Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

PHÁP LUẬT về hợp ĐỒNG DỊCH vụ THỰC TIỄN THỰC HIỆN tại CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ và XUẤT NHẬP KHẨU BÌNH MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.42 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ - THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ VÀ XUẤT
NHẬP KHẨU BÌNH MINH

NGÀNH ĐÀO TẠO: LUẬT KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

- Họ và tên: ThS. Hoàng Thanh Giang

- Họ và tên: Trần Minh Trang

- Bộ môn: Luật kinh tế

- Lớp: K54P2
- Mã SV: 18D200108

HÀ NỘI - 2022
i


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan ..................................... 1
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu......................................................... 3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu ................................................. 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................... 3
4.2. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................... 3
4.3. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 4
6. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp ......................................................................... 4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ ............................................................. 5
1. 1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến pháp luật điều chỉnh hợp đồng
dịch vụ .................................................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng .............................................................................. 5
1.1.2. Khái niệm hợp đồng dịch vụ ...................................................................... 6
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ ................................................................ 7
1.1.4. Phân loại hợp đồng dịch vụ ....................................................................... 8
1.1.5. Vai trò của hợp đồng dịch vụ đối với các doanh nghiệp ........................ 10
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ .. 10
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ ....................... 10
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ .................................. 11
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ........................... 14
1.3.1. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí hợp tác, trung thực và ngay
thẳng ................................................................................................................... 14
1.3.2. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng dịch vụ nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội................................................................................... 15
1.4.3. Ngun tắc khơng được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, lợi ích cơng
cộng, lợi ích hợp pháp của người khác ............................................................. 15

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH PHÁT
TRIỂN CƠNG NGHỆ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU BÌNH MINH .................. 16
ii


2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều
chỉnh hợp đồng dịch vụ..................................................................................... 16
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ ............... 16
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ... 17
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ ...... 19
2.2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh đối tượng hợp đồng
dịch vụ ................................................................................................................. 19
2.2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh chủ thể hợp đồng dịch vụ
............................................................................................................................. 19
2.2.3. Thực trạng pháp luật quy định về giá dịch vụ và trả tiền dịch vụ ......... 19
2.2.4. Thực trạng pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng dịch vụ ................................................................................................ 20
2.2.5. Thực trạng pháp luật quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng dịch vụ
............................................................................................................................. 21
2.2.6. Thực trạng pháp luật quy định về trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng
dịch vụ ................................................................................................................. 23
2.2.7. Thực trạng pháp luật quy định về sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng
dịch vụ ................................................................................................................. 25
2.2.8. Thực trạng pháp luật quy định về tranh chấp và giải quyết tranh chấp
trong quan hệ hợp đồng dịch vụ........................................................................ 27
2.3. Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng
dịch vụ và thực tiễn thực hiện tại công ty tại công ty TNHH Phát triển Cơng
nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh .............................................................. 30
2.3.1. Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch

vụ tại công ty tại công ty TNHH Phát triển Công nghệ và Xuất Nhập khẩu
Bình Minh........................................................................................................... 30
2.3.2. Thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch
vụ tại công ty TNHH Phát triển Công nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh 31
2.4. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu .............................................. 35
2.4.1. Những thành tựu mà Công ty TNHH Phát triển Cơng nghệ và Xuất
Nhập khẩu Bình Minh đạt được trong quá trình giao kết hợp đồng dịch vụ
............................................................................................................................. 35

iii


2.4.2. Một số bất cập trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng dịch
vụ của Công ty TNHH Phát triển Cơng nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình
Minh.................................................................................................................... 36
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ ........................................................... 39
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ........ 39
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ
............................................................................................................................. 40
3.2.1. Về phía nhà nước ..................................................................................... 41
3.2.2. Về phía cơng ty ......................................................................................... 45
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ......................................... 46
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 49

iv


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tên đầy đủ

STT

Tên viết tắt

1

Bộ luật Dân sự

BLDS

2

Luật thương mại

LTM

3

Tổ chức thương mại thế giới

WTO

4

Toà án nhân dân

TAND


5

Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

v


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng: Doanh thu của Công ty TNHH Phát triển Cơng nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình
Minh ............................................................................................................................. 32

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), điều này đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam một cơ hội phát triển
lớn. Trong suốt khoảng thời gian 15 năm kể từ ngày gia nhập WTO cho đến nay,
ngành dịch vụ của Việt Nam có bước tiến phát triển mới. Dịch vụ đã trở thành hàng
hóa và việc trao đổi, mua bán dịch vụ ngày càng trở nên sôi động, phổ biến khi thị
trường thương mại dịch vụ được mở cửa, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh
nghiệp Việt nam với nhau cũng như giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam
với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngồi. Để có thể nâng cao sức cạnh tranh
trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ trong các hoạt động thương mại các doanh nghiệp đã
sử dụng hợp đồng dịch vụ như một công cụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia thị trường thương mại dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ là một
chế định nhằm tạo ra cơ sở pháp lý giúp cho các chủ thể kinh doanh dịch vụ có được

mơi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng. Tuy nhiên trong thực tiễn hoạt động
kinh doanh dịch vụ vẫn cịn tồn tại những khuyết điểm nhất định, mơi trường chính
sách dịch vụ ở Việt Nam là một hệ thống khá phức tạp với nhiều loại luật, văn bản
dưới luật… Các văn bản quy phạm pháp luật về cung ứng dịch vụ, hợp đồng dịch vụ
còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau với hiệu lực pháp lý cao thấp
cũng khác nhau, xong vẫn chưa tạo được tính thống nhất và tính hệ thống, chưa thể bắt
kịp được với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Do đó, khi áp dụng các quy
phạm pháp luật về cung ứng dịch vụ vào thực tế cho thấy rất nhiều vấn đề còn tồn tại
trong việc thực hiện của các doanh nghiệp, các tổ chức và trong công tác quản lý của
nhà nước tạo ra những hạn chế nhất định gây kìm hãm sự phát triển của các hoạt động
cung ứng dịch vụ. Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ thực tiễn trong các hoạt động
cung ứng dịch vụ mà em nhận thấy được trong q trình thực tập tại Cơng ty TNHH
Phát triển Cơng nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh. Em cho rằng việc hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng là
việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của một đất nước
đang trong quá trình hội nhập kinh tế với nền kinh tế thế giới như Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan
Với tầm quan trọng không hề nhỏ đối với khả năng tồn tại, sự phát triển của các
doanh nghiệp, cũng như đối với sự phát triển của nền kinh tế, đã có rất nhiều các cơng
trình khoa học, các đề tài khố luận, các bài báo, …dành mối quan tâm đặc biệt nghiên
cứu các vấn đề về hợp đồng nói chung và về hợp đồng dịch vụ nói riêng. Từ các góc
nghiên cứu khác nhau, các bài viết, bài báo cho thấy một cái nhìn tồn diện hơn về

1


pháp luật về hợp đồng dịch vụ để từ đó ta có cái nhìn khách quan, tồn diện hơn về
hợp đồng dịch vụ. Và sau đây là một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về pháp luật
hợp đồng dịch vụ:
Khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Yến – Khoa Luật Kinh tế, Viện

