Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nền kinh tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.94 KB, 40 trang )

Lời nói đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đờng lối,
chiến lợc phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá
trình phát triển kinh tế của một đất nớc. Trong đó, việc xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ
năm 1990 cơ cấu kinh tế nớc ta đã có sự chuyển dịch theo hớng tích cực phù
hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã
góp phần tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới
chỉ là bớc đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, n-
ớc ta vẫn là nớc nông nghiệp, dân c sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp
vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt đợc mục tiêu đến năm 2020: "Đa nớc ta cơ bản
trở thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dới 10%, công
nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP". Mà Đại hội VIII đã
đề ra thì còn nhiều vấn đề phải đợc tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thực.
Với lý do đó, em chọn đề tài: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong
quá trình phát triển ở Việt Nam". Đề tài này đợc hoàn thành dới sự hớng dẫn
của T.S và sự giúp đỡ của các giảng viên trong Khoa khoa học quản lý. Do
trình độ và thời gian có hạn, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận đợc ý kiến đóng góp của các thầy, cô trong Khoa để bài viết sau đợc
hoàn chỉnh hơn.


Ch ơng 1
Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch
cơ cấu ngành trong nền kinh tế

1.1 Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.


1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1.1 Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tơng quan tỷ lệ
biểu hiện mối liên hệ giáa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội
chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, thay đổi
mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trng của các nớc đang phát triển. Khi phân
tích cơ cấu ngành của một quốc gia ngời ta phân tích theo 3 nhóm ngành chính:
nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ng nghiệp), công nghiệp (bao
gồm công nghiệp và xây dựng), dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại nh:
thơng mại, bu điện, du lịch...).
Việc phân tích cơ cấu ngành của nền kinh tế không chỉ dừng lại ở những
biểu hiện về mặt lợng (số lợng ngành, tỷ trọng) mà quan trọng hơn là phân tích
đợc mặt chất của cơ cấu: vị trí, vai trò của ngành hiện tại trong nền kinh tế, sự t-
ơng tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển, khả năng hớng ngoại,
quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu theo thành phần kinh
tế...
Mặt khác, cơ cấu ngành "luôn luôn vận động, phát triển", nhất là trong
điều kiện cơ chế thị trờng. Bởi vậy, khi phân tích cơ cấu ngành cần thấy rõ tính
quy luật của sự vận động và luôn đặt ra phơng hớng chuyển dịch cơ cấu ngành
cho thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
1.1.1.2 Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có
định hớng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng
với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ
trạng thái này sang trạng thái khác hợp lý và hiệu quả hơn. Đây không phải đơn
2
thuần là sự thay đổi vị trí, tỷ trọng và quan hệ giữa các ngành mà là sự biến đổi
cả về lợng và chất trong nội bộ cơ cấu.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có, do đó

nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc cha phù hợp
để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ
cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Xu hớng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
là chuyển dịch theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nghĩa là tỷ trọng và vai
trò của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hớng tăng nhanh còn tỷ trọng của
ngành nông nghiệp có xu hớng giảm. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy muốn
chuyển từ một nền nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua
các bớc: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm
40-60%, công nghiệp từ 10-20%, dịch vụ từ 10-30%) sang nền kinh tế công,
nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp 15-25%, công nghiệp 25-35%, dịch
vụ 40-50%) để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển (tỷ trọng
ngành nông nghiệp dới 10%, công nghiệp 35-40%, dịch vụ 50-60%).
1.1.1.3 Những yếu tố ảnh hởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của nền
kinh tế.
- Sự phát triển các loại thị trờng trong nớc và thị trờng quốc tế có ảnh hởng
trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh tế. Bởi lẽ, thị tr-
ờng là yếu tố hớng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều xuất phát từ quan hệ cung - cầu trên thị tr-
ờng để định hớng chiến lợc kinh doanh của minh. Sự hình thành và biến đổi
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với các điều kiện
của thị trờng, dẫn tới từng bớc thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đất nớc. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trờng
trong nớc (thị trờng hàng hoá dịch vụ, thị trờng vốn, thị trờng lao động, thị tr-
ờng khoa học - công nghệ...) có tác động mạnh đến quá trình hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nớc là cơ sở hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền váng và có hiệu quả. Việc xác định
các ngành mũi nhọn, các ngành cần u tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác
định lợi thế so sánh và các nguồn lực (cả trong và ngoài nớc có khả năng khai

