Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tìm hiểu giá trị văn hóa của người h’mông trong phát triển du lịch ở sapa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.29 MB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN

VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC
VIỆT NAM
Tên đề tài: Tìm hiểu giá trị văn hóa của người
H’mơng trong phát triển du lịch ở Sapa hiện nay

Họ và tên: Nguyễn Đặng Thanh Trúc
Mã sinh viên: 2057810021
Lớp tín chỉ số: 01
GVHD: Bùi Hồng Hạnh

Hà Nội, tháng 10, năm 2021


MỤC LỤC
Tên mục

Trang

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA CỦA TỘC NGƯỜI
H’MƠNG Ở SAPA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Các khái niệm liên quan về văn hóa, tộc người
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
1.1.2. Khái niệm về tộc người
1.1.3. Khái niệm về văn hóa tộc người
1.2. Khái quát về hoạt động du lịch ở Sapa, Lào Cai


1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.2. Các địa điểm du lịch ở Sapa
1.2.3. Hoạt động kinh doanh du lịch ở Sapa
1.2.4. Vai trị của người H’mơng trong phát triển du lịch ở Sapa
1.3. Những nét đặc trưng văn hóa của tộc người H’mơng ở Sapa
1.3.1. Văn hóa vật thể
1.3.2. Văn hóa phi vật thể
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA TỘC
NGƯỜI H’MƠNG TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở SAPA HIỆN NAY
2.1. Những thực trạng trong khai thác du lịch văn hóa tộc người H’mơng tại Sapa
2.1.1. Thực trạng các giá trị văn hóa tộc người
2.1.2. Tình hình du khách đến tham quan các làng ở Sapa
2.1.3. Thực trạng về các nhà quản lí và đội ngũ lao động
2.2. Tác động của du lịch đến đời sống văn hóa – xã hội của tộc người H’mơng
ở Sapa
2.2.1. Du lịch làm nảy sinh và phát triển các ngành nghề mới, khôi phục các nghề
truyền thống
2.2.2. Du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống người
H’mơng, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo ở các làng người H’mơng
2.2.3. Du lịch tác động tích cực đến nếp sống ở các làng người H’Mông
2.2.4. Tác động tiêu cực của du lịch đến các làng người H’mông ở Sapa
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÌN GIỮ VÀ KHAI THÁC
HIỆU QUẢ NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA TỘC NGƯỜI H’MÔNG
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI SAPA
3.1. Nâng cao vai trò của cộng đồng người dân địa phương (cộng đồng
các làng H’mơng)
3.2. Xây dựng mơ hình các làng du lịch văn hoá trở thành điểm du lịch
hấp dẫn của người H’mông Sapa
3.3. Thu hút đầu tư và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch
3.4. Tuyên truyền quảng cáo tiếp thị du lịch

3.5. Xây dựng một số chương trình du lịch có khai thác văn hóa tộc người
H’mơng ở Sapa
C. KẾT LUẬN
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO

01
02
02
02
02
02
03
04
04
05
06
07
07
08
09
13
13
13
14
14
14
14
15
15

16
17
17
17
18
18
19
21
22
24


A. MỞ ĐẦU
Ngày nay, du lịch đã trở thành hoạt động phổ biến trong đời sống văn hóa xã
hội của mỗi con người và ngành du lịch đã đem lại những lợi ích to lớn về nhiều
mặt cho các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nước
ta là một quốc gia có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Bên cạnh tiềm năng
du lịch về tự nhiên thì ở Việt Nam điểm đặc biệt thu hút khách du lịch đó chính
là sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc, với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều
có những nét đặc trưng về văn hóa, phong tục tập quán và lối sống riêng tạo nên
một bức tranh văn hóa đầy màu sắc. Nằm trong vùng du lịch Tây Bắc Bộ, Sapa là
thị trấn thuộc tỉnh Lào Cai, đây là một trong những điểm du lịch nổi tiếng ở nước
ta được tạo hóa thiên nhiên ưu ái ban tặng cho một bức tranh phong cảnh vừa lãng
mạn vừa hùng vĩ, bao la. Khí hậu Sapa quanh năm mát mẻ cùng những dấu ấn
bản địa độc đáo bởi Sapa còn là nơi sinh sống của các dân tộc H’mông, Dao và
một số dân tộc ít người khác cùng nhau tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho du khách
muốn khám phá nơi đây. Trong đó, người H’Mong là dân tộc sinh sống đông nhất
ở Sapa. Tộc người H’mông ở Sa Pa có nhiều nét văn hóa đặc sắc về phong tục tập
qn, văn hóa ăn mặc, văn hóa ẩm thực, tơn giáo tín ngưỡng. Những nét văn hóa
phong phú, đa dạng của tộc người H’mông đã tạo cho Sapa một nét đẹp rất riêng

