Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở việt nam 27

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.88 KB, 57 trang )

L ời nói đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
nhận thấy rằng đường lối, chiến lược phát triển kinh
tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong
quá trình phát triển kinh tế của một đất nước Trong
đó, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý là một
trong những vấn đề hết sức quan trọng
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm
1986 đến nay, rõ nhất là từ năm 1990 cơ cấu kinh tế
nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù
hợp với tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố Tỷ
trọng các ngành cơng nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và
chiếm tỷ trọng lớn Những chuyển biến đó đã góp phần
tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
và ổn định
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đó cũng mới chỉ là bước đầu và nhìn
chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm Cho đến nay,
nước ta vẫn là nước nông nghiệp, dân cư sống ở nông
thôn và lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020: "Đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế ngành hợp lý
với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dưới 10%, công
nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng
GDP" Mà Đại hội VIII đã đề ra thì cịn nhiều vấn đề
phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát
thực
Với lý do đó, em chọn đề tài: "Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở Việt
Nam" Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn


của T S Nguyễn Thị Ngọc Huyền và sự giúp đỡ của các
giảng viên trong Khoa khoa học quản lý Em xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến Khoa khoa
học quản lý, đặc biệt là T S Nguyễn Thị Ngọc Huyền


đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài
này
Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết khơng
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của các thầy, cơ trong Khoa để bài
viết sau được hoàn chỉnh hơn

Chươ ng 1
Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch
cơ cấu ngành trong nền kinh tế

1 1 Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1 1 1 Một số khái niệm cơ bản
1 1 1 1 Khái niệm về
Cơ cấu ngành kinh tế
thành các tương quan tỷ
giáa các nhóm ngành của

cơ cấu ngành kinh tế
là tổ hợp các ngành hợp
lệ biểu hiện mối liên hệ
nền kinh tế quốc dân


Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân
cơng lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, thay đổi mạnh
mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang
phát triển Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc
gia người ta phân tích theo 3 nhóm ngành chính: nơng
nghiệp (bao gồm nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp), cơng nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây
dựng), dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại
như: thương mại, bưu điện, du lịch
)
Việc phân tích
khơng chỉ dừng lại
(số lượng ngành, tỷ
tích được mặt chất

cơ cấu ngành của nền kinh tế
ở những biểu hiện về mặt lượng
trọng) mà quan trọng hơn là phân
của cơ cấu: vị trí, vai trị của
2


ngành hiện tại trong nền kinh tế, sự tương tác giữa
công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển, khả
năng hướng ngoại, quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ
cấu lãnh thổ và cơ cấu theo thành phần kinh tế
Mặt khác, cơ cấu ngành "luôn luôn vận động, phát
triển", nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường
Bởi vậy, khi phân tích cơ cấu ngành cần thấy rõ tính

quy luật của sự vận động và luôn đặt ra phương hướng
chuyển dịch cơ cấu ngành cho thích ứng yêu cầu phát
triển kinh tế trong từng giai đoạn
1 1 1 2 Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành
của nền kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự
thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ
sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng
với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để
chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng
thái khác hợp lý và hiệu quả hơn Đây khơng phải đơn
thuần là sự thay đổi vị trí, tỷ trọng và quan hệ
giữa các ngành mà là sự biến đổi cả về lượng và chất
trong nội bộ cơ cấu
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ
sở cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ
cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp
để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ
sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới
hiện đại và phù hợp hơn
Xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế là chuyển dịch theo hướng
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nghĩa là tỷ trọng và
vai trị của ngành cơng nghiệp và dịch vụ có xu hướng
tăng nhanh cịn tỷ trọng của ngành nơng nghiệp có xu
hướng giảm Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy muốn
chuyển từ một nền nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp đều phải trải qua các bước: Chuyển từ nền
kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp
chiếm 40-60%, công nghiệp từ 10-20%, dịch vụ từ 1030%) sang nền kinh tế công, nông nghiệp (tỷ trọng

3


ngành nông nghiệp 15-25%, công nghiệp 25-35%, dịch
vụ 40-50%) để từ đó chuyển sang nền kinh tế cơng
nghiệp phát triển (tỷ trọng ngành nông nghiệp dưới
10%, công nghiệp 35-40%, dịch vụ 50-60%)
1 1 1 3 Những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch
cơ cấu ngành của nền kinh tế
- Sự phát triển các loại thị trường trong nước
và thị trường quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp và
quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh
tế Bởi lẽ, thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều
tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp Mỗi doanh nghiệp đều xuất phát từ quan hệ
cung - cầu trên thị trường để định hướng chiến lược
kinh doanh của minh Sự hình thành và biến đổi nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng
với các điều kiện của thị trường, dẫn tới từng bước
thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đất nước Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng
bộ các loại thị trường trong nước (thị trường hàng
hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động,
thị trường khoa học - cơng nghệ
) có tác động mạnh
đến q trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế
- Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước
là cơ sở hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
một cách bền váng và có hiệu quả Việc xác định các

ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển
phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các
nguồn lực (cả trong và ngồi nước có khả năng khai
thác) để chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các
ngành mà quốc gia có lợi thế và có điều kiện phát
triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả
vào phân cơng lao động quốc tế, ví dụ như tài nguyên
thiên nhiên và điều kiện tự nhiên phong phú và thuận
lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp
du lịch, ngư nghiệp, nông nghiệp
Dân số lao động được xem là nguồn lực quan trọng
cho phát triển kinh tế, sự tác động của nhân tố này
4


lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế được xem xét trên các mặt sau:
+ Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng
tiếp thu khoa học kỹ thuật mới
là cơ sở quan
trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật
cao và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong
các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến
bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất các ngành kinh
tế quốc dân
+ Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của
họ có ảnh hưởng lớn đến quy mơ và cơ cấu của nhu cầu
thị trường Đó là cơ sở để phát triển các ngành công
nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng
- Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá

trình xác định và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Môi
trường thể chế là biểu hiện cụ thể của nháng quan
điểm, ý tưởng và hành vi của Nhà nước can thiệp và
định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát
triển các bộ phận cấu thành của nền kinh tế Vai trị
đó được thể thiện:
+ Nhà nước xây dựng và Quyết định chiến lược và
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất nước
Đó thực chất là q trình định hướng phân bố nguồn
lực và hướng đầu tư theo ngành
+ Bằng hệ thống pháp luật, chính sách
Nhà
nước khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực
để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư (cả trong và
ngoài nước) phát triển sản xuất kinh doanh theo định
hướng Nhà nước đã xác định Ví dụ: để khuyến khích
cơng nghiệp ơ tơ phát triển, trong những năm 1970
nhiều tổ hợp công nghiệp của Hàn Quốc được khuyến
khích phát triển chế tạo ơ tơ và xuất khẩu ô tô Các
tổ hợp này được hưởng chế độ miễn thuế đặc biệt và
trong trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ thì Nhà
nước sẽ bù lỗ

5


- Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ
tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ
phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng

trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, địi hỏi sự
xuất hiện một số ngành cơng nghiệp non trẻ cơng nghệ
tiên tiến như: dầu khí, điện tử
do đó có triển
vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai
Trên đây, chúng ta vừa xem xét một số khái niệm
cơ bản cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Qua đó, giúp cho chúng
ta hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề để từ đó có
thể rút ra những kết luận mang tính giải pháp nhằm
hồn thiện cơ cấu kinh tế hợp lý trong q trình
phát triển
1 1 2 Vai trị của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
quá trình phát triển kinh tế
Cơ cấu kinh tế hợp lý giúp cho việc thu được mức
tăng sản xuất xã hội lớn nhất, mới có thể phân bố
hợp lý lực lượng sản xuất, phát triển các mối quan
hệ đối ngoại, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ
vào sản xuất
Để làm sáng tỏ kết luận trên, ta có thể phân
tích ví dụ sau đây về cơ cấu ngành sản xuất của hệ
thống kinh tế - xã hội cho năm 1976 ở Việt Nam
Bảng 1: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 1976

ĐV: Triệu

6



Ngành sản xuất
Công nghiệp (I)
Nông nghiệp (II)
Các ngành sản xuất
khác (III)

Tiêu dùng sản
xuất
I
II
III

Giá trị
tổng sản
lượng

Sản
lượng
cuối
cùng

3850
X1 =
9180
900
X2 =
1200
7940
0
X3 = 6310


1100
1160
350

1170
250
1160

3060
5630
3600

1940
1290
9180

3550
1780
7940

2200
1530
6310

Năm
1976

Chi phí lao động
Lợi nhuận

Giá trị tổng sản
lượng

Theo tỷ lệ % ta có:
Bảng 2:

I

II

III

Cộng

Giá trị tổng
sản lượng

39 18

33 89

26,93

100

Chi phí lao
động

25 22


56 16

28,62

100

Tổng số vốn đầu tư (trong và ngồi nước) có thể
huy động cho năm sau là 1878 triệu đồng và có thể
phân bố cho các ngành với mức tiếp nhận cùng hiệu
quả thu được như sau:

7


Bảng 3:
Công
nghiệp

Nông
nghiệp

Các ngành
khác

25 %- 38%

25 – 35%

30 – 42%


Hiệu quả (Mức tăng sản
lượng/1 triệu đồng vốn
đầu tư)

20%

25%

22%

Vượt quá mức, hiệu quả


15%

22%

20%

Mức % tiếp nhận

Ta xét 2 phương án phân bố vốn đầu tư như sau:
Bảng 4:

Vốn đầu tư
1878

Công
nghiệp


Nông nghiệp

Các ngành
khác

35%(657,3
)

25%(469,5)

40%(751,2)

131,46

117,38

165,26

9311,46

8057,38

6475,26

Công
nghiệp

Nông nghiệp

Các ngành

khác

40%
(751,2)

20% (375,6)

40% (751,2)