thác) để chuyển hớng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà quốc gia có lợi
thế và có điều kiện phát triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào
phân công lao động quốc tế, ví dụ nh tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự
nhiên phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp du
lịch, ng nghiệp, nông nghiệp...
3
Dân số lao động đợc xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế,
sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đợc xem xét trên các mặt sau:
+ Kết cấu dân c và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật
mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là nhân
tố thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất các ngành kinh tế quốc
dân.
+ Quy mô dân số, kết cấu dân c và thu nhập của họ có ảnh hởng lớn đến
quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trờng. Đó là cơ sở để phát triển các ngành
công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
- Môi trờng thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Môi trờng thể chế là biểu hiện cụ thể của nháng quan điểm, ý t-
ởng và hành vi của Nhà nớc can thiệp và định hớng sự phát triển tổng thể cũng
nh sự phát triển các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Vai trò đó đợc thể thiện:
+ Nhà nớc xây dựng và Quyết định chiến lợc và kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất nớc. Đó
thực chất là quá trình định hớng phân bố nguồn lực và hớng đầu t theo ngành.
+ Bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nớc khuyến khích hay hạn
chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, các nhà đầu t (cả trong và ngoài
nớc) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hớng Nhà nớc đã xác định. Ví dụ:
để khuyến khích công nghiệp ô tô phát triển, trong những năm 1970 nhiều tổ
hợp công nghiệp của Hàn Quốc đợc khuyến khích phát triển chế tạo ô tô và
xuất khẩu ô tô. Các tổ hợp này đợc hởng chế độ miễn thuế đặc biệt và trong tr-

ờng hợp doanh nghiệp bị thua lỗ thì Nhà nớc sẽ bù lỗ.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng
sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của
chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo ra
những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ
công nghệ tiên tiến nh: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển mạnh
mẽ trong tơng lai.
Trên đây, chúng ta vừa xem xét một số khái niệm cơ bản cũng nh các nhân
tố ảnh hởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Qua đó, giúp cho chúng
ta hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề để từ đó có thể rút ra những kết luận mang
tính giải pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình phát triển.
4
1.1.2 Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển
kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý giúp cho việc thu đợc mức tăng sản xuất xã hội lớn
nhất, mới có thể phân bố hợp lý lực lợng sản xuất, phát triển các mối quan hệ
đối ngoại, đa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Để làm sáng tỏ kết luận trên, ta có thể phân tích ví dụ sau đây về cơ cấu
ngành sản xuất của hệ thống kinh tế - xã hội cho năm 1976 ở Việt Nam.
Bảng 1: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 1976
ĐV: Triệu
Ngành sản xuất
Giá trị tổng
sản lợng
Tiêu dùng sản xuất
I II III
Sản lợng
cuối cùng
Công nghiệp (I)
Nông nghiệp (II)

Các ngành sản xuất khác (III)
X
1
= 9180
X
2
= 7940
X
3
= 6310
3850
900
12000
1100
1160
350
1170
250
1160
3060
5630
3600
Chi phí lao động
Lợi nhuận
Giá trị tổng sản lợng
1940
1290
9180
3550
1780

7940
2200
1530
6310
Năm
1976
Theo tỷ lệ % ta có:
Bảng 2:
I II III Cộng
Giá trị tổng sản lợng 39.18 33.89 26,93 100
Chi phí lao động 25.22 56.16 28,62 100
Tổng số vốn đầu t (trong và ngoài nớc) có thể huy động cho năm sau là
1878 triệu đồng và có thể phân bố cho các ngành với mức tiếp nhận cùng hiệu
quả thu đợc nh sau:
5
Bảng 3:
Công nghiệp Nông nghiệp Các ngành khác
Mức % tiếp nhận
Hiệu quả (Mức tăng sản lợng/1
triệu đồng vốn đầu t)
25 %- 38%
20%
25 35%
25%
30 42%
22%
Vợt quá mức, hiệu quả là 15% 22% 20%
Ta xét 2 phơng án phân bố vốn đầu t nh sau:
Bảng 4:
Vốn đầu t Công nghiệp Nông nghiệp Các ngành khác

