc đoán chuyên quyền từ phía
nhà nớc và chống t tởng còng nh hoạt động vô chính phủ, coi thờng pháp luật
của công dân nhằm đảm bảo cho pháp luật thực sự ngự trị trong đời sống nhà
nớc và đời sống xã hội; thành lập nên một trật tự pháp luật theo ý chí và mục
đích của giai cấp thống trị xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra định nghĩa pháp chế XHCN nh sau:
Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong
đó tất cả các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà n-
ớc, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực

hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
1.1.2. Những nguyên tắc của pháp chế XHCN
21

Ngày nay Đảng ta đang chủ trơng xây dựng một Nhà nớc pháp quyền
Việt Nam XHCN của dân, do dân, và vì dân. Trong quan niệm về nhà nớc
pháp quyền có nhiều điểm trùng hợp với quan niệm về pháp chế. Thí dụ, các
yêu cầu về một hệ thống pháp luật tơng đối hoàn chỉnh; về tính tối cao của
Hiến pháp và các đạo luật; về sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ
thể; về sự tôn trọng và bảo đảm các quyền công dân. Tuy nhiên, quan niệm về
Nhà nớc pháp quyền có nội dung rộng hơn. Nó bao hàm cả vấn đề trách
nhiệm qua lại giữa nhà nớc và công dân, công dân và nhà nớc, vấn đề trách
nhiệm của quốc gia trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, v.v Đặt vấn đề
từng bớc xây dựng Nhà nớc pháp quyền ở Việt Nam là đáp ứng đợc các đòi
hỏi của một xã hội đang chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc, đồng thời cũng đáp ứng đợc đòi hỏi của một quốc gia đổi mới muốn
làm bạn với tất cả các nớc trên thế giới theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi
và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Những nguyên tắc của pháp chế XHCN là những t tởng chủ đạo thể
hiện bản chất và các đặc điểm của pháp chế trong xã hội ta. Các nguyên tắc cơ
bản đó là:
1.1.2.1. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế
Nội dung của nguyên tắc này là: pháp luật phải đợc nhận thức và thực
hiện thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và ở tất cả các ngành, không
thể đem lợi ích của địa phơng, lợi ích ngành đối lập với lợi ích chung của nhà
nớc. Văn bản của cơ quan nhà nớc ở địa phơng phải phù hợp, không mâu
thuẫn với các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nớc ở trung ơng ban hành.
Những biểu hiện cục bộ, bản vị địa phơng, có hại cho sự thống nhất pháp chế,
đi chệch lợi ích chung của cả nớc cần phải đợc loại trừ. Không nên quan niệm
rằng tính thống nhất của pháp chế loại bỏ việc cân nhắc những điều kiện của

địa phơng. Các cơ quan nhà nớc ở địa phơng có nghĩa vụ, một mặt, thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật đã đợc quy định thống nhất cho cả nớc, mặt khác,
22

trong hoạt động của mình cần tính toán đầy đủ những hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể của địa phơng. Song, sự tính toán đó không phải để vi phạm pháp luật mà
để tìm kiếm những hình thức, biện pháp và phơng sách đặc thù của địa phơng
nhằm thực hiện pháp luật tốt hơn.
Pháp luật luôn mang trong nó tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
nên pháp luật phải đợc nhận thức và thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn bộ
lãnh thổ quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa: Luật, Pháp lệnh không đợc mâu thuẫn
với Hiến pháp, các văn bản dới luật không đợc mâu thuẫn, chồng chéo với các
văn bản luật, các văn bản pháp luật của địa phơng, của các bộ, ngành không đợc
đặt lợi ích cục bộ của địa phơng và của ngành mình đối lập với lợi ích của quốc
gia. Đặt vấn đề nh vậy không có nghĩa là triệt tiêu hoàn toàn tính chủ động sáng
tạo của các địa phơng và các bộ ngành, bỏ qua tính đặc thù của từng địa phơng
và bộ ngành. Trên cơ sở sự thống nhất, các địa phơng và các bộ ngành có thể vừa
tính toán tới những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mình vừa thực hiện nghiêm
chỉnh pháp luật đã đợc qui định thống nhất trong phạm vi cả nớc.
Trong quan hệ với các văn bản luật và các văn bản qui phạm dới luật,
Hiến pháp là đạo luật mang tính tối cao, do Quốc hội ban hành và là đảm bảo
cao nhất của pháp chế. Điều này đợc chính Hiến pháp qui định: "Hiến pháp n-
ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nớc, có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp". Bản thân Hiến pháp cũng đợc xây dựng và ban hành theo một trình tự
thủ tục riêng theo qui trình lập hiến với yêu cầu phải đợc 2/3 số đại biểu Quốc
hội biểu quyết tán thành. Về vấn đề này, để đảm bảo tính thống nhất của pháp
luật, tính tối thợng của Hiến pháp và quan trọng hơn để tăng cờng pháp chế
XHCN cần sớm khắc phục những sai lầm cơ bản, những biểu hiện vi hiến. Nh
việc các cơ quan hữu quan đã đa cả nội dung sửa đổi Hiến pháp 1992 vào các