112,68

82,63

150,24

9292,68

8022,63

6460,24

Hiệu quả
Giá trị tổng
sản lượng

Bảng 5
Vốn đầu tư
1878
Hiệu quả
Giá trị tổng sản

lượng

Với 2 phương
được hai phương
(Bảng 6 và bảng
khác nhau - với

án phân bổ vốn đầu tư trên, ta thu
án kế hoạch của năm 1977 như sau:
7 có hiệu quả khác nhau với cơ cấu
ký hiệu: Xi (i = I, II, II) là giá
8


trị tổng sản phẩm của ngành i; CPLĐ: Chi phí lao
động; LN : lợi nhuận; GTTSL : giá trị tổng sản
lượng

9


Bảng 6: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phương án I)

Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản
xuất

X1
X2


Giá trị
tổng
sản
lượng

Tiêu dùng sản xuất
I

II

III

9311
8057,38

3905
913

6475,26

12172

1116,
76
1177,
15
355,1
7

1200,

64
259

3602,
48
1806,
32
8057,
38

2259,
87
1564,
3
6475,
26

X3
CPLĐ
LN

1967,
8
1308,
48
9311,
46

GTTSL


Sản
lượng
cuối
cùng

1191,
45
Năm
1977
Phương
án 1

Bảng 7: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phương án II)

Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản
xuất

X1
X2
X3

10

Giá trị
tổng sản
lượng
9292,6
8022,63
-


Tiêu dùng sản xuất
I

II

III

3897,
3
910,7
0
1214,
6

1111,
13
1172,
11
1214,
6

1195,
14
258,4
1
1188,
68

Sản

lượng
cuối
cùng


CPLĐ
LN
GTTSL

1963,
58
1306,
54
9292,
68

3586,
12
1797,
07
8022,
63

Như vậy, với cùng một mức
(2878 triệu) nếu đầu tư theo tỷ
ngành khác nhau, sẽ dẫn tới kết
khác nhau và hiệu quả thu được
hội khác nhau (Bảng 6,7,8)

11


2254,
62
1563,
39
6460,
24

Năm
1977
Phương
án 2

vốn đầu tư như nhau
lệ khác nhau vào các
cấu chi phí lao động
mức tăng sản phẩm xã


Phương án I

Phương án II

I

II

III

I


II

III

Kết cấu vốn

35%

25%

40%

40%

20%

40%

Kết cấu lao
động

25,13%

46%

28,87
%

25,16

%

45,95%

28,89
%

Mức tăng TSL

+ 414,1 triệu đồng

+ 345,28 triệu đồng

Ta thấy phương án I hơn hẳn phương án II mặc dù số
vốn đầu tư như nhau
Chính vì vai trị cơ cấu kinh tế trong việc phát
triển, cho nên có nhiều tác giả đã nói rằng: thực
chất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là
chiến lược khơng ngừng hồn thiện và chuyển đổi cơ
cấu kinh tế
1 1 3 Lý luận về mối liên hệ giũa chuyển dịch cơ cấu
và quá trình phát triển nền kinh tế
Quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia thường được xem xét như là một quá trình
làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người Mặc dù có
nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng
trưởng nhưng chỉ tiêu trên vẫn được coi trọng và làm
thước đo cho sự phát triển kinh tế Một xu hướng
mang tính quy luật là cùng với sự phát triển của
kinh tế là một quá trình thay đổi về cơ cấu kinh tế,

tức là một sự thay đổi tương đối về mức đóng góp,
tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố
riêng về cấu thành nên toàn bộ kinh tế Một trong
những cơ cấu kinh tế được quan tâm và nghiên cứu
nhiều trong mối liên hệ với quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế là cơ cấu ngành Ngay từ cuối thế
kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E Engle đã phát
hiện ra mối quan hệ giữa phát triển kinh tế (thu
nhập bình quân tăng lên) với chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế

12


Theo E Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng
lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực
phẩm giảm đi Do chức năng chính của khu vực nông
nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể
suy ra là tỷ trọng nơng nghiệp trong tồn bộ nền
kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên
Quy luật E Engle được phát hiện cho sự tiêu dùng
lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng
trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng
các loại sản phẩm khác Các nhà kinh tế gọi lương
thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công
nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung
cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp Qua quá trình
nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi
thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu
dùng lâu bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu

cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu
nhập, tức là tỷ trọng của ngành cơng nghiệp và dịch
vụ trong nền kinh tế đã có sự thay đổi
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E Engle
đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng trong
q trình phát triển
1 2 Cơ cấu ngành kinh tế trong các lý thuyết phát triển

Với tư cách là loại lý thuyết chủ yếu nghiên cứu
các con đường phát triển kinh tế của các nước chậm
phát triển hiện đang tiến hành cơng nghiệp hố, các
lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều
bàn tới một trong những vấn đề cơ bản nhất của cơng
nghiệp hố là chuyển dịch cơ cấu ngành Song do bản
thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia
với những đặc điểm đặc thù khác nhau Do xuất phát
từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau
nên vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong q trình
cơng nghiệp hoá của các loại lý thuyết phát triển
cũng rất khác nhau Có thể thấy điều này qua một số
lý thuyết phát triển chủ yếu sau:

13


1 2 1

Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế


Năm 1960 cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế"
của nhà kinh tế học Mỹ Walt-Rostow đã tạo ra sự quan
tâm lớn về nghiên cứu quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế của các nước Theo W Rostow, nhìn
chung quá trình phát triển kinh tế của một nước có
thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống, chuẩn
bị cất cánh, trưởng thành và mức tiêu dùng cao
* Xã hội truyền thống: Đặc trưng cơ bản của giai
đoạn này là sản xuất nơng nghiệp giá vai trị chủ yếu
trong hoạt động kinh tế Năng suất lao động thấp do
sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học kỹ thuật chưa phát triển mạnh Hoạt động chung của
xã hội kém linh hoạt: sản xuất nơng nghiệp cịn mang
tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá chưa phát
triển
Tuy vậy xã hội truyền thống khơng hồn tồn là
tĩnh tại, mức sản lượng có thể là vẫn tăng liên tục,
do diện tích canh tác được mở rộng, hoặc do áp dụng
những cải tiến trong sản xuất như: xây dựng các hệ
thống thuỷ lợi, áp dụng giống cây trồng mới Song
nhìn chung nền kinh tế khơng có những biến đổi mạnh
Đặc trưng cơ cấu ngành kinh tế là: nông - công
nghiệp và cơng nghiệp cịn rất nhỏ bé, chậm phát
triển
* Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đây được coi là
thời kỳ quá độ giáa xã hội truyền thống và sự cất
cánh Trong giai đoạn này những điều kiện cần thiết
để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện Đó là những biểu
hiện về khoa học - kỹ thuật đã bắt đầu được áp dụng
vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công nghiệp với
những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất

hiện nháng khu vực "đầu tầu" có tác động lơi kéo nền
kinh tế Bắt đầu phát triển các ngành công nghiệp
đòi hỏi phải sử dụng nhiều lao động như các ngành
dệt, may, đồ da, chế biến nông sản và các hàng tiêu
dùng khác
vốn đầu tư ít Giáo dục được mở rộng và
có những cải tiến phù hợp để phù hợp với những yêu
14


cầu mới của sự phát triển Nhu cầu đầu tư tăng lên
đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời
của các tổ chức huy động vốn Tiếp đó giao lưu hàng
hố trong và ngồi nước phát triển đã thúc đẩy sự
hoạt động của ngành giao thông vận tải, thơng tin
liên lạc
Tuy vậy, tính cả các hoạt động này chưa vượt qua
được phạm vi giới hạn của một nền kinh tế với những
đặc trưng của phương thức sản xuất truyền thống,
năng suất thấp Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song
song với các hoạt động kinh tế hiện đại đang phát
triển
* Giai đoạn cất cánh: Đây là giai đoạn mà lực
cản của xã hội truyền thống và các thế lực chống đối
với sự phát triển đã bị đẩy lùi Các lực lượng tạo
ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành
lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong xã hội Trong
giai đoạn này khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào
công nghiệp và nơng nghiệp; cơng nghiệp giá vai trị
“đầu tầu”, có tốc độ tăng trưởng cao, đem lại lợi

nhuận lớn Ngoài ra, ở giai đoạn này hầu hết các
nước đã phát huy các ngành công nghiệp mũi nhọn để
chiếm lĩnh đỉnh cao về khoa học - công nghệ của lĩnh
vực này và tiến hành chuyển giao cho các nước đi
sau Sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong giai đoạn này
đã phát triển đến một trình độ cao hơn Ví dụ, nước
Anh tiến hành cơng nghiệp hố từ cuối thế kỳ XVII
với sự khởi sắc của ngành công nghiệp dệt và đến nay
vẫn là ngành có ưu thế Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Thuỵ
Điển là những nước tiến hành cơng nghiệp hố ở vào
thời kỳ những năm 40-50 của thế kỷ XIX và chiếm giữ
thế mạnh là ngành cơ khí chế tạo ở trên ta mới xét
đến đặc điểm về cơ cấu ngành, ngồi ra ở giai đoạn
này cịn một số đặc điểm về mặt kinh tế - xã hội như:
tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5 đến 10% và cao
hơn trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NNP), ngoài
vốn đầu tư huy động trong nước, vốn đầu tư huy động
từ nước ngồi có ý nghĩa quan trọng

15


* Giai đoạn trưởng thành: Đặc trưng cơ bản của
giai đoạn này là : Tỷ lệ đầu tư đã tăng từ 10 đến
20% thu nhập quốc dân thuần tuý; khoa học - kỹ thuật
được ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh
tế Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện
đại phát
triển; nơng nghiệp được cơ giới hố, đạt được năng
suất lao động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh,