1878 35%(657,3) 25%(469,5) 40%(751,2)
Hiệu quả 131,46 117,38 165,26
Giá trị tổng sản lợng 9311,46 8057,38 6475,26
Bảng 5
Vốn đầu t Công nghiệp Nông nghiệp Các ngành khác
1878 40% (751,2) 20% (375,6) 40% (751,2)
Hiệu quả 112,68 82,63 150,24
Giá trị tổng sản lợng 9292,68 8022,63 6460,24
Với 2 phơng án phân bổ vốn đầu t trên, ta thu đợc hai phơng án kế hoạch
của năm 1977 nh sau: (Bảng 6 và bảng 7 có hiệu quả khác nhau với cơ cấu khác
nhau - với ký hiệu: Xi (i = I, II, II) là giá trị tổng sản phẩm của ngành i; CPLĐ:
Chi phí lao động; LN : lợi nhuận; GTTSL : giá trị tổng sản lợng.
6
Bảng 6: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phơng án I)
Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản xuất
Giá trị
tổng sản l-
ợng
Tiêu dùng sản xuất
I II III
Sản lợng
cuối cùng
X
1
X
2
X
3
9311

8057,38
6475,26
3905
913
12172
1116,76
1177,15
355,17
1200,64
259
1191,45
CPLĐ
LN
GTTSL
1967,8
1308,48
9311,46
3602,48
1806,32
8057,38
2259,87
1564,3
6475,26
Năm 1977
Phơng
án 1
Bảng 7: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phơng án II)
Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản
xuất

Giá trị tổng
sản lợng
Tiêu dùng sản xuất
I II III
Sản lợng
cuối cùng
X
1
X
2
X
3
9292,6
8022,63
-
3897,3
910,70
1214,6
1111,13
1172,11
1214,6
1195,14
258,41
1188,68
CPLĐ
LN
GTTSL
1963,58
1306,54
9292,68

3586,12
1797,07
8022,63
2254,62
1563,39
6460,24
Năm 1977
Phơng
án 2
Nh vậy, với cùng một mức vốn đầu t nh nhau (2878 triệu) nếu đầu t theo tỷ
lệ khác nhau vào các ngành khác nhau, sẽ dẫn tới kết cấu chi phí lao động khác
nhau và hiệu quả thu đợc mức tăng sản phẩm xã hội khác nhau (Bảng 6,7,8)
7
Phơng án I Phơng án II
I II III I II III
Kết cấu vốn 35% 25% 40% 40% 20% 40%
Kết cấu lao động 25,13% 46% 28,87% 25,16% 45,95% 28,89%
Mức tăng TSL + 414,1 triệu đồng + 345,28 triệu đồng
Ta thấy phơng án I hơn hẳn phơng án II mặc dù số vốn đầu t nh nhau.
Chính vì vai trò cơ cấu kinh tế trong việc phát triển, cho nên có nhiều tác
giả đã nói rằng: thực chất của chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội là chiến lợc
không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
1.1.3 Lý luận về mối liên hệ giũa chuyển dịch cơ cấu và quá trình phát
triển nền kinh tế.
Quá trình phát triển tăng trởng kinh tế của một quốc gia thờng đợc xem
xét nh là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu ngời. Mặc dù có
nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trởng nhng chỉ tiêu trên
vẫn đợc coi trọng và làm thớc đo cho sự phát triển kinh tế. Một xu hớng mang
tính quy luật là cùng với sự phát triển của kinh tế là một quá trình thay đổi về cơ
cấu kinh tế, tức là một sự thay đổi tơng đối về mức đóng góp, tốc độ phát triển

của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành nên toàn bộ kinh tế. Một
trong những cơ cấu kinh tế đợc quan tâm và nghiên cứu nhiều trong mối liên hệ
với quá trình tăng trởng và phát triển kinh tế là cơ cấu ngành. Ngay từ cuối thế
kỷ 19, nhà kinh tế học ngời Đức E.Engle đã phát hiện ra mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế (thu nhập bình quân tăng lên) với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế.
Theo E.Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của
họ cho lơng thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông
nghiệp là sản xuất lơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông
nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật E.Engle đợc phát hiện cho sự tiêu dùng lơng thực, thực phẩm nh-
ng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hớng cho việc nghiên cứu tiêu dùng
các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lơng thực, thực phẩm là các sản
phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung
cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra
xu hớng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu
bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh
8
hơn tốc độ tăng thu nhập, tức là tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ
trong nền kinh tế đã có sự thay đổi
Nh vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engle đã làm rõ tính xu hớng
của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng trong
quá trình phát triển.
1.2 Cơ cấu ngành kinh tế trong các lý thuyết phát triển.
Với t cách là loại lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đờng phát triển
kinh tế của các nớc chậm phát triển hiện đang tiến hành công nghiệp hoá, các lý
thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong những vấn đề cơ
bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song do bản thân
thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với những đặc điểm đặc thù
khác nhau. Do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau

nên vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá của các
loại lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy điều này qua một số lý
thuyết phát triển chủ yếu sau:
1.2.1. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế.
Năm 1960 cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" của nhà kinh tế học Mỹ
Walt-Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu quá trình tăng trởng và
phát triển kinh tế của các nớc. Theo W.Rostow, nhìn chung quá trình phát triển
kinh tế của một nớc có thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống, chuẩn bị
cất cánh, trởng thành và mức tiêu dùng cao.
* Xã hội truyền thống: Đặc trng cơ bản của giai đoạn này là sản xuất
nông nghiệp giá vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng suất lao động
thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật cha phát
triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt: sản xuất nông nghiệp
còn mang tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá cha phát triển.
Tuy vậy xã hội truyền thống không hoàn toàn là tĩnh tại, mức sản lợng có
thể là vẫn tăng liên tục, do diện tích canh tác đợc mở rộng, hoặc do áp dụng
những cải tiến trong sản xuất nh: xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, áp dụng giống
cây trồng mới. Song nhìn chung nền kinh tế không có những biến đổi mạnh.
Đặc trng cơ cấu ngành kinh tế là: nông - công nghiệp và công nghiệp còn rất
nhỏ bé, chậm phát triển.
* Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đây đợc coi là thời kỳ quá độ giáa xã hội
truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này những điều kiện cần thiết để
cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Đó là những biểu hiện về khoa học - kỹ thuật đã
bắt đầu đợc áp dụng vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công nghiệp với
những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất hiện nháng khu vực "đầu tầu"
9
có tác động lôi kéo nền kinh tế. Bắt đầu phát triển các ngành công nghiệp đòi
hỏi phải sử dụng nhiều lao động nh các ngành dệt, may, đồ da, chế biến nông
sản và các hàng tiêu dùng khác... vốn đầu t ít. Giáo dục đợc mở rộng và có
những cải tiến phù hợp để phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển.

Nhu cầu đầu t tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của
các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lu hàng hoá trong và ngoài nớc phát
triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Tuy vậy, tính cả các hoạt động này cha vợt qua đợc phạm vi giới hạn của
một nền kinh tế với những đặc trng của phơng thức sản xuất truyền thống, năng
suất thấp. Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song song với các hoạt động kinh tế
hiện đại đang phát triển.
* Giai đoạn cất cánh: Đây là giai đoạn mà lực cản của xã hội truyền
thống và các thế lực chống đối với sự phát triển đã bị đẩy lùi. Các lực lợng tạo
ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lợng chiếm tỷ trọng lớn
trong xã hội. Trong giai đoạn này khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào công
nghiệp và nông nghiệp; công nghiệp giá vai trò đầu tầu, có tốc độ tăng trởng
cao, đem lại lợi nhuận lớn. Ngoài ra, ở giai đoạn này hầu hết các nớc đã phát
huy các ngành công nghiệp mũi nhọn để chiếm lĩnh đỉnh cao về khoa học -
công nghệ của lĩnh vực này và tiến hành chuyển giao cho các nớc đi sau. Sự
chuyển dịch cơ cấu ngành trong giai đoạn này đã phát triển đến một trình độ
cao hơn. Ví dụ, nớc Anh tiến hành công nghiệp hoá từ cuối thế kỳ XVII với sự
khởi sắc của ngành công nghiệp dệt và đến nay vẫn là ngành có u thế. Đức, Hoa
Kỳ, Bỉ, Pháp, Thuỵ Điển là những nớc tiến hành công nghiệp hoá ở vào thời kỳ
những năm 40-50 của thế kỷ XIX và chiếm giữ thế mạnh là ngành cơ khí chế
tạo. ở trên ta mới xét đến đặc điểm về cơ cấu ngành, ngoài ra ở giai đoạn này
còn một số đặc điểm về mặt kinh tế - xã hội nh: tỷ lệ tiết kiệm và đầu t tăng từ 5
đến 10% và cao hơn trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NNP), ngoài vốn đầu t
huy động trong nớc, vốn đầu t huy động từ nớc ngoài có ý nghĩa quan trọng.
* Giai đoạn trởng thành: Đặc trng cơ bản của giai đoạn này là : Tỷ lệ đầu
t đã tăng từ 10 đến 20% thu nhập quốc dân thuần tuý; khoa học - kỹ thuật đợc
ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp
mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp đợc cơ giới hoá, đạt đợc năng suất lao
động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nớc
hoà dòng vào thị trờng quốc tế.

* Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Trong giai đoạn này có 2 xu hớng cơ bản
về kinh tế. Thu nhập bình quân đầu ngời tăng nhanh tới mức phần lớn dân c có
nhu cầu tiêu dùng vợt quá đòi hỏi cơ bản về ăn, mặc, ở. Thứ hai là cơ cấu lao
động thay đổi theo chiều hớng tăng tỷ lệ dân c đô thị và tăng tỷ lệ lao động có
trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Về mặt xã hội các chính sách kinh tế h-
10
ớng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu dùng lâu bền và
các dịch vụ xã hội của nhóm dân c. Xét về cơ cấu ngành thì tỷ trọng của ngành
dịch vụ đang có xu hớng tăng lên, vợt qua tỷ trọng của ngành công nghiệp trong
cơ cấu kinh tế quốc dân. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển của W.Rostow thì
hầu hết các nớc đang phát triển đang tiến hành công nghiệp hoá hiện nay nằm ở
khoảng giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ phát triển của từng nớc. Ngoài những
dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu phải bắt đầu hình thành một số
ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trởng.
Đồng thời cùng với sự chuyển tiếp từ giai 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh
vực đóng vai trò đầu tầu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự
u tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn
cụ thể.
1.2.2. Lý thuyết nhị nguyên:
A.Lewis là nhà kinh tế gốc Jamaica, năm 1955 trong tác phẩm "Lý thuyết
về phát triển kinh tế" ông đa ra cách giải thích hiện đại về mối quan hệ giáa hai
khu vực: Công nghiệp và nông nghiệp. Lewis đã đợc giải thởng Nôbel về kinh
tế năm 1979. Ông xuất phát từ t tởng của Ricardo, lu ý đến mối quan hệ giáa
công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động d thừa ở nông thôn.
Ông đa ra khả năng mở rộng khu vực công nghiệp bằng cách sử dụng nguồn lao
động nông thôn không hạn chế. Mô hình này đã đợc hai nhà kinh tế học là John
Fei và Gustar Rairis áp dụng vào phân tích quá trình tăng trởng ở các nớc đang
phát triển.
Lý thuyết nhị nghuyên cho rằng ở các nền kinh tế có 2 khu vực kinh tế
song song tồn tại: Khu vực kinh tế truyền thống chủ yếu là sản xuất nông

nghiệp và khu vực kinh tế hiện đại (công nghiệp ) du nhập từ bên ngoài. Khu
vực truyền thống có đặc điểm là trí trệ năng suất lao động thấp và d thừa lao
động. Ngoài ra, trong sản xuất nông nghiệp có hiện tợng lợi nhuận giảm dần.
Theo ông, với các mức tăng cho trớc ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục
nhỏ hơn ở đầu ra. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang
công nghiệp hiện đại mà không làm ảnh hởng gì tới sản lợng nông nghiệp. Do
có năng suất cao nên khu vực công nghiệp hiện đại có thể tự tích luỹ để mở
rộng sản xuất một các độc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung
của toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận đơng nhiên rút ra từ nháng nhận định này là để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của những nớc chậm phát triển cần phải bằng mọi cách mở rộng
khu vực sản xuất công nghệ hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan
tâm tới khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp
hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản
xuất xã hội từ trạng thái nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát
11
triển. Nh vậy, theo lý thuyết nhị nguyên, trong quá trình phát triển các nớc chỉ
nên chú trọng vào phát triển ngành công nghiệp và công nghiệp sẽ chiếm tỷ
trọng cao trong nền kinh tế.
Phải nói rằng, những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây ra đợc ấn t-
ợng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế giới
lần thứ II đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hởng của lý thuyết này.
Lý thuyết nhị nguyên còn đợc nhiều nhà kinh tế (J.Fei, G.Rainis, Harris,
Todaro...) tiếp tục nghiên cứu và phân tích luận điểm xuất phát của họ là khả
năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiện đại, khu vực
này có nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật trong đó có nháng loại kỹ thuật có hệ
số sử dụng lao động cao, nên về nguyên tắc có thể thu hút đợc lao động từ khu
vực nông nghiệp truyền thống. Nhng việc di chuyển lao động đợc giả định là do
sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động từ 2 khu vực kinh tế trên quyết
định. Có nghĩa là, khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút đợc lao động