đại học Mở Hà Nội (2013), “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn áp
dụng tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long – GTC”. Đề tài chỉ tập
trung vào việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn ký kết và
thực hiện hợp đồng này tại công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long –
GTC. Đề tài này chỉ đề cập đến pháp luật về cung ứng dịch vụ ở mảng du lịch chứ
không đưa ra những vấn đề pháp lý thuộc phạm vi dân sự, thương mại.
Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ – Khoa Luật, Trường đại
học Quốc Gia Hà Nội (2011), “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn
giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”. Ngoài việc tìm hiểu những vấn đề pháp lý
về hợp đồng dịch vụ, đề tài đi sâu phân tích những vụ việc thực tế về việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng dịch vụ.
Kiều Thị Thuỳ Linh (2017), Hợp đồng dịch vụ theo quy định pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Trường đại học Luật Hà Nội. Đề tài tập trung phấn tích các quy định pháp luật Việt
Nam về hợp đồng dịch vụ và các vấn đề thực tiễn.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu điển hình trên cịn có các bài phát biểu,
những bài báo và một số bài viết có liên quan như:
Bài viết của Th.S Hà Công Bảo Anh (2013) “Hợp đồng thương mại dịch vụ và
vai trị của nó đối với doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại. Bài viết đưa ra một
khái niệm mới về thương mại dịch vụ, từ đó phân tích vai trị và tầm quan trọng của
loại hợp đồng này đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Bài viết của Kiều Thị Thuỳ Linh (2017) “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
dịch vụ”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, bản giấy số tháng 2 năm 2017. Bài viết đưa ra
các quan điểm nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ.
Các công trình trên đã nghiên cứu, đánh giá những vấn đề có liên quan đến hợp
đồng dịch vụ ở những khía cạnh khác nhau và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
khố luận tốt nghiêp nghiên cứu về pháp luật hợp đồng dịch vụ này. Tuy nhiên, do có
mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên các tác giải chưa đề cập
một cách toàn diện, đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ.
Hơn nữa, các cơng trình nghiên cứu ở trên có một số bài viết đã trở nên cũ so với nội

dung pháp luật hiện nay khi BLDS 2015 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2017. Do đó, em
chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH

2


Phát triển Cơng nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh” để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
pháp luật về hợp đồng dịch vụ. Khoá luận sẽ đi sâu vào nghiên cứu các quy phạm pháp
luật về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn thực hiện tại một doanh nghiệp cụ thể cũng như
đặc điểm, vai trò của loại hợp đồng này với các doanh nghiệp để từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về vấn đề này.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Thực tế, nhu cầu sử dụng dịch vụ của xã hội ngày càng tăng dẫn đến các hoạt
động kinh doanh cung ứng dịch vụ ngày càng phát triển và đóng vai trị lớn trong việc
phát triển kinh tế. Để đảm bảo việc cung ứng dịch vụ diễn ra sn sẻ thì việc chấp
hành pháp luật về hợp đồng dịch vụ là điều tất yếu. Do đó, việc tìm hiểu pháp luật về
hợp đồng dịch vụ và thực tiễn áp dụng, thực hiện hợp đồng dịch vụ là việc làm cần
thiết. Nhằm hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật về việc giao kết và thực hiện
các hợp đồng dịch vụ thế nào là đúng, là hợp lý? Các đặc điểm pháp lý của hợp đồng
dịch vụ là gì? Vai trị của hợp đồng dịch vụ là như thế nào? Thực trạng áp dụng các
quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ diễn ra như thế nào? Các đề xuất giải pháp
hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ là gì? Để trả lời cho các câu hỏi
trên, em xin chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ - Thực tiễn thực hiện tại công
ty TNHH Phát triển Cơng nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh” làm đề tài khoá luận
tốt nghiệp.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện các quy định của pháp
luật về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Phát triển Công
nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh.

4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Khố luận được xây dựng với mục tiêu làm cho người đọc thấy rõ các vấn đề
pháp lý về hợp đồng dịch vụ được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam và thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật đó tại một doanh nghiệp
cụ thể. Trên cơ sở phân tích lý thuyết và phân tích thực tiễn thực hiện tại một doanh
nghiệp cụ thể để thấy được các mặt hạn chế, thiếu sót của hệ thống pháp luật quy định
các vấn đề liên quan đến hợp đồng dịch vụ, ta có thể đưa ra một số quan điểm, kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về vấn đề trên góp phần thúc đầy nền kinh tế
nước nhà phát triển.
Từ những mục đích nghiên cứu trên, khoá luận đặt ra các mục tiêu cụ thể sau:
nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ trong hoạt động thương mại và
các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ; phân tích thực trạng áp dụng quy định

3


pháp luật về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Phát triển
Công nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh. Từ đó đánh giá những bất cập, hạn chế
trong quy định của pháp luật và trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng của
công ty; trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật, đưa
ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Do kiến thức cịn hạn hẹp và thời gian nghiên cứu khơng nhiều nên khóa luận
chỉ tập trung nghiên cứu những quy định hiện hành của pháp luật trong lĩnh vực cung
ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại, như LTM 2005, BLDS 2015,... và một số
văn bản luật chuyên ngành khác. Và việc thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ tại
Công ty TNHH Phát triển Công nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài khố luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp định tính, phương pháp định lượng, ….. Ví dụ,

phương pháp duy vật biện chứng, đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác – Lênin để giải qyết những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến
các quy định về hợp đồng dịch vụ. Trong đó, chú trọng sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp và phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ quy định về
hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2015 với các quy định về cung ứng dịch vụ trong LTM
2005. Hay, bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng như
phương pháp thu thập, xử lý số liệu, phương pháp khảo sát đánh giá thực tế để tìm
hiểu thêm thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ tại Công ty TNHH Phát
triển Công nghệ và Xuất Nhập khẩu Bình Minh nhằm làm rõ hơn thực trạng áp dụng
quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ tại cơng ty.
6. Kết cấu khố luận tốt nghiệp
Ngồi chương mở đầu và những mục có liên quan như lời cảm ơn, mục lục,
danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Chương 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ và thực tiễn thực
hiện tại công ty TNHH Phát triển cơng nghệ và Xuất nhập khẩu Bình Minh
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ

4


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
1. 1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến pháp luật điều chỉnh hợp đồng
dịch vụ
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng
Hợp đồng dịch vụ trước hết là một hợp đồng, vì vậy muốn hiểu rõ về hợp đồng
dịch vụ trước tiên cần hiểu rõ khái niệm hợp đồng.
Hợp đồng là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu và hiện nay có nhiều cách hiểu

khác nhau về nó. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp
luật cũng khác nhau.
Ngay từ thời La Mã cổ đại hợp đồng đã chiếm một vị trí hết sức quan trọng
trong pháp luật về nghĩa vụ dân sự. Những quy định của người La Mã cổ đại về hợp
đồng dân sự đã trở thành kim chỉ nam cho các nhà làm luật của nhiều nước trên thế
giới. Trong pháp luật La Mã, hợp đồng được coi là “ hình thức thể hiện ý chí của các
giao dịch song phương và việc xác lập chúng có thể trực tiếp làm xác lập, thay đổi hay
chấm dứt quyền và nghĩa vụ” .
Theo quy định tại Điều 1.101, Chương I, những quy định mở đầu về hợp đồng
và nghĩa vụ hợp đồng trong BLDS Cộng Hịa Pháp thì: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về
việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó” . Theo định
nghĩa này, hợp đồng chính là sự thống nhất ý chí giữa hai hoặc nhiều người, không
giới hạn số người tham gia vào quan hệ hợp đồng, trong đó liên quan tới việc mua bán
một vật hoặc khơng được làm một việc gì đó.
Tương tự như cách định nghĩa về hợp đồng của BLDS Pháp, khoản 1 Điều 420
BLDS Nga (1994) quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” .
Dưới góc độ pháp luật thực định, khái niệm hợp đồng tại Việt Nam được quy
định tại Điều 385 BLDS 2015, theo đó: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Như vậy, các định nghĩa trên tuy có cách thể hiện khác nhau phù hợp cách thức
lập pháp của từng quốc gia nhưng nói chung đều chỉ rõ bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các chủ thể, hay nói cách khác nó là sự thống nhất ý chí của các bên.
Khi đối chiếu với định nghĩa hợp đồng của BLDS 2015 của Việt Nam thì có thể nói,
khái niệm hợp đồng của BLDS 2015 có nhiều điểm giống BLDS Nga, Pháp nhưng thể
hiện tính ngắn gọn, súc tích và đầy đủ.

5



Có thể nói, thuật ngữ “hợp đồng” là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem
xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm “hợp đồng”
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, “hợp
đồng” là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “quy
phạm pháp luật được quy định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
(chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các
chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện”.
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận, là kết quả của q
trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có
quy định là khơng thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét về vị
trí và vai trị của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là
căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Một hợp
đồng phải xuất phát từ yếu tố thoả thuận nhưng không phải mọi thoả thuận đều là hợp
đồng. Chỉ những thoả thuận làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
của các bên mới tạo nên quan hệ hợp đồng.
Như vậy, ta có thể hiểu: Hợp đồng là phương tiện pháp lý thể hiện ý chí của các
bên để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Ý chí của các bên đóng vai trị quan trọng
trong hợp đồng, khi sự thống nhất của các ý chí là thực chất và khơng trái pháp luật thì
nó sẽ làm phát sinh nghĩa vụ ràng buộc giữa các bên.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng dịch vụ
Quan hệ cung ứng dịch vụ được xác lập và thực hiện thơng qua hình thức pháp
lý là hợp đồng dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ mang bản chất chung của hợp đồng, là sự
thỏa thuận của các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ cung ứng dịch vụ.
Dịch vụ xuất hiện từ khá lâu, ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan

trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Ngày nay, có thể dễ dàng nhận thấy nhiều loại
hình dịch vụ trong đời sống thường ngày như: dịch vụ ăn uống, khám chữa bệnh, cắt
tóc, dịch vụ giáo dục, dịch vụ vận chuyển hàng hóa,...Tuy nhiên, hiện nay tồn tại nhiều
khái niệm khác niệm khác nhau về dịch vụ. Theo đó, nhiều nhà nghiên cứu như Adam
Smith, Philip Kotler, … đưa ra quan niệm về dịch vụ ở dưới góc độ kinh tế. Dưới góc
độ này, dịch vụ được hiểu là các hoạt động của con người mà được trao đổi trên thị
trường, mang tính vơ hình và q trình cung ứng và tiêu dùng diễn ra đồng thời cùng

6


một lúc. Các quan niệm về dịch vụ hiện nay cịn chưa thống nhất, đặc biệt dưới góc độ
dân sự hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể.
Trong từ điển Wikipedia, dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ
tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp
ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ...và mang lại lợi
nhuận. Về bản chất, dịch vụ là sản phẩm được tạo ra để thỏa mãn nhu cầu khác nhau
của con người.
Khi sử dụng dịch vụ, nhất là dịch vụ thương mại, người sử dụng phải trả một
khoản tiền nhất định cho bên cung ứng dịch vụ, tức là dịch vụ cũng có giá trị và giá trị
sử dụng như là hàng hóa. Chỉ có điều, dịch vụ là sản phẩm hàng hóa vơ hình, người sử
dụng không sở hữu dịch vụ mà chỉ được hưởng những tiện ích từ dịch vụ mang lại. Do
vậy, dịch vụ cũng là hàng hóa nhưng là hàng hóa vơ hình.
Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên
cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện cơng việc cho một bên khác và nhận thanh
toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên
cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Như vậy, có thể hiểu cung ứng dịch vụ là việc mà một bên sẽ thực hiện cơng việc
nào đó theo u cầu của khách hàng và sẽ nhận lại được thanh toán cho việc của mình.
Theo đó, hợp đồng dịch vụ có thể được hiểu: “Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận

của bên cung ứng dịch vụ và bên thuê mà theo đó bên cung ứng có nghĩa vụ thực hiện
một cơng việc nhất định nhằm mang lại lợi ích cho bên th cịn bên thuê dịch vụ phải
trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng theo các nội dung quy định về quyền và nghĩa vụ củ
các bên trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.”. Hợp đồng dịch vụ là hình
thức pháp lý của quan hệ cung ứng dịch vụ, nó gắn liền với hoạt động cung ứng dịch vụ.
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ
Hợp đồng dịch vụ mang một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và
bên sử dụng dịch vụ đều có quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia vào quan hệ hợp
đồng dịch vụ, trong đó quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và
ngược lại. Mỗi bên trong hợp đồng đều chịu sự ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia,
đồng thời cũng là bên có quyềnđồi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong
hợp đồng dịch vụ tồn tại hai nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật
thiết với nhau, đó là: bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lí theo yêu
cầu của bên thuê dịch vụ còn bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả cơng việc
và trả tiền cơng cho bên cung ứng dịch vụ. Ví dụ như trong hợp đồng dịch vụ viễn
thông – cung cấp mạng giữa nhà mạng FPT và bà H. Bên nhà cung cấp dịch vụ (nhà