sự phát triển kinh tế trong nước hồ dịng vào thị
trường quốc tế
* Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Trong giai đoạn
này có 2 xu hướng cơ bản về kinh tế Thu nhập bình
quân đầu người tăng nhanh tới mức phần lớn dân cư có
nhu cầu tiêu dùng vượt q địi hỏi cơ bản về ăn,
mặc, ở Thứ hai là cơ cấu lao động thay đổi theo
chiều hướng tăng tỷ lệ dân cư đơ thị và tăng tỷ lệ
lao động có trình độ chun mơn và tay nghề cao Về
mặt xã hội các chính sách kinh tế hướng vào phúc lợi
xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu dùng lâu
bền và các dịch vụ xã hội của nhóm dân cư Xét về cơ
cấu ngành thì tỷ trọng của ngành dịch vụ đang có xu
hướng tăng lên, vượt qua tỷ trọng của ngành công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân Theo lý thuyết
phân kỳ phát triển của W Rostow thì hầu hết các nước
đang phát triển đang tiến hành cơng nghiệp hố hiện
nay nằm ở khoảng giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ
phát triển của từng nước Ngoài những dấu hiệu kinh
tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu phải bắt đầu hình
thành một số ngành cơng nghiệp chế biến có khả năng
lơi kéo tồn bộ nền kinh tế tăng trưởng Đồng thời
cùng với sự chuyển tiếp từ giai 2 sang 3 là sự thay
đổi của những lĩnh vực đóng vai trị “đầu tầu” Nghĩa
là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu
tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai
trị đó qua mỗi giai đoạn cụ thể
1 2 2

Lý thuyết nhị nguyên:


A Lewis là nhà kinh tế gốc Jamaica, năm 1955
trong tác phẩm "Lý thuyết về phát triển kinh tế" ơng
đưa ra cách giải thích hiện đại về mối quan hệ giáa
16


hai khu vực: Công nghiệp và nông nghiệp Lewis đã
được giải thưởng Nơbel về kinh tế năm 1979 Ơng xuất
phát từ tư tưởng của Ricardo, lưu ý đến mối quan hệ
giáa công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải
quyết lao động dư thừa ở nơng thơn Ơng đưa ra khả
năng mở rộng khu vực công nghiệp bằng cách sử dụng
nguồn lao động nơng thơn khơng hạn chế Mơ hình này
đã được hai nhà kinh tế học là John Fei và Gustar
Rairis áp dụng vào phân tích q trình tăng trưởng ở
các nước đang phát triển
Lý thuyết nhị nghuyên cho rằng ở các nền kinh tế
có 2 khu vực kinh tế song song tồn tại: Khu vực kinh
tế truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và
khu vực kinh tế hiện đại (cơng nghiệp ) du nhập từ
bên ngồi Khu vực truyền thống có đặc điểm là trí
trệ năng suất lao động thấp và dư thừa lao động
Ngoài ra, trong sản xuất nơng nghiệp có hiện tượng
lợi nhuận giảm dần Theo ông, với các mức tăng cho
trước ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục nhỏ
hơn ở đầu ra Vì thế, có thể chuyển một phần lao
động từ khu vực này sang công nghiệp hiện đại mà
không làm ảnh hưởng gì tới sản lượng nơng nghiệp Do
có năng suất cao nên khu vực cơng nghiệp hiện đại có

thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một các độc lập
mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của
toàn bộ nền kinh tế
Kết luận đương nhiên rút ra từ nháng nhận định
này là để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của những
nước chậm phát triển cần phải bằng mọi cách mở rộng
khu vực sản xuất công nghệ hiện đại càng nhanh càng
tốt mà không cần quan tâm tới khu vực nông nghiệp
truyền thống Sự gia tăng của khu vực cơng nghiệp
hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông
nghiệp sang và biến nền sản xuất xã hội từ trạng
thái nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp
phát triển Như vậy, theo lý thuyết nhị nguyên,
trong quá trình phát triển các nước chỉ nên chú
trọng vào phát triển ngành công nghiệp và công
nghiệp sẽ chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế
17


Phải nói rằng, những kết luận của lý thuyết nhị
nguyên đã gây ra được ấn tượng mạnh mẽ đối với các
quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế giới
lần thứ II đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu
ảnh hưởng của lý thuyết này
Lý thuyết nhị nguyên còn được nhiều nhà kinh tế
(J Fei, G Rainis, Harris, Todaro
) tiếp tục nghiên
cứu và phân tích luận điểm xuất phát của họ là khả
năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công
nghiệp hiện đại, khu vực này có nhiều khả năng lựa

chọn kỹ thuật trong đó có nháng loại kỹ thuật có hệ
số sử dụng lao động cao, nên về nguyên tắc có thể
thu hút được lao động từ khu vực nông nghiệp truyền
thống Nhưng việc di chuyển lao động được giả định
là do sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động từ
2 khu vực kinh tế trên quyết định Có nghĩa là, khu
vực cơng nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút được lao
động từ khu vực nông nghiệp trong trường hợp khi nó
có mức lương cao hơn so với khu vực nơng nghiệp
(người lao động sẽ được mức lương cao hơn mức thu
nhập khi họ cịn ở nơng thơn) Nhưng khả năng duy trì
sự chênh lệch này sẽ cạn dần cho tới khi nguồn lao
động dư thừa từ nơng nghiệp khơng cịn náa Đến lúc
đó, việc tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp
sang công nghiệp sẽ làm cho sản lượng nông nghiệp
giảm đi, khiến cho giá cả hàng nông phẩm tiêu dùng
tăng lên kéo theo mức tăng lương tương ứng trong khu
vực sản xuất cơng nghiệp Chính sự tăng lương của
khu vực công nghiệp sẽ đặt ra giới hạn về mức cầu
tăng thêm về lao động của bản thân nó Như vậy, mặc
dù về mặt kỹ thuật, công nghệ, khu vực cơng nghiệp
hiện đại có thể có khả năng thuế mướn không hạn chế
nhân lực, nhưng về mặt thu nhập và độ co dãn cung
cầu nhân lực của 2 khu vực thì sức thu nạp lao động
từ nơng nghiệp của cơng nghiệp là có giới hạn
Một hướng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị
nguyên là phân tích khả năng di chuyển lao động từ
nông thôn ra khu vực công nghiệp thành thị Q
trình chuyển dịch lao động chỉ trơi chảy khi "tổng
18