từ khu vực nông nghiệp trong trờng hợp khi nó có mức lơng cao hơn so với khu
vực nông nghiệp (ngời lao động sẽ đợc mức lơng cao hơn mức thu nhập khi họ
còn ở nông thôn). Nhng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn dần cho tới
khi nguồn lao động d thừa từ nông nghiệp không còn náa. Đến lúc đó, việc tiếp
tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản lợng
nông nghiệp giảm đi, khiến cho giá cả hàng nông phẩm tiêu dùng tăng lên kéo
theo mức tăng lơng tơng ứng trong khu vực sản xuất công nghiệp. Chính sự tăng
lơng của khu vực công nghiệp sẽ đặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm về lao
động của bản thân nó. Nh vậy, mặc dù về mặt kỹ thuật, công nghệ, khu vực
công nghiệp hiện đại có thể có khả năng thuế mớn không hạn chế nhân lực, nh-
ng về mặt thu nhập và độ co dãn cung cầu nhân lực của 2 khu vực thì sức thu
nạp lao động từ nông nghiệp của công nghiệp là có giới hạn.
Một hớng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả
năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp thành thị. Quá
trình chuyển dịch lao động chỉ trôi chảy khi "tổng cung" về lao động từ nông
nghiệp phù hợp với "tổng cầu" ở khu vực công nghệp. Sự di chuyển này không
chỉ phụ thuộc vào mức chênh lệch về thu nhập mà còn phụ thuộc vào "xác suất"
tìm đợc việc làm đối với những ngời lao động nông nghiệp. Khi đa thêm yếu tố
"xác suất tìm đợc việc làm" vào phân tích, ngời ta thấy xuất hiện những tình
huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giáa 2 khu vực nh sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: Về mặt này, so với nền
công nghiệp ở các nớc phát triển thì khu vực đợc gọi là "công nghiệp hiện đại"
ở các nớc chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có thể tăng c-
ờng khả năng cạnh tranh với các nền công nghiệp nớc ngoài, vừa làm "đầu tầu"
lôi kéo sự tăng trởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp hớng tới
12
những ngành kỹ thuật cao. Nhng những ngành này cần tăng hàm lợng vốn đầu
t hơn là cần tăng hàm lợng lao động vì thế, khu vực "công nghiệp hiện đại" ở
các nớc chậm phát triển cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề d thừa lao động chứ
không riêng gì ở khu vực nông nghiệp.

- Khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của ngời lao động nông nghiệp khi
chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là ngời lao động
nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị và thậm
chí cha quên với môi trờng lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao động công
nghiệp kỹ năng cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà còn phải có đầu t
lớn, đến mức ngời ta xem nh một trong những lĩnh vực đầu t quan trọng nhất
đối với 1 nền kinh tế. Với những phân tích trên, ngời ta thấy rằng xác suất tìm
đợc việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với ngời nông dân dời bỏ ruộng
đồng là có giới hạn.
Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của 2 lĩnh vực sản
xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ công
nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào
phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những
giới hạn của chúng và vì thế cần quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phát triển.
1.2.3. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành.
Những ngời ủng hộ quan điểm này nh R.Murkse, P.Rosentein -Rodan...
cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều
ở tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết
với nhau trong chu trình "đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia. Vì
thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung, cầu
trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giáa các ngành nh vậy còn giúp tránh đợc ảnh hởng
tiêu cực của nháng biến động của thị trờng thế giới và hạn chế mức độ phụ
thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu
hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh nh vậy chính là nền
tảng váng chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nớc thuộc thế giới thứ ba
chống lại chủ nghĩa thực dân.