7


mạng FPT) có nghĩa vụ cung cấp mạng internet cho bà H và bà H có nghĩa vụ trả tiền
dịch vụ theo quy định trong hợp đồng đã kỹ trước đó.
Thứ hai, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng ưng thuận: Quyền và nghĩa vụ của bên
cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ phát sinh ngay sau khi các bên đã thoả thuận với
nhau xong về nội dung của hợp đồng. Trong hợp đồng dịch vụ, dù rằng các bên chưa
trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng đã phát sinh quyền yêu cầu của bên
này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Hay nói cách khác, hợp đồng dịch
vụ là hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được xác định tại thời điểm giao kết.
Thứ ba, hợp đồng dịch vụ luôn gắn liền với cơ chế thị trường: Như Các Mác đã

khẳng định: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, khi mà nền kinh tế
hàng hố phát triển mạnh, địi hỏi một sự lưu thông thông suốt, trôi chảy, liên tục để
thoả mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con người thì dịch vụ ngày càng phát triển”
[3.III, Kiều Thị Thuỳ Linh (2017), Hợp đồng dịch vụ theo quy định pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Trường đại học Luật Hà Nội]. Mà thị trường là nơi giao dịch mua bán, chuyển nhượng
hàng hoá, dịch vụ, …. Vì vậy, dịch vụ gắn liền với thị trường và chịu ảnh hưởng của
quy luật thị trường. Do đó, hợp đồng dịch vụ ln gắn liền với cơ chế thị trường.
Thứ tư, hợp đồng dịch vụ có đối tượng là công việc thực hiện được: Thật vậy,
bởi dịch vụ là hoạt động của con người nhằm thực hiện công việc nhất định đáp ứng
nhu cầu của chủ thể trong xã hội. Và hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận của các bên
trong hợp đồng về việc bên cung ứng thực hiện một công việc nhằm thoả mãn nhu cầu
của bên thuê. Do đó, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là cơng việc có thể thực
hiện hiện được và không trái với đạo đức xã hội hay vi phạm điều cấm của luật.
Thứ năm, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù: Trong hợp đồng dịch vụ,
bên thuê dịch vụ phải trả tiền công (phí dịch vụ) cho bên cung ứng dịch vụ đã thực
hiện công việc và mang lại kết quả như đã thoả thuận.
1.1.4. Phân loại hợp đồng dịch vụ
Có rất nhiều cách phân loại hợp đồng dịch vụ và sau đây là một số cách phân
loại hợp đồng dịch vụ:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất quốc tế của hợp đồng gồm có: Hợp đồng dịch
vụ nội địa và hợp đồng dịch vụ quốc tế. Trong đó, hợp đồng dịch vụ nội địa là hợp
đồng dịch vụ được giao kết giữa các chủ thể trong nước và đối tượng của hợp đồng là
công việc được thực hiện trong phạm vi của nước sở tại. Còn hợp đồng dịch vụ quốc tế
là loại hợp đồng dịch vụ mà có đối tượng hợp đồng được cung cấp ở nước ngoài.
Thứ hai, căn cứ vào dịch vụ quy định trong Luật thương mại 2005 gồm có: Hợp
đồng dịch vụ khuyến mại; hợp đồng dịch vụ quảng cáo; hợp đồng dịch vụ trưng bày,

8



giới thiệu hàng hoá dịch vụ; hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá; hợp đồng
dịch vụ quá cảnh; hợp đồng nhượng quyền thương mại. Tất cả các loại hợp đồng trên
đều là hợp đồng dịch vụ thuong mại nên một bên chủ thể sẽ là thương nhân. Ví dụ,
hợp đồng dịch vụ q cảnh hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó thương
nhân thực hiện việc quá cảnh cho hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước
ngoài qua lãnh thổ Việt Nam để hưởng thù lao.
Thứ ba, căn cứ vào BLDS 2015 gồm có: hợp đồng dịch vụ vận chuyển hành
khách (Điều 522), hợp đồng dịch vụ bảo hiểm, hợp đồng vận chuyển tài sản (Điều
530), hợp đồng gia công (Điều 542), hợp đồng gửi giữ tài sản (Điều 554), hợp đồng uỷ
quyền (Điều 562) và hợp đồng dịch vụ khác. Theo đó, tại quy định của Điều 522, hợp
đồng vận chuyền hành khách được hiểu là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên vận
chuyển chuyên chở hành khách, hành lý đến địa điểm đã định theo thoả thuận, hành
khách phải thanh tốn cước phí vận chuyển. Và cũng như vậy hợp đồng gia công là sự
thoả thuận của các bên, theo đó bên gia cơng sẽ thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm
theo yêu cầu của bên đặt gia công và bên đặt gia công sẽ phải nhận sản phẩm và trả
tiền công.
Thứ tư, căn cứ vào kết quả thực hiện gồm có hợp đồng dịch vụ có kết quả là lợi
ích vật chất và hợp đồng dịch vụ có kết quả là lợi ích tinh thần. Hợp đồng dịch vụ có
kết quả là lợi ích vật chất là hợp đồng dịch vụ có cơng việc thực hiện được và tạo ra lợi
ích là một sản phẩm mà chúng ta có thể thấy được. Ví dụ: hợp đồng dịch vụ gia cơng
cốc, theo đó bên th yêu cầu bên cung ứng dịch vụ làm cho mình 100 cái cốc. Như
vậy kết quả đạt dược của hợp đồng dịch vụ này là 100 cái cốc (vật chất). Cịn hợp
đồng dịch vụ có kết quả là lợi ích tinh thần là loại hợp đồng dịch vụ mà kết quả đem
lại là thứ chúng ta không thể thấy được, khơng thể cầm nắm được. Ví dụ, hợp đồng
dịch vụ Karaoke, lợi ích đem lại là sự thoải mái trong tinh thần của bên thuê.
Thứ năm, căn cứ vào chủ thể hưởng lợi ích gồm có: Hợp đồng dịch vụ vì lợi ích
bên th và hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba. Trong đó, hợp đồng dịch vụ
vì lợi ích của bên th là hợp đồng dịch vụ mà bên thuê và bên nhận lợi ích từ dịch vụ
thuê là cùng một chủ thể. Còn hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba nghĩa là

người hưởng lợi ích từ dịch vụ được cung cấp và bên thuê là hai chủ thể khác nhau.
Thứ sáu, căn cứ vào chủ thể cung ứng dịch vụ gồm có hợp đồng dịch vụ có bên
cung ứng là cá nhân và hợp đồng dịch vụ có bên cung ứng là pháp nhân. Như chúng ta
đã biết, chủ thể tham gia hợp đồng nói chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng có thể là
tổ chức, cá nhân, pháp nhân có năng lực dân sự. Do đó, chủ thể cung ứng dịch vụ có
thể là cá nhân, pháp nhân có năng lực dân sự. Vì vậy, tuỳ theo chủ thể cung ứng dịch