chơng trình lập pháp năm 2000 và năm 2001 của Quốc hội để rồi nội dung
này đợc thông qua theo qui trình lập pháp (chỉ cần quá 1/2 số đại biểu Quốc
23

hội tán thành) thay vì lẽ ra phải đợc thông qua theo một qui trình lập hiến (yêu
cầu phải đợc 2/3 số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành theo đúng qui định
tại Điều 147 Hiến pháp 1992).
1.1.2.2. Mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi phải đa những yêu cầu của pháp luật vào thực
tế đời sống; mọi chủ thể cần phải xử sự phù hợp với pháp luật. Mọi ngời đều
bình đẳng trớc pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm pháp luật đều
bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Pháp chế XHCN xa lạ với những biểu hiện
phân biệt đối xử và đặc quyền, đặc lợi, không cho phép lạm dụng chức vụ,
quyền hạn lẩn tránh hoặc cố tình làm trái pháp luật.
Để tránh tình trạng hệ thống pháp luật của Nhà nớc đã đợc ban hành
đáng kể nhng chấp hành không nghiêm, trớc hết Nhà nớc mà cụ thể trong đó
là các cơ quan trong bộ máy nhà nớc, các cán bộ công chức phải nghiêm
chỉnh thi hành và chấp hành pháp luật. Nhà nớc chỉ đợc làm những gì luật cho
phép nhằm hạn chế tối đa sự lạm quyền trong tổ chức cũng nh hoạt động của
bộ máy nhà nớc. Đối với các chủ thể pháp luật khác ngoài nhà nớc thì đợc làm
tất cả trừ những gì luật cấm. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho các
quyền tự do dân chủ của công dân đợc thực hiện.
1.1.2.3. Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và các đạo luật
Điều 146 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Hiến pháp nớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nớc, có hiệu lực pháp lý cao
nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Những đạo
luật có hiệu lực thấp hơn Hiến pháp nhng cao hơn những văn bản dới luật.
Những văn bản dới luật phải đợc ban hành trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp
và các đạo luật, không đợc trái với Hiến pháp và các đạo luật đó.
24


1.1.2.4. Bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền và tự do của công
dân đã đợc pháp luật quy định
Trong xã hội ta, công dân có những quyền tự do, dân chủ rộng rãi.
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của pháp chế là phải bảo đảm và
bảo vệ những quyền dân chủ đó. Công dân khi sử dụng các quyền tự do đợc
pháp luật ghi nhận, không đợc gây thiệt hại cho lợi ích nhà nớc và xã hội,
cũng nh lợi ích của các công dân khác.
1.1.2.5. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh mọi vi
phạm pháp luật
Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng có hại cho lợi ích của nhà nớc, xã
hội và công dân. Bởi vậy, các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền phải xử lý
nhanh chóng, công minh và có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Để làm đ-
ợc điều này cần phải chỉnh đốn tổ chức, thi hành những biện pháp có hiệu lực
nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ, cửa quyền, nghiêm trị
những phần tử biến chất, lợi dụng danh nghĩa Đảng và chính quyền để đục
khoét, áp bức quần chúng. Các cơ quan tòa án, kiểm sát, thanh tra, công an,
phải dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp
luật. Mỗi công dân cũng cần hiểu rõ nếu họ vi phạm pháp luật sẽ không tránh
khỏi phải chịu sự cỡng chế của nhà nớc dới hình thức các biện pháp trách
nhiệm pháp lý.
Các qui phạm pháp luật nói riêng và pháp luật nói chung luôn là đại l-
ợng của dân chủ, công bằng và tự do. Do đó, nó là khuôn mẫu, là chuẩn mực
hành vi, là thớc đo của hành vi xử sự trong đời sống xã hội. Bất cứ hành vi nào
vi phạm pháp luật, trái với các qui phạm pháp luật đều là đi ngợc lại với lợi ích
của của cộng đồng, lợi ích của toàn xã hội. Do vậy, để bảo đảm trật tự xã hội
cần thiết phải ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, xâm
phạm lợi ích hợp pháp của công dân và của nhà nớc. Việc ngăn chặn và xử lý
25

×