Tuy nhiên, trong sự phát triển luôn có cạnh tranh giữa các nớc về các sản
phẩm, hàng hoá. Do đó, để phát triển đợc các ngành kinh tế nội địa, Nhà nớc
cần có nháng chính sách bảo hộ, cụ thể là:
13
+ Chính sách bảo hộ mậu dịch: Nhà nớc thực hiện hàng rào thuế quan cao
và chế độ hạn ngạch nhâp khẩu nhằm hạn chế các loại hàng nhập khẩu và nâng
sức cạnh tranh về giá của các mặt hàng nội địa.
+ Chính sách tỷ giá hối đoái: Để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng
hoá nội địa, các Chính phủ thờng duy trì chế độ tỷ giá hối đoái theo hớng nâng
cao trị giá đồng tiền bản điạ nhằm làm yếu khả năng cạnh tranh của hàng ngoại
trên thị trờng nội địa.
Nh vậy, theo lý thuyết này, để phát triển cần xây dựng một nền kinh tế đa
ngành và hạn chế giao lu, trao đổi với bên ngoài, hay nói cách khác đó là nền
kinh tế "tự cung, tự cấp". Với những chính sách trên, hầu hết các quốc gia đang
phát triển theo mô hình này đã đạt đợc mức tăng trởng tơng đối cao trong giai
đoạn đầu. Mặc dù về thực chất, sự tăng trởng này chủ yếu bắt nguồn từ điểm
xuất phát thấp, khiến cho một mức gia tăng nhỏ về số lợng tuyệt đối cũng đẩy
chỉ số tơng đối lên rất cao, song nó cũng tạo ra sự thay đổi về cơ cấu kinh tế
nhất định, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia vốn trớc đây là
xứ thuộc địa. Đáng tiếc rằng, tốc độ tăng trởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của mô hình này đã không thể tiếp tục duy trì lâu hơn. Các nớc khác nhau tuỳ
vào những điều kiện cụ thể của mình mà lần lợt rời bỏ mô hình trớc những giới
hạn không sao vợt qua đợc. Các nhà kinh tế học đã tổng kết các lý do cơ bản
của tình hình này là:
+ Mô hình này tự nó giả định phát triển đồng thời tất cả (hay ít nhất cũng
là hầu hết) các ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu này không thể đáp ứng đợc bởi
các nền kinh tế kém phát triển do bị quá tải về vốn đầu t, khả năng công nghệ
kỹ thuật và quản lý.
+ Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đa nền kinh tế
đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những ng-

ợc với xu hớng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là
khu vực hoá và toàn cầu hoá. Kinh nghiệm thế giới và lý thuyết hệ thống đã chỉ
ra rằng: Sự phát triển của một quốc gia do động lực bên trong quốc gia đó là
chính , tuy nhiên có sự tận dụng các lợi thế từ môi trờng bên ngoài.
Cả hai yếu tố trên đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo
hớng công nghiệp hoá gặp khó khăn bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân tán
các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia khiến cho ngay cả việc sửa
cháa hậu quả cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở ngại.
Chính vì thế, chỉ sau 1 thời kỳ tăng trởng, các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ
cấu cân đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiếu năng
(maldevelopment).
14
1.2.4. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay "các
cực tăng trởng".
Ngợc lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối,
khép kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối
(A.hirschman, F.Perrons, G.Destanne deBernis) cho rằng không thể và không
nhất thiết phải bảo đảm tăng trởng bền váng bằng cách duy trì cơ cấu cân đối
liên ngành đối với mọi quốc gia, bởi nháng luận cứ chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích
đầu t. Trong mối tơng quan giáa các ngành nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu
động lực khuyến khích đầu t nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những
dự án đầu t lớn hơn vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu t sẽ xuất hiện bởi cầu lớn
hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính
những dự án đó có tác dụng lôi kéo đầu t theo kiểu lý thuyết số nhân.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò "cực
tăng trởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế cần tập
trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong 1 thời điểm nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá các nớc đang phát triển
rất thiếu vốn, lao động, kỹ thuật, công nghệ và thị trờng nên không đủ điều kiện