9


vụ ta sẽ có hợp đồng dịch vụ có chủ thể cung ứng dịch vụ là pháp nhân và hợp đồng
cung ứng dịch vụ là cá nhân.
1.1.5. Vai trò của hợp đồng dịch vụ đối với các doanh nghiệp
Thứ nhất, hợp đồng dịch vụ là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện việc
cung ứng dịch vụ cho khách hàng: Nền kinh tế thị trường phát triển là cơ hội cho các
doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phát triển. Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ sẽ cung
cấp dịch vụ cho khách hàng của mình dựa trên cơ sở hợp đồng. Và khi đó, hợp đồng
dịch vụ chính là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện việc cung cấp dịch vụ và
đảm bảo quyền lợi của mình khi thực hiện xong hợp đồng. Bởi hợp đồng dịch vụ là
những thoả thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng do đó nó có ý
nghĩa như là một văn bản pháp luật điều chỉnh quyền và trách nhiệm của các bên trong
quan hệ hợp đồng nhằm đảm bảo quyền lợi của mỗi bên.
Thứ hai, hợp đồng dịch vụ là công cụ quan trọng để doanh nghiệp nâng cao sức
cạnh tranh của mình trong hoạt động kinh doanh: Tài chính là một trong những yếu tố
quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua hợp đồng, các
doanh nghiệp dịch vụ sẽ xác định được chi phí, giá cả theo một thời gian nhất định
trong quá trình cung cấp dịch vụ, tránh được những rủi ro tiềm ẩn trong việc tăng chi
phí khi hoạt động. Từ đó giúp cho doanh nghiệp xây dựng được kế hoạch tài chính – là
điều quan trọng nhất trong việc thực hiện các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hợp đồng dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng uy tín và thương hiệu - một trong

những điều kiện chứng minh và tạo cơ hội cạnh tranh lớn.
Thứ ba, hợp đồng dịch vụ là công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp Việt Nam thâm
nhập thị trường dịch vụ nước ngoài: Cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế đặc
biệt là trong thời kỳ hội nhập kinh tế như hiện nay thì hoạt động cung cấp dịch vụ
khơng chỉ gói gọn trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà được rộng sang thị trường
quốc tế. Đây là một cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị
trường của mình. Đồng thời tạo ra một cơ hội phát triển mới.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Việt Nam chuyển từ nền
kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
phù hợp với đường lối mới của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển, trong đó có lĩnh vực dịch vụ. Dịch vụ ngày càng phát
triển và đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Và trong quá trình cung ứng, sử
dụng dịch vụ được thực hiện giữa các chủ thể thường trên cơ sở giao kết hợp đồng
dịch vụ. Trước thực tế này, nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia trong quan

10


hệ hợp đồng dịch vụ, pháp luật Việt Nam đã có quy định cụ thể điều chỉnh mối quan
hệ này. Cụ thể, tại mục 7 Chương II Phần thứ ba Bộ luật dân sự 1995 – Bộ luật dân sự
đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định về hợp đồng dịch
vụ, đánh dấu sự quan trọng của pháp luật về hợp đồng dịch vụ.
Cùng với sự phát triển không ngừng của dịch vụ cũng như xã hội, Luật thương
mại 2005 ra đời điều chỉnh cụ thể các hoạt động cung ứng dịch vụ trong họat động
thương mại, BLDS 2015 ra đời và các luật có liên quan, nghị định thơng tư liên quan
đến hợp đồng dịch vụ ngày càng được chú trọng ban hành, sửa đổi để phù hợp với
thực tế áp dụng nhằm mục đích đưa hoạt động cung ứng dịch vụ đi đúng hướng; các
chủ thể trong quan hệ hợp đồng dịch vụ được tự do nhưng trong khuôn khổ pháp luật,

thúc đẩy kinh tế; đồng thời tạo điều kiện để Nhà nước dễ dàng quản lý hoạt động cung
ứng dịch vụ của các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại do đó chịu sự điều
chỉnh của LTM 2005 và pháp luật có liên quan. Tùy từng lĩnh vực cụ thể như dịch vụ
tư vấn, dịch vụ thiết kế, dịch vụ giám định… chịu sự điều chỉnh của các quy định cụ
thể khác nhau. Các hợp đồng dịch vụ cụ thể chịu sự điều chỉnh của LTM 2005 và
BLDS 2015. Đối với những hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngồi mà Việt Nam là
thành viên của điều ước quốc tế có quy định áp dụng pháp luật nước ngồi, tập quán
thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của LTM, BLDS thì áp dụng
quy định của Điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch nước ngoài được thỏa thuận
áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế đó khơng trái với các ngun tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ chịu sự điều chỉnh của LTM 2005, BLDS 2015, Điều ước
quốc tế và tập quán thương mại quốc tế có liên quan.
BLDS 2015 với vai trị là luật chung đã quy định chi tiết các vấn đề về giao kết
và thực hiện hợp đồng nói chung tại mục 7 chương XV và vấn đề giao kết hợp đồng
dịch vụ nói riêng từ Điều 513 đến Điều 521. Về vấn đề giao kết hợp đồng dịch vụ,
BLDS 2015 quy định đầy đủ về nguyên tắc, đối tượng, trình tự thủ tục, hình thức và
nội dung giao kết hợp đồng dịch vụ. Bên cạnh đó, BLDS 2015 cũng đưa ra những quy
định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ để đảm bảo
lợi ích hợp pháp của các bên và hạn chế tranh chấp xảy ra.
Trong khi đó, LTM 2005 với vai trị là luật chuyên ngành, đã mở rộng phạm vi
điều chỉnh so với LTM 1997, không chỉ điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hố
mà cịn điều chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ. Hoạt động cung ứng dịch vụ nói
chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng được quy định trong chương III của Luật này.

11



Trong chương này quy định chung đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ và quyền,
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ. Ngoài ra, LTM 2005 cịn có các quy
định về hình thức hợp đồng dịch vụ, các dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh
và kinh doanh có điều kiện làm cơ sở quản lý nhà nước về hoạt động cung cấp dịch vụ.
Song LTM 2005 có những quy định chung về quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng
dịch vụ và khách hàng, luật còn đưa ra các quy định đặc thù về nghĩa vụ của bên cung
ứng dịch vụ tuỳ theo tính chất của loại dịch vụ.
Như vậy, nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ bao gồm các nội
dung cơ bản như đối tượng hợp đồng dịch vụ, chủ thể, quyền nghĩa vụ các bên, ….. Cụ
thể, tại Điều 514 BLDS 2015 quy định, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải thoả mãn
ba yêu cầu: công việc có thể thực hiện được, khơng vi phạm điều cấm của luật và không
trái với đạo đức xã hội. Hay nói cách khác, đối tượng của hợp đồng dịch vụ là các cơng
việc có thể thực hiện được, khơng bị luật cấm và không trái với đạo đức xã hội. Ví dụ:
hợp đồng dịch vụ sửa chữa thang máy thì đối tượng của hợp đồng dịch vụ này là hoạt
động sửa chữa thang máy. Bên cạnh đó, pháp luật dân sự khơng có quy định riêng biệt
đối với chủ thể của hợp đồng dịch vụ nên chủ thể của hợp đồng dịch vụ phải tuân thủ
các điều kiện đặt ra đối với chủ thể tham gia giao dịch dân sự nói chung. Do đó, chủ thể
tham gia hợp đồng dịch vụ là những cá nhân, tổ chức có đầy đủ năng lực pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự. Và chủ thể của hợp đồng dịch vụ bao gồm bên cung ứng
dịch vụ và bên thuê dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ và bên thuê dịch vụ có thể là cá
nhân, pháp nhân. Và chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có thể khơng phải là các bên
trong hợp đồng mà là người đại diện theo pháp luật hoặc uỷ quyền.
Ngồi ra, BLDS 2015 cịn có quy định về trả tiền dịch vụ. Cụ thể, theo quy định
của Điều 519 BLDS 2015, bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ tại địa điểm thực hiện
cơng việc khi hồn thành dịch vụ trừ khi có thoả thuận khác. Và theo quy định của
LTM 2005 thì một bên có nghĩa vụ thanh tốn theo trình tự, thủ tục đã thoả thuận và
theo quy định của pháp luật. Trong hợp đồng dịch vụ, giá thường được xác định dựa
trên các căn cứ như đơn giá, điều kiện cơ sở tính giá, điều khoản bảo lưu về giá hàng
hoá, …. Theo nguyên tắc giá cả cần phải được quy định rõ, đúng và chính xác. Giá do
các bên thoả thuận hoặc do bên thứ ba xác định theo yêu cầu của các bên và được ghi