cung" về lao động từ nông nghiệp phù hợp với "tổng
cầu" ở khu vực công nghệp Sự di chuyển này không
chỉ phụ thuộc vào mức chênh lệch về thu nhập mà cịn
phụ thuộc vào "xác suất" tìm được việc làm đối với
những người lao động nông nghiệp Khi đưa thêm yếu
tố "xác suất tìm được việc làm" vào phân tích, người
ta thấy xuất hiện những tình huống làm yếu đi khả
năng di chuyển lao động giáa 2 khu vực như sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp:
Về mặt này, so với nền công nghiệp ở các nước phát
triển thì khu vực được gọi là "cơng nghiệp hiện đại"
ở các nước chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều Vì
vậy, để vừa có thể tăng cường khả năng cạnh tranh
với các nền cơng nghiệp nước ngồi, vừa làm "đầu
tầu" lơi kéo sự tăng trưởng của tồn bộ nền kinh tế
thì khu vực cơng nghiệp hướng tới những ngành kỹ
thuật cao Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng
vốn đầu tư hơn là cần tăng hàm lượng lao động vì
thế, khu vực "cơng nghiệp hiện đại" ở các nước chậm
phát triển cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề dư thừa
lao động chứ khơng riêng gì ở khu vực nông nghiệp
- Khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của người
lao động nông nghiệp khi chuyển sang lĩnh vực công
nghiệp Về mặt này, một thực tế là người lao động
nơng thơn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với
lao động thành thị và thậm chí chưa quên với môi
trường lao động công nghiệp Việc đào tạo lao động
cơng nghiệp kỹ năng cao chẳng những địi hỏi nhiều

thời gian mà cịn phải có đầu tư lớn, đến mức người
ta xem như một trong những lĩnh vực đầu tư quan
trọng nhất đối với 1 nền kinh tế Với những phân
tích trên, người ta thấy rằng xác suất tìm được việc
làm mới ở khu vực công nghiệp đối với người nơng dân
dời bỏ ruộng đồng là có giới hạn
Tóm lại, khi phân tích sự
chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của 2 lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng
nhất của nền kinh tế chậm phát
triển trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ

19


chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào phát triển công
nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra
những giới hạn của chúng và vì thế cần quan tâm
thích đáng tới nơng nghiệp trong q trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phát triển
1 2 3

Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành

Những người ủng hộ quan điểm này như R Murkse,
P Rosentein -Rodan
cho rằng để nhanh chóng cơng
nghiệp hố cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều ở tất
cả các ngành kinh tế quốc dân Họ chủ yếu dựa trên

những luận cứ sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành
kinh tế liên quan mật thiết với nhau trong chu trình
"đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia
Vì thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là
địi hỏi sự cân bằng cung, cầu trong sản xuất
- Sự phát triển cân đối giáa các ngành như vậy
còn giúp tránh được ảnh hưởng tiêu cực của nháng
biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức độ
phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm ngoại
tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt
- Một nền
chỉnh như vậy
độc lập chính
chống lại chủ

kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hồn
chính là nền tảng váng chắc đảm bảo sự
trị của các nước thuộc thế giới thứ ba
nghĩa thực dân

Tuy nhiên, trong sự
phát triển ln
có cạnh
tranh giữa các nước về các sản phẩm, hàng hố Do
đó, để phát triển được các ngành kinh tế nội địa,
Nhà nước cần có nháng chính sách bảo hộ, cụ thể là:
+
hàng
nhằm

cạnh

Chính sách bảo hộ mậu dịch: Nhà nước thực hiện
rào thuế quan cao và chế độ hạn ngạch nhâp khẩu
hạn chế các loại hàng nhập khẩu và nâng sức
tranh về giá của các mặt hàng nội địa