để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc phát
triển cơ cấu không cân đối là một sự lựa chọn bắt buộc. Lý thuyết này là cơ sở
để hình thành lên mô hình công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu. Về mặt lý
thuyết, mô hình này dựa trên nháng xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế dới
tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và lựa chọn một cơ cấu kinh tế
không cân đối để hình thành các cực tăng trởng dựa trên những lợi thế so sánh
trong quan hệ ngoại thơng. Các tiếp cận cơ cấu kinh tế trong mô hình công
nghiệp hoá này có một số đặc trng là:
+ Quá trình công nghiệp hoá đợc bắt đầu từ việc tập trung khai thác các
thế mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh
trên thị trờng thế giới. Thông thờng, đối với các nớc chậm phát triển, nháng thế
mạnh khả dĩ là nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên khoáng sản và nông
sản. Ví dụ, nh NICs thì hớng sự phát triển vào những ngành công nghiệp chế
biến sử dụng nhiều lao động nh : dệt, may, chế biến thực phẩm, điện tử dân
dụng. Trong khi đó một số nớc khác nh Malaysia và Thái Lan lại khởi đầu với
những sản phẩm nông nghiệp và khai thác khoáng sản.
+ Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu, tức
là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra nớc
ngoài. Cụ thể là:
15
Nhà nớc trực tiếp tác động bằng cách đa ra danh mục các mặt hàng u tiên,
đợc giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp trợ cấp cho các loại hàng
hoá phục vụ sản xuất hàng xuát khẩu.
Nhà nớc gián tiếp can thiệp qua các công cụ tài chính, tiền tệ, tạo lập môi
trờng thuận lợi cho hoạt động sản xuất hớng ra thị trờng thế giới. Ví dụ nh:
đánh tụt giá đồng tiền nội địa cung cấp tín dụng với lãi suất u đãi cho sản xuất
xuất khẩu khuyến khích đầu t ngớc ngoài....
Lúc đầu, lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì nó xây dựng một nền
kinh tế hớng ngoại và phụ thuộc vào bên ngoài (các nền kinh tế khác) mà thờng
thì các nớc có nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn. Nhng về

sau do kết quả tăng trởng kinh tế "thần kỳ" của một nhóm nớc thực hiện chính
sách này nh: NICs, Malay sia, Thái Lan... nên xu hớng này đã đợc nhiềù nớc áp
dụng. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học cũng đa ra hai loại vấn đề cần lu ý khi áp
dụng lý thuyết này;
Thứ nhất, một số yếu điểm của chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá hớng
ngoại nh sự phụ thuộc quá mức vào biến động của thị trờng thế giới, tiêu biểu là
cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua đã làm cho nhiều nớc bị ảnh h-
ởng nghiêm trọng về tăng trởng kinh tế cũng nh về mặt xã hội.
Thứ hai, không chắc môi trờng kinh tế quốc tế còn thuận lợi cho việc thực
thi chính sách hớng về xuất khẩu vì lợi thế so sánh không tồn tại mãi mãi.
1.2.5. Lý thuyết phát triển theo mô hình "đàn nhạn bay".
Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa
trên lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ngời khởi xớng lý
thuyết này, giáo s Kaname Akamatsu đã đa ra nháng kiến giải về quá trình
"đuổi kịp" các nớc tiên tiến nhất của các nớc kém phát triển hơn. Trong những ý
tởng về sự đuổi kịp này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Xét trên góc độ phát triển của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân ngành hay
thậm chí từng loại sản phẩm riêng biệt. Quá trình "đuổi kịp" về mặt kinh tế và
kỹ thuật của chúng đợc chia thành 4 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Các nớc kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ
các nớc phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt. Tức là,
các nớc kém phát triển đã có sự chuyên môn hoá sản xuất 1 số loại hàng thủ
công đặc biệt để xuất khẩu sang các nớc phát triển.
* Giai đoạn 2: Các nớc chậm phát triển nhập sản phẩm đầu t từ các nớc
công nghiệp để chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trớc đây vẫn phải
nhập. Đây là giai đoạn các nớc kém phát triển bắt đầu tích luỹ t bản (vốn) và
phỏng theo (bắt chớc) công nghệ chế tạo từ các nớc công nghiệp phát triển. Vì
16

×