vào hợp đồng. Trong trường hợp, khi giao kết hợp đồng khơng có thoả thuận về giá
dịch vụ, phương thức xác định giá dịch vụ và khơng có bất kỳ chỉ dẫn nào về giá dịch
vụ thì giá dịch vụ được xác định căn cứ vào giá thị trường của dịch vụ cùng loại tại
thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng.
Tiếp đến là các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện hợp
đồng dịch vụ. Đối với quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ: Theo quy định

12


của Điều 517, 518 BLDS 2015 thì bên cung ứng dịch vụ có các quyền và nghĩa vụ cơ
bản sau: thực hiện công việc đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thoả
thuận khác; Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc; Bảo quản và
giao lại tài liệu, phương tiện được giao sau khi hồn thành cơng việc cho bên th;
Báo cho bên th về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện khơng đảm bảo
chất lượng để hồn thành cơng việc; Giữ bí mật thơng tin; Bồi thường thiệt hại cho bên
thuê; Yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện; Thay đổi điều kiện dịch vụ;
Yêu cầu trả tiền dịch vụ. Còn đối với quyền và nghĩa vụ của bên thuê, ta có theo quy
định tại Điều 515, 516 và 519 BLDS 2015 thì bên th có các quyền và nghĩa vụ cơ
bản như cung cấp thông tin, tài liệu và các phương tiện cần thiết thực hiện dịch vụ; trả
tiền dịch vụ; yêu cầu thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa
điểm và các thoả thuận khác; Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Đó đều là những quyền và trách nhiệm của bên thuê và bên cung
ứng dịch vụ. Và nhìn vào đó, chúng ta có thể thầy rằng quyền của bên cung ứng dịch
vụ là nghĩa vụ của bên thuê và ngược lại.
BLDS 2015 khơng quy định riêng về hình thức hợp đồng dịch vụ nên hình thức
hợp đồng dịch vụ sẽ theo quy định về hình thức của hợp đồng thơng thường là có thể
thể hiện bằng lời nói, hành vi và văn bản, đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp
luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tn theo quy định đó. Tuy nhiên,
theo quy định LTM 2005, hợp đồng dịch vụ thì phải được lập bằng văn bản trừ khi có

quy định khác của pháp luật. Theo đó, đối với các hợp đồng dịch vụ có tính thương
mại thì hình thức của hợp đồng là văn bản trừ các trường hợp pháp luật có quy định
khác. Sau khi các bên đàm phán và ghi trong hợp đồng, mọi thỏa thuận ghi trong hợp
đồng ràng buộc các bên. Hợp đồng thể hiện rõ quyền lợi cũng như nghĩa vụ mà mỗi
bên trong hợp đồng có được. Các bên bắt đầu tiến hành thực hiện hợp đồng theo đúng
thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Pháp luật dân sự khơng có quy định riêng về thực hiện
hợp đồng dịch vụ nên việc thực hiện hợp đồng này tuân thủ theo nguyên tắc thực hiện
hợp đồng nói chung và thực hiện giao dịch dân sự. Quy định pháp luật về thực hiện
hợp đồng dịch vụ có một số nội dung chủ yếu sau: nguyên tắc thực hiện hợp đồng dịch
vụ, thực hiện hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba và tiếp tục thực hiện hợp
đồng dịch vụ. Theo quy định tại Điều 3 BLDS 2015, thực hiện hợp đồng dịch vụ tuân
thủ theo nguyên tắc: bên cung ứng dịch vụ và bên thuê thực hiện đúng hợp đồng; bên
cung ứng dịch vụ và bên thuê phải thực hiện trung thực, theo tinh thần hợp tác và có
lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau; bên cung ứng và bên thuê không được
xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích của người khác.
Đúng vậy, bởi tin tưởng lẫn nhau là cơ sở để sự hợp tác của các bên trong quan hệ hợp

13


đồng được bền chặt và đạt được kết quả tốt nhất. Các bên trong quan hệ hợp đồng sẽ
hợp tác và cùng thực hiện cơng việc có lợi nhất cho đối tác của mình đồng thời sự hợp
tác đó khơng được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác. Vì nếu thực hiện hợp đồng mà làm xâm phạm đến lợi
ích hợp pháp của người khác, lợi ích quốc gia thì hợp đồng đó sẽ phải chấm dứt và
không được thực hiện. Do vậy, khi thực hiện hợp đồng khơng được xâm phạm đến lợi
ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của người khác và đảm bảo thực
hiện hợp đồng một cách trung thực, tin tưởng lẫn nhau.
Theo Điều 521 BLDS 2015 quy định về tiếp tục thực hiện hợp đồng: “Sau khi
kết thúc thời hạn thực hiện công việc theo hợp đồng dịch vụ mà cơng việc chưa hồn

thành và bên cung ứng dịch vụ vẫn tiếp tục thực hiện công việc, bên sử dụng dịch vụ
biết nhưng khơng phản đối thì hợp đồng dịch vụ đương nhiên được tiếp tục thực hiện
theo nội dung đã thỏa thuận cho đến khi công việc được hồn thành”. Theo đó, hợp
đồng tiếp tục thực hiện khi kết thúc thời hạn thực hiện hợp đồng nhưng cơng việc chưa
hồn thành và bên cung ứng dịch vụ vẫn tiếp tục thực hiện công việc. Và thời gian tiếp
tục thực hiện hợp đồng là thời gian bên cung ứng hồn thành cơng việc quy định trong
hợp đồng dịch vụ.
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
1.3.1. Ngun tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí hợp tác, trung thực và ngay
thẳng
Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng và
bảo đảm nội dung của quan hệ đó. Hợp đồng phải thể hiện được sự tương ứng về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên. Các bên khi giao kết không được đe
dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng với mình mà khơng theo ý chí của họ. Nếu
phát hiện hợp đồng được giao kết mà bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối để giao kết thì hợp
đồng đó sẽ bị vơ hiệu.
Bên cạnh đó, trong q trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thể
hiện rõ thái độ trung thực và ngay thẳng. Trung thực và ngay thẳng có nghĩa là các
phải nói rõ cho nhau biết về tình trạng và đặc tính của đối tượng, khơng được lừa dối
nhau, nếu che dấu khuyết tật của đối tượng hợp đồng nhằm mục đích tư lợi mà gây
thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường.
Ngồi ra, các bên phải có tinh thần hợp tác với nhau. Trong quá trình thực hiện
hợp đồng, các bên phải hỗ trợ, giúp đỡ nhau và thông tin cho nhau để đáp ứng nhu cầu
và bảo đảm lợi ích cho các bên. Theo nguyên tắc này, các bên phải hỗ trợ nhau, tạo
điều kiện để các bên hồn thành tốt nghĩa vụ của mình.