+ Chính sách tỷ giá hối đối: Để khuyến khích
sản xuất và tiêu dùng hàng hố nội địa, các Chính
phủ thường duy trì chế độ tỷ giá hối đối theo hướng
20


nâng cao trị giá đồng tiền bản điạ nhằm làm yếu khả
năng cạnh tranh của hàng ngoại trên thị trường nội
địa
Như vậy, theo lý thuyết này, để phát triển cần
xây dựng một nền kinh tế đa ngành và hạn chế giao
lưu, trao đổi với bên ngồi, hay nói cách khác đó là
nền kinh tế "tự cung, tự cấp" Với những chính sách
trên, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo mơ
hình này đã đạt được mức tăng trưởng tương đối cao
trong giai đoạn đầu Mặc dù về thực chất, sự tăng
trưởng này chủ yếu bắt nguồn từ điểm xuất phát thấp,
khiến cho một mức gia tăng nhỏ về số lượng tuyệt đối
cũng đẩy chỉ số tương đối lên rất cao, song nó cũng
tạo ra sự thay đổi về cơ cấu kinh tế nhất định, làm
thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia
vốn trước đây là xứ thuộc địa Đáng tiếc rằng, tốc
độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mơ

hình này đã khơng thể tiếp tục duy trì lâu hơn Các
nước khác nhau tuỳ vào những điều kiện cụ thể của
mình mà lần lượt rời bỏ mơ hình trước những giới hạn
không sao vượt qua được Các nhà kinh tế học đã tổng
kết các lý do cơ bản của tình hình này là:
+ Mơ hình này tự nó giả định phát triển đồng
thời tất cả (hay ít nhất cũng là hầu hết) các ngành
kinh tế quốc dân Yêu cầu này không thể đáp ứng được
bởi các nền kinh tế kém phát triển do bị quá tải về
vốn đầu tư, khả năng công nghệ kỹ thuật và quản lý
+ Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối,
hoàn chỉnh đã đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín và
tách biệt với thế giới bên ngoài Điều này chẳng
những ngược với xu hướng chung của tất thảy mọi nền
kinh tế trong điều kiện hiện đại là khu vực hố và
tồn cầu hố Kinh nghiệm thế giới và lý thuyết hệ
thống đã chỉ ra rằng: Sự phát triển của một quốc gia
do động lực bên trong quốc gia đó là chính , tuy
nhiên có sự tận dụng các lợi thế từ mơi trường bên
ngoài

21


Cả hai yếu tố
trên đều góp phần làm cho sự
chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng cơng nghiệp hố
gặp khó khăn bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân
tán các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia
khiến cho ngay cả việc sửa cháa hậu quả cơ cấu kinh

tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở
ngại Chính vì thế, chỉ sau 1 thời kỳ tăng trưởng,
các nền kinh tế theo đuổi mơ hình cơ cấu cân đối này
đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiếu năng
(maldevelopment)
1 2 4 Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không
cân đối hay "các cực tăng trưởng"
Ngược lại với quan điểm phát triển nền kinh tế
theo một cơ cấu cân đối, khép kín nêu trên, lý
thuyết phát triển cơ
cấu ngành không cân
đối
(A hirschman, F Perrons, G Destanne deBernis) cho
rằng không thể và không nhất thiết phải bảo đảm tăng
trưởng bền váng bằng cách duy trì cơ cấu cân đối
liên ngành đối với mọi quốc gia, bởi nháng luận cứ
chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên
áp lực, tạo ra sự kích thích đầu tư Trong mối tương
quan giáa các ngành nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt
tiêu động lực khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực
sản xuất Do đó, nếu có những dự án đầu tư lớn hơn
vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu tư sẽ xuất hiện
bởi cầu lớn hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn
hơn cầu ở một số lĩnh vực Chính những dự án đó có
tác dụng lơi kéo đầu tư theo kiểu lý thuyết số nhân
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ
cơng nghiệp hố, vai trị "cực tăng trưởng" của các
ngành trong nền kinh tế là khơng giống nhau Vì thế
cần tập trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh

vực trong 1 thời điểm nhất định
- Do trong thời kỳ đầu tiến hành cơng nghiệp hố
các nước đang phát triển rất thiếu vốn, lao động, kỹ
thuật, công nghệ và thị trường nên không đủ điều
22


kiện để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các
ngành hiện đại Vì thế, việc phát triển cơ cấu không
cân đối là một sự lựa chọn bắt buộc Lý thuyết này
là cơ sở để hình thành lên mơ hình cơng nghiệp hố
hướng về xuất khẩu Về mặt lý thuyết, mơ hình này
dựa trên nháng xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế
dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và
lựa chọn một cơ cấu kinh tế khơng cân đối để hình
thành các cực tăng trưởng dựa trên những lợi thế so
sánh trong quan hệ ngoại thương Các tiếp cận cơ cấu
kinh tế trong mô hình cơng nghiệp hố này có một số
đặc trưng là:
+ Q trình cơng nghiệp hố được bắt đầu từ việc
tập trung khai thác các thế mạnh của nền kinh tế,
tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh
trên thị trường thế giới Thông thường, đối với các
nước chậm phát triển, nháng thế mạnh khả dĩ là nguồn
lao động dồi dào, giá rẻ, tài ngun khống sản và
nơng sản Ví dụ, như NICs thì hướng sự phát triển
vào những ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều
lao động như : dệt, may, chế biến thực phẩm, điện tử
dân dụng Trong khi đó một số nước khác như Malaysia
và Thái Lan lại khởi đầu với những sản phẩm nông

