Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Bài thu hoạch kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.76 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI THU HOẠCH
MƠN NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM: “ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, CÁC
NGUỒN LỰC KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯỢC SỬ DỤNG PHÙ HỢP
VỚI CHIẾN LƯỢC, QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC VÀ CƠ BẢN ĐƯỢC PHÂN BỔ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG”

Học viên: LƯU TIẾN HƯNG
Mã số học viên:
Lớp: Cao học Quản lý Kinh tế KTT K28 - Bắc Ninh(lớp 02)

Bắc Ninh, 2022


PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử kinh tế thế giới đã và đang ghi nhận hai sự kiện tầm cỡ quốc tế lớn
lao: Thứ nhất, sự sụp đổ Liên Xô trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX như là
minh chứng cho sự thất bại của mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ theo
mơ hình Xơ-viết. Thứ hai, cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khởi đầu năm 2008
ở Mỹ và lan tỏa toàn cầu trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI như là minh chứng
cho sự thất bại của mơ hình kinh tế thị trường tự do tối đa kiểu Mỹ.
Nhân loại đứng trước sự lựa chọn và yêu cầu mới về sự kết hợp hài hòa bàn
tay thị trường với bàn tay nhà nước trong mơ hình kinh tế mới phù hợp với điều
kiện cụ thể và đặt mục tiêu lợi ích quốc gia lên hàng đầu theo yêu cầu phát triển
bền vững của mỗi nước.
Trong bối cảnh đó, sự phát triển nhận thức của Đảng từ Đại hội VI đến Đại


hội XIII về mơ hình kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), cũng như mối quan hệ và sự kết hợp giữa Nhà nước với thị trường là cả
một q trình tìm tịi, trải nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, ngày càng đầy đủ và
hoàn thiện hơn.
Để hiểu rõ về thể chế và tình hình kinh tế nước ta, đặc biệt là hiểu được
thêm về bản chất, vị trí, vai trị Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả xin lựa chọn đề tài phân tích luận điểm: “Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các nguồn lực kinh
tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường” làm đề tài bài thu
hoạch mơn Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
Bài viết khơng thể tránh khỏi những sai sót, rất mong các thầy,cơ chỉ bảo tận
tình để em có thể nhìn nhận đúng đắn về vấn đề nêu trên. Em xin chân thành cảm
ơn!

2


PHẦN 2: NỘI DUNG
Trước hết, ta tìm hiểu nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là gì? Tại sao Đảng ta lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay?
*Nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan
hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên
thị trường( người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị
trường) thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó, các quan hệ
kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa,

dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là
hướng vào việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường.
Khác hẳn với nền kinh tế tự nhiên - tự cung tự cấp, kinh tế thị trường là kinh
tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình
phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất
đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản
lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua bán, là hàng
hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước và thị trường đều có vai trị và chức
năng riêng. Bản thân thị trường ln vận hành theo các quy luật vốn có khách quan
và trên thực tế cơ chế thị trường là cơ chế hiệu quả trong phân bổ và khai thác các
nguồn lực. Song thị trường vận động tự do ln có xu hướng đẩy nền kinh tế vào
tình trạng khơng ổn định và khủng hoảng. Thị trường có những khiếm khuyết cố
hữu, địi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc phục. Tuy
nhiên, nhà nước cũng có hạn chế và cũng thất bại khi can thiệp quá mức. Chính sự
khiếm khuyết của thị trường và hạn chế của nhà nước cho thấy: không thể phát
triển khi thiếu vắng sự can thiệp của nhà nước, cũng như không thể phát triển nếu
thiếu vắng thị trường, để phát triển đòi hỏi nhà nước và thị trường cần tương tác,
hỗ trợ nhau, khắc phục các khiếm khuyết.
3


Ngày nay nền kinh tế thị trường đã phát triển đến giai đoạn cao, trong đó
vừa có các quan hệ thị trường, vừa phải có sự điều tiết của Nhà nước và tổ chức
nền kinh tế ở trình độ cao. Vậy nên thực chất của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, một mặt vừa có những tính chất chung của nền
kinh tế thị trường như đã nêu trên, mặt khác lại mang những đặc trưng riêng do
được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam được thể hiện ở những điểm sau:


Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều
tiết của nhà nước.



Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh
tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở
hữu tồn dân.



Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.



Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".



Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước


đóng vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trờ thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Với vai trị của mình kinh tế nhà nước khơng đứng
độc lập, tách rời mà ln có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với tồn bộ nền kinh tế và
trong suốt cả quá trình phát triển. Phần sở hữu nhà nước khơng chỉ có trong kinh tế
nhà nước mà có thể được sử dụng ở nhiều thành phần kinh tế khác. Bằng thực lực
của mình kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền
vững và giải quyết các vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần
4


kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết, quản lý nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước chỉ đầu tư vào
những ngành kinh tế then chốt vừa chi phối được nền kinh tế vừa đảm bảo được an
ninh, quốc phịng và phục vụ lợi ích cơng cộng...
* Tại sao Đảng ta lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay?
Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác, Việt Nam cũng
áp dụng mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ-viết, mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập
trung mang tính bao cấp. Mơ hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất
là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh. Nhưng về sau mơ
hình này bộc lộ nhiều khuyết đểm và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một
số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ
quan duy ý chí, lối suy nghĩ hanh động đơn giả nóng vội không tôn trọng quy luật
khách quan, nhạn thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của đảng cộng sản Việt
Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực
hiện có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những
quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
quan niệm về cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu

kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê
phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang
hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trong việc kết hợp lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội; chăm lo tồn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức
mới về chính sách xã hội.
Đến hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI Đảng đưa ra quan điểm
phát triển nền kinh tế hàng hố có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa
xã hội, coi “ chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ di lên chủ nghĩa xã hội”.
5


Đến đại hội VII ( tháng 6 năm 1991 ), Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói
rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nươc trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định : “ phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đưa ra một
kết luận mới rất quan trọng : “sản xuất hàng hố khơng đối lập với chủ nghĩa xã
hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội
được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hang hố, cơ chế thị
trường, chưa dùng khái niệm “ kinh tế thị trường ”. Phải đến đại hội IX của Đảng
(tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất qn, là mơ hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều
năm nghiên cứu, tìm tịi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý
luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt
tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển, nhưng
những mâu thuẫn vốn có của nó khơng thể nào khắc phục được trong lòng xã hội
tư bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự
tiến hóa tạo ra những diều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng xã hội - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì khơng chỉ
dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù hợp với
xu thế của thời đại và đặc điểm phát triền của dân tộc, sự lựa chọn đó khơng hề
mâu thuẫn với tiến trình phát triển của đất nước.
Có thể nói, trải qua hơn 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, kinh tế nhà nước đóng
vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trờ thành nền tảng vững chắc
6


của nền kinh tế quốc dân. Trong nền KTTT định hướng XHCN, kinh tế Nhà nước
là nhân tố quy định và bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường. Kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lượng vật
chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước phải nắm những khâu,
những lĩnh vực then chốt của nền Kinh tế quốc dân. Kinh tế Nhà nước phải là kiểu
mẫu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật để lôi cuốn các
thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế Nhà nước phải
có giá trị tổng sản lượng hàng hố ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân
sách Nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi người lao độn
Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “ Các nguồn lực kinh tế của Nhà
nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường”
Phân tích luận điểm này, trước hết ta cần hiểu rõ thành phần và đặc trưng

của Kinh tế Nhà nước.
* Kinh tế nhà nước:
- Dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất.
- Nó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân sách nhà nước, ngân hàng nhà
nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước, cơ sở vật chất của quốc
phòng, an ninh và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu
chuyển kinh tế.
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
• Là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan
trọng, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mơ.
• Là địn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
• Mở đường hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng
XHCN.
Ngân sách nhà nước:Thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ
điều chỉnh quản lý, kiểm soạt các hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước và các
thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Có tác dụng điều
7


chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động knh doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và
tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế xã hội
Kho bạc nhà nước: Với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
đồng thời kiểm sốt q trình thu chi ngân sách
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực KTNN, nhằm bảo đảm
cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực lượng vật
chất để nhà nước điều tiết, quản lý bình ổn giá thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế
xã hội
Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống như DNNN trong cung ứng
một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành chính cơng
Hệ thống Doanh nghiệp nhà nước: Đây là bộ phận chủ yếu then chốt của khu

vực Kinh tế nhà nước.
Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước theo nghĩa thúc đẩy ổn định
và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Kinh tế nhà nước là công cụ,
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế
thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế
thị trường.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế
đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Chính phủ có thể thông
qua hệ thống luật pháp và thông qua sự lựa chọn của mình để tác động đến sản
xuất. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù
hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trị
quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân
bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh
nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém.
8


Trong vòng bốn năm kể từ ngày Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, tất cả
các cơng ty, tổng cơng ty nhà nước đều phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác. Doanh nghiệp nhà nước sẽ được sắp xếp, đổi mới, phát triển để nâng cao
hiệu quả không những của từng doanh nghiệp nhà nước mà còn nâng cao hiệu quả
và phát huy vai trò định hướng và điều tiết của kinh tế nhà nước, tập trung nguồn
vốn có hạn của Nhà nước vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn có ý nghĩa quan
trọng đối với toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm an ninh, quốc phòng cho nền kinh tế
và đất nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực

quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ðẩy mạnh và mở rộng diện cổ
phần hóa DNNN... Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công
ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu, bảo đảm những
cân đối lớn của nền kinh tế; chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp
hoạt động bảo đảm an ninh, quốc phòng và những doanh nghiệp sản xuất, cung
ứng dịch vụ cơng ích thiết yếu mà chưa cổ phần hóa được...
Đồng thời, thông qua thuế và các khoản chuyển nhượng để tác động đến
khâu phân phối, từ đó tác động đến việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế.
Kinh nghiệm của Việt Nam trong những năm qua cho thấy để phân bổ nguồn vốn
hiệu quả thì khâu đột phá là giải quyết mối quan hệ Nhà nước và thị trường. Cho
dù sự phân bổ các nguồn lực thuộc về Nhà nước thì cũng phải tơn trọng các
ngun tắc của thị trường.
Với chủ trương phát triển đồng bộ và vững chắc thị trường tài chính, Nhà
nước sử dụng nhiều biện pháp tăng cường quản lý thị trường vốn, đảm bảo thị
trường này vận hành thống suốt, công khai và hiệu quả; nâng cao tính thanh khoản
và tạo được những thay đổi căn bản về thể chế, cấu trúc thị trường để tạo dựng nền
tảng tài chính vững mạnh, đảm đương được vai trò phân bổ nguồn lực xã hội hiệu
quả, đồng thời đảm bảo ổn định tài chính để phát triển bền vững.
Trong đó, ngân sách nhà nước có vai trị rất quan trọng trong tồn bộ hoạt
động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu
9


rằng, vai trị của ngân sách nhà nước ln gắn liền với vai trò của nhà nước theo
từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm
nhận vai trị quản lý vĩ mơ đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống
xã hội. Ngân sách nhà nước định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích

phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Thông qua hoạt động chi Ngân
sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành
các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo mơi trường và điều
kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không
đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp).
Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một
trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi
vào tình trạng cạnh tranh khơng hồn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn
kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của
các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển
sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn
tài chính thơng qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trị định
hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Nhà nước sẽ sử dụng ngân sách nhà nước như một công cụ để góp phần bình
ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng
những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều
chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động:
thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng
với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều
tiết thơng qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Để phát huy vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước:
* Đối với doanh nghiệp nhà nước:
10


- Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không
cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể các doanh nghiệp đang kinh
doanh có hiệu quả;
- Hồn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và vơ hình trong cổ

phần hóa theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và
nhiệm vụ chính trị, cơng ích.
- Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản
lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước;
- Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị
doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm sốt đảm bảo cơng khai,
minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới cơ chế tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên
chế, nhân sự và tài chính;
- Xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia
vào lĩnh vực này…
* Đối với tài sản nhà nước:
- Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước
- Tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước.
- Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên.

11


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Nói tóm lại nền kinh tế thị trường là công cụ để phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Để đạt được những mục tiêu về kinh tế thì điều đặt ra cho một quốc gia
là phải biết lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường và vận dụng nó sao cho phù hợp
với tình hình cũng như hồn cảnh của nước mình.
Đối với nước ta, q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tuy có hơi
muộn nhưng nó cũng đem lại những thành tựu hết sức to lớn cho đất nước trong

việc phát triển kinh tế - xã hội. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã chấp nhận nó
- như một cơng cụ để phát triển, để đạt được những mục tiêu cao hơn - đi lên chủ
nghĩa xã hội. Một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những cái
chung của nền kinh tế thị trường và nó cũng có những cái khác biệt so với nền kinh
tế thị trường của các nước khác đồng thời suy cho cùng mục tiêu cuối cùng phát
triển một nền kinh tế đó là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh".
Trong mơi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh đó, Nhà nước, một mặt phải làm tốt
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận
lợi tối đa cho các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh
hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển; mặt khác phải làm tốt chức năng đại diện chủ
sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản của toàn dân đầu tư, kinh doanh trong các
tổ chức sản xuất, kinh doanh của Nhà nước, trước hết là doanh nghiệp nhà nước để
phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí then chốt của doanh nghiệp
nhà nước trong một số ít ngành, lĩnh vực và địa bàn trọng yếu. Nhà nước bảo đảm
nguồn lực kinh tế nhất định để cung cấp các loại dịch vụ cho đối tượng hưởng lợi
an sinh xã hội, hỗ trợ cho họ vươn lên, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp cận các
dịch vụ công phù hợp (y tế, giáo dục, việc làm...), hưởng thụ thành tựu phát triển
một cách cơng bằng có thể, chính vì vậy trong những năm tới cần phát huy vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước
trong lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp và đa dạng hóa sở hữu đối với
những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng
12


cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng cơng ty Nhà nước, có sự tham
gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong
các doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh

bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có
thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và
lực mới cho nền kinh tế. Tuy nền kinh tế thị trường Việt Nam đang trong giai đoạn
hình thành và phát triển, đang cịn gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đều tin rằng
với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều tiết kinh tế của Nhà nước cũng như sự đoàn kết,
thống nhất và quyết tâm của nhân dân ta nó sẽ phát triển lên một trình độ cao và sẽ
là cơng cụ quan trọng để chúng ta hồn thành quá trình đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội.

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị, NXB chính trị quốc gia
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ CNXH, NXB sự thật1991
3. Kinh tế thị trường định hướng XHCN, NXB thống kê 1995
4. Kinh tế xã hội Việt Nam: thực trạng, xu hướng và giải pháp, NXB thống kê
8/1986.
5. Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX, XIII

13



×