14


1.3.2. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng dịch vụ nhưng không được trái pháp

luật, đạo đức xã hội
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng nói chung và hợp
đồng dịch vụ nói riêng. Theo nguyên tắc này thì các bên đủ tư cách chủ thể có quyền
tự do quyết định việc giao kết hợp đồng dịch vụ theo ý muốn chủ quan và vì lợi ích
của chính họ. Các bên chủ thể có quyền tự do lựa chọn việc giao kết với ai, với nội
dung như thế nào, hình thức ra sao. Mọi cam kết thoả thuận hợp pháp đều được nhà
nước bảo hộ và khi khơng có sự tự nguyện của các bên có thể bị tun bố vơ hiệu. Tuy
nhiên, sự tự do đó khơng được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Khi đó thì hợp
đồng giao kết mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
1.4.3. Nguyên tắc khơng được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, lợi ích cơng
cộng, lợi ích hợp pháp của người khác
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi bên tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế
đều xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Do đó, khi tham gia giao kết hợp đồng dịch
vụ, các bên cùng nhau thoả thuận những điều khoản hợp đồng theo hướng có lợi nhất
cho các bên, không bên nào được lừa dối hay chèn ép bên nào. Việc thỏa thuận khi
tham gia giao kết hợp đồng dịch vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng dịch vụ không
được tùy tiện mà phải trong khuôn khổ pháp luật cho phép và chú ý đến lợi ích của
quốc gia, lợi ích cộng đồng và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân khác.
Nói cách khác, cá nhân, pháp nhân khi tham gia giao kết hợp đồng phải trong giới hạn
của pháp luật cho phép; quyền của cá nhân, pháp nhân luôn bị giới hạn bởi lợi ích của
Nhà nước, lợi ích cơng cộng và quyền của cá nhân, pháp nhân khác. Việc xâm phạm
đến các lợi ích này đều bị pháp luật cấm và nếu gây thiệt hại cho cá nhân, pháp nhân
khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường (trừ trường hợp bất khả kháng như thiên tai,
hỏa hoạn hoặc do thực hiện quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền).
Để thực hiện nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng dịch vụ, các cá
nhân, pháp nhân phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, luôn coi lợi ích quốc
gia, dân tộc, cộng đồng là trên hết. Bên cạnh đó, phải chú ý đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, pháp nhân khác. Khi gặp các giao dịch xâm phạm đến lợi ích này,
pháp nhân, cá nhân phải từ chối cam kết, thỏa thuận.


15


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG DỊCH
VỤ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN CƠNG
NGHỆ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU BÌNH MINH
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh
hợp đồng dịch vụ
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Năm 2021, cơ cấu nền kinh tế Việt Nam như sau: khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%;
khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%
[2.IV, TTXVN (2021), “Toàn cảnh kinh tế-xã hội Việt Nam năm 2021”, trang thông
tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021]. Như
vậy, ngành dịch vụ đang chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế Việt Nam. Hay
nói cách khác, dịch vụ là hoạt động kinh tế chính ở Việt Nam và hiện nay, hoạt động
dịch vụ không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra các quốc gia
khác nhau trên thế giới. Các hoạt động dịch vụ diễn ra một cách thường xuyên, liên tục
hình thành nên các hợp đồng dịch vụ với số lượng tăng nhanh theo nhu cầu thị trường,
đặc biệt từ khi Viẹt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hợp đồng
dịch vụ là một chế định thiết lập nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các chủ thể khi tham gia thị trường thương mại dịch vụ, là cơ sở pháp lý, là công cụ
hữu hiệu cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và
thâm nhập thị trường nước ngoài.
Cùng với những biến đổi đa dạng của xã hội cũng như nền kinh tế, hệ thống
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng dịch vụ được xây dựng, hoàn thiện và đi vào
cuộc sống. Các vấn đề liên quan đến hợp đồng dịch vụ được điều chỉnh tương đối toàn
diện trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, nhóm các quy định chung về hợp đồng dịch vụ: nhóm này quy định
những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc đối với hoạt động cung ứng dịch vụ, hợp

đồng dịch vụ. Những vấn đề về giao kết hợp đồng được quy định trong mục 7, chương
XV của BLDS 2015 và những quy định về hợp đồng dịch vụ thuộc mục 9 chương XVI
của BLDS 2015.
Thứ hai, nhóm các quy định chuyên ngành về hợp đồng dịch vụ: Bên cạnh
những quy định chung về hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2015 thì LTM 2005 quy định
khá cụ thể về các vấn đề liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ và hợp đồng dịch
vụ. Ngoài ra, một số ngành dịch vụ đặc thù còn được quy định tại các luật và các văn
bản pháp luật chuyên ngành khác như: Luật Du lịch 2017; Luật Kinh doanh bảo hiểm
2000 sửa đổi, bổ sung 2010, 2019; Luật Viễn thông 2009,...

16


Thứ ba, nhóm các quy định về hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngồi (điển
hình là hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS): Cùng với tiến trình tự do hóa
thương mại, Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nên việc thực hiện các
giao dịch có yếu tố nước ngồi là tương đối phổ biến. Trường hợp điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp
luật nước ngồi, tập qn thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của
LTM 2005, BLDS 2015 thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế. Các bên trong giao
dịch thương mại có yếu tố nước ngồi được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài,
tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế
đó khơng trái với các ngun tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Thứ nhất, nhân tố về kinh tế. Nước ta đang từng bước chủ động hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tháng 7/1995 Việt Nam gia nhập ASEAN
mở đầu cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp đó, sự kiện Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã đánh dấu bước hội
nhập của nước ta với nền kinh tế thế giới. Giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã tích cực,
chủ động trong đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do mới với các đối

tác. Đến nay, Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 Hiệp định thương
mại tự do (FTA) có hiệu lực và 01 FTA đã chính thức ký kết, sắp có hiệu lực, hiện
đang đàm phán 02 FTA. Trong số 14 FTA đã có hiệu lực và đang triển khai, Hiệp định
Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là FTA thế hệ mới đầu
tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam Liên minh Châu Âu (EVFTA).
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cũng như những thách
thức cho các doanh nghiệp và nền kinh tế của Việt Nam. Cơ hội lớn nhất là mở rộng
thị trường nhờ cắt giảm thuế và xóa bỏ rào cản thương mại để tham gia sâu hơn vào
chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Tăng trưởng và phát triển kinh tế ảnh hưởng rất
lớn đến việc giao kết hợp đồng dịch vụ. Theo đó, khi nền kinh tế Việt Nam ngày càng
phát triển thì số lượng và mức độ phức tạp của các hợp đồng kinh tế - thương mại, của
các hợp đồng dịch vụ ngày càng tăng. Vì thế, kinh tế phát triển là điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của các hoạt động cung ứng dịch vụ nói chung và của hợp đồng dịch
vụ nói riêng.
Thứ hai, nhân tố con người. Khác với nhu cầu về hàng hóa là có giới hạn, nhu
cầu dịch vụ của con người khơng có điểm dừng cuối cùng. Nhu cầu dịch vụ xuất hiện
trong tất cả các lĩnh vực sản xuất cũng như đời sống sinh hoạt của con người. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, mức sống của con người ngày càng cao