nghiệp và khai thác khống sản
+ Tồn bộ
hệ thống chính sách chủ
yếu nhằm
khuyến khích xuất khẩu, tức là đảm bảo cho các nhà
sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra
nước ngồi Cụ thể là:
Nhà nước trực tiếp tác động
danh mục các mặt hàng ưu tiên,
thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp
hàng hoá phục vụ sản xuất hàng

bằng cách đưa ra
được giảm hoặc miễn
trợ cấp cho các loại
xuát khẩu

Nhà nước gián tiếp can thiệp qua các cơng cụ tài
chính, tiền tệ, tạo lập môi trường thuận lợi cho
hoạt động sản xuất hướng ra thị trường thế giới Ví
dụ như: đánh tụt giá đồng tiền nội địa cung cấp tín
dụng với lãi suất ưu đãi cho sản xuất xuất khẩu
khuyến khích đầu tư ngước ngồi
23


Lúc đầu, lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm
vì nó xây dựng một nền kinh tế hướng ngoại và phụ
thuộc vào bên ngoài (các nền kinh tế khác) mà thường
thì các nước có nền kinh tế chậm phát triển gặp phải

nhiều bất lợi hơn Nhưng về sau do kết quả tăng
trưởng kinh tế "thần kỳ" của một nhóm nước thực hiện
chính sách này như: NICs, Malay sia, Thái Lan
nên
xu hướng này đã được nhiềù nước áp dụng Tuy nhiên,
các nhà kinh tế học cũng đưa ra hai loại vấn đề cần
lưu ý khi áp dụng lý thuyết này;
Thứ nhất, một số yếu điểm của chính sách thúc
đẩy cơng nghiệp hoá hướng ngoại như sự phụ thuộc quá
mức vào biến động của thị trường thế giới, tiêu biểu
là cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua đã
làm cho nhiều nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tăng
trưởng kinh tế cũng như về mặt xã hội
Thứ hai, không chắc mơi trường kinh tế quốc tế
cịn thuận lợi cho việc thực thi chính sách hướng về
xuất khẩu vì lợi thế so sánh không tồn tại mãi mãi
1 2 5
bay"

Lý thuyết phát triển theo mơ hình "đàn nhạn

Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh
tế của các quốc gia và dựa trên lý thuyết lợi thế so
sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế Người khởi xướng
lý thuyết này, giáo sư Kaname Akamatsu đã đưa ra
nháng kiến giải về quá trình "đuổi kịp" các nước
tiên tiến nhất của các nước kém phát triển hơn
Trong những ý tưởng về sự đuổi kịp này, vấn đề cơ
cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng Xét trên
góc độ phát triển của tồn bộ nền cơng nghiệp, từng

phân ngành hay thậm chí từng loại sản phẩm riêng
biệt Q trình "đuổi kịp" về mặt kinh tế và kỹ
thuật của chúng được chia thành 4 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Các nước kém phát triển nhập hàng
công nghiệp chế biến từ các nước phát triển hơn và
xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt Tức là,
các nước kém phát triển đã có sự chun mơn hố sản
24


xuất 1 số loại hàng thủ công đặc biệt để xuất khẩu
sang các nước phát triển
* Giai đoạn 2: Các nước chậm phát triển nhập sản
phẩm đầu tư từ các nước cơng nghiệp để chế tạo lấy
hàng hố cơng nghiệp tiêu dùng trước đây vẫn phải
nhập Đây là giai đoạn các nước kém phát triển bắt
đầu tích luỹ tư bản (vốn) và phỏng theo (bắt chước)
công nghệ chế tạo từ các nước cơng nghiệp phát
triển Vì thế những ngành cơng nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng thay thế nhập khẩu phát triển mạnh trong
giai đoạn này Song những điều chỉnh cơ cấu kinh tế
vĩ mô lại được giành ưu tiên cho các ngành công
nghiệp trợ giúp (kết cấu hạ tầng kinh tế) cho nháng
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển
như điện nước và giao thông vận tải
* Giai đoạn 3: Là giai đoạn mà sản phẩm công
nghiệp thay thế ở giai đoạn 2 đã có thể trở thành
sản phẩm xuất khẩu Những sản phẩm đầu tư trước đây
phải nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng
nguồn khai thác và sản xuất ở trong nước Như vậy,

về khoảng cách kỹ thuật giáa các nước đi sau với các
nước công nghiệp phát triển (trước hết là trong lĩnh
vực hàng tiêu dùng) khơng cịn xa cách bao nhiêu
* Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng
công nghiệp tiêu dùng bắt đầu giảm xuống, nhường chỗ
cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu tư vốn đã
bắt đầu phát triển ở giai đoạn 3 Về mặt kỹ thuật,
nền công nghiệp đã đạt mức ngang bằng với các nước
công nghiệp phát triển và chuyển giao một số ngành
sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng sang các nước
kém phát triển hơn
Như vậy, quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của mơ hình "đàn nhạn bay" có nhiều điểm tương đồng
với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành "không cân
đối" Ngoài ra, điều cần lưu ý náa là việc "đuổi
kịp" các nước công nghiệp phát triển diễn ra nhanh
hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa

25


×