17


nên nhu cầu về dịch vụ càng mới, ngày càng nhiều hơn về số lượng và cao hơn về chất
lượng. Do đó, số lượng cũng như tính phức tạp của mỗi hợp đồng dịch vụ ngày càng
tăng. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, nhận thức của con người về pháp luật hợp đồng dịch
vụ, đặc biệt là pháp luật về giao kết hợp đồng dịch vụ trở nên hết sức quan trọng. Nó
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của các cá nhân, tổ chức kinh tế khi tham
gia giao kết hợp đồng dịch vụ. Chính vì thế, nâng cao nhận thức của con người về
pháp luật hợp đồng dịch vụ là cách tốt nhất để giảm thiểu tối đa những rủi ro tiềm ẩn
có thể xảy ra.

Thứ ba, nhân tố kỹ thuật. An toàn trong giao kết hợp đồng luôn là vấn đề lớn
đối với sự thành công của một hợp đồng dịch vụ hay xa hơn là sự thành công trong
hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức hay bất kỳ một chủ thể
nào trong nền kinh tế. Đây là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới việc giao kết
hợp đồng dịch vụ của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải có đầy đủ các phương
tiện, thiết bị, cơng cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật.
Thứ tư, các nhân tố khác. Ngồi các nhân tố trên, cịn một số nhân tố khác ảnh
hưởng đến giao kết hợp đồng dịch vụ như: sự quản lý của Nhà nước về vấn đề giao kết
hợp đồng dịch vụ; mức độ chặt chẽ của các quy định pháp luật về hợp đồng; nhận thức
của doanh nghiệp, của các chủ thể về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ; văn hóa
doanh nghiệp,.....Theo quy định của pháp luật, các bên chủ thể tham gia giao kết hợp
đồng có quyền tự do giao kết hợp đồng trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Và nếu
Nhà nước không quản lý việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng dịch vụ nói
riêng thì rất có thể sẽ có nhều sai phạm trong giao kết và thực hiện hợp đồng. Vì thế,
sự quản lý của Nhà nước về vấn đề giao kết hợp đồng dịch vụ ln là đóng vai trị hết
sức quan trọng bởi Nhà nước là chủ thể quản lý, ban hành pháp luật và hợp đồng của
các chủ thể giao kết hợp đồng không được trái với luật, vi phạm điều cấm của luật vì
nó ảnh hưởng đến tính có hiệu lực của hợp đồng. Do đó, để hợp đồng ký kết có hiệu
lực thì các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng cần tìm hiểu rõ các quy định pháp
luật về giao kết hợp đồng dịch vụ. Bên cạnh đó, mức độ chặt chẽ của các quy định
pháp luật về hợp đồng cũng rất quan trọng. Bởi sự chặt chẽ trong quy định pháp luật
về hợp đồng giúp cho các chủ thể trong quan hệ hợp đồng ít gặp rủi ro khi giao kết
hợp đồng. Việc thiếu chặt chẽ trong quy định pháp luật về giao kết hợp đồng nói
chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng tạo nên những lỗ hổng của luật dẫn đến tình trạng
các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng có thể dựa vào những lỗ hổng đó để lách
luật và có thể gây thiệt hại cho các chủ thể khác trong hợp đồng hoặc ảnh hưởng đến
lợi ích của bên thứ ba.

18



2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định cụ thể về hợp đồng dịch vụ, đặc biệt ghi
nhận trong Bộ luật Dân sự và luật thương mại. Các quy định cơ bản của pháp luật điều
chỉnh hợp đồng dịch vụ bao gồm:
2.2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh đối tượng hợp đồng dịch
vụ
Như đã phân tích tại Chương 1, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải thoả mãn
3 yêu cầu là: công việc có thể thực hiện được, khơng vi phạm điều cấm của luật và
không trái với đạo đức xã hội. Việc pháp luật quy định yêu cầu đối với đối tượng hợp
đồng dịch vụ có ý nghĩa trong việc buộc các chủ thể khi giao kết hợp đồng không chỉ
quan tâm việc đem lại lợi ích cho mình mà phải quan tâm đến sự ảnh hưởng của nó tới
lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Nhưng việc quy định không rõ ràng ranh giới giữa đối tượng hợp đồng này với đối
tượng hợp đồng thực hiện công việc đẫn đến khó khăn trong việc xác định hợp đồng
nào là hợp đồng dịch vụ và hợp đồng nào là hợp đồng thực hiện cơng việc. Điều đó
đẫn đến những khó khăn khi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
dịch vụ và hợp đồng thực hiện công việc.
2.2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh chủ thể hợp đồng dịch vụ
Cũng như phân tích ở Chương 1, chủ thể của hợp đồng dịch vụ là những cá
nhân, tổ chức có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đặc
biệt chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có thể không phải là các bên trong hợp đồng
mà là người đại diện theo pháp luật hoặc uỷ quyền. Do đó, việc xem xét chủ thể hợp
đồng dịch vụ cần phải xem xét năng lực hành vi dân sự, sự tự nguyện của bên cung
ứng, bên thuê dịch vụ cũng như người trực tiếp giao kết hợp đồng.
2.2.3. Thực trạng pháp luật quy định về giá dịch vụ và trả tiền dịch vụ
Khoản 2 Điều 519 BLDS 2015 quy định về cách thức xác định giá dịch vụ:
“Khi giao kết hợp đồng, nếu khơng có thỏa thuận về giá dịch vụ, phương pháp xác
định giá dịch vụ và khơng có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ
được xác định căn cứ vào giá thị trường của dịch vụ cùng loại tại thời điểm và địa

điểm giao kết hợp đồng”. Theo đó, khi các bên khơng có thoả thuận gì về giá khi giao
kết hợp đồng thì giá dịch vụ sẽ được xác định theo giá thị trường của dịch vụ cùng
loại. Tuy nhiên, pháp luật chưa có định nghĩa về giá dịch vụ, dịch vụ cùng loại. Do đó,
việc xác định giá dịch vụ trên thực tế là rất khó.
Bên cạnh đó, trong thực tiễn đời sống, tuỳ vào loại công việc mà giá dịch vụ
được gọi dưới nhiều tên khác như phí dịch vụ, học phí, lệ phí, …. Pháp luật có quy
định về trả tiền dịch vụ của bên thuê cho bên cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, quy định

19


×