và đem lại cho vùng đất này một tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Tuy nhiên,
vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng của nó để phát triển du lịch, nâng cao mức
sống cho người dân địa phương, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân
tộc nơi đây. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Tìm hiểu giá trị văn hóa của người
H’mông trong phát triển du lịch ở Sapa hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình
để phần nào thấy được giá trị văn hóa của tộc người H’mơng. Cũng như nhận thức
được tầm quan trọng của việc khai thác các giá trị văn hóa trong hoạt động du
lịch, bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp góp phần phát triển du lịch thị trấn Sapa,
tỉnh Lào Cai.

1


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA CỦA TỘC
NGƯỜI H’MƠNG Ở SAPA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1.

Các khái niệm liên quan về văn hóa, tộc người

1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định
nghĩa lại phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau của tác giả.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nghiên cứu về văn hóa, Người viết rằng:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới phát minh ra
ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Có thể thấy quan
điểm này của Bác xuất phát từ cuộc sống cần lao, cả đời hy sinh phấn đấu vì hạnh
phúc của nhân dân lao động. Văn hóa phản ánh cuộc sống của tất cả những người

lao động, những sáng tạo từ cuộc sống.
Trong cuốn sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, GS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Theo UNESCO: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc kia”. Cũng trên quan điểm như vậy, ngài Fedérico Mayor – nguyên
Tổng Giám đốc UNESCO cũng đã từng nói: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một
cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong
quá khứ và cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ nó đã cấu
thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ, lối sống mà dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Nhìn chung các định nghĩa về văn hóa đều rất đa dạng. Tuy nhiên, để thấy
điểm chung thì các định nghĩa này đều cùng cho thấy rõ rằng văn hóa là sản phẩm
của con người. Đây là cách hiểu dễ nhất về văn hóa. Văn hóa bị chi phối bởi con
người và môi trường sống của họ nên văn hóa sẽ khác nhau ở mỗi nơi, mỗi vùng,
mỗi tộc người.
1.1.2. Khái niệm về tộc người
Theo GS.TS.Phan Hữu Dật, tộc người là cộng đồng người hình thành trong
lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, cùng có chung những đặc điểm tương đối bền
vững về ngơn ngữ, văn hóa, tâm lý, ý thức sự thống nhất của mình và làm cho
mình khác với các tộc người khác thơng qua tên tự gọi.
Cịn với PGS.TS.Bùi Xn Đính, ơng cho rằng: Tộc người là hình thái đặc
thù của một tập đồn người, một tập đồn xã hội, xuất hiện trong q trình phát
triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản, mang tính
ổn định và tương đối bền vững qua hàng ngàn năm lịch sử là ngơn ngữ, văn hóa,
ý thức tự giác về cộng đồng.
2



Có thể nói, tộc người (Ethnic) là một cộng đồng người hình thành và phát
triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về
ngơn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hố văn hóa, có mối quan hệ nguồn gốc, có
chung ý thức tự giác tộc người và tên tự gọi. Bên cạnh đó, tộc người còn được
hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người
có chung tiếng mẹ đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với nhóm ngơn ngữ
hay với nhóm dân tộc - ngơn ngữ mà các nhà ngơn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng
mẹ đẻ. Theo nghĩa này, tộc người là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần
nhất, sống cạnh nhau và có chung các đặc điểm về văn hố mà trong đó yếu tố
biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất
nhiều cá nhân sống đây đó trên thế giới có cùng một ngơn ngữ mẹ đẻ song lại
cách xa nhau về nhiều mặt, như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử
(thuộc nhiều quốc gia khác nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác
nhau)… thì liệu họ có cùng một tộc người kg, hay họ là những tộc người khác
nhau có cùng một ngôn ngữ, hay họ là một tộc người được chia ra làm nhiều tộc
người nhỏ…
Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết với
nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân chủng, ngơn ngữ,
chính trị,… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu
trúc mang tính văn hố chủ yếu - một nền văn hố riêng biệt. Nói một cách
ngắn gọn, tộc người là một tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được
gắn bó với nhau bởi một nền văn hố riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong
hệ thống tộc người có thể phát triển khơng đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự
vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ
tách khỏi nhóm tộc người của mình.
1.1.3. Khái niệm về văn hóa tộc người
Theo đa số các nhà Nhân học, văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố tiếng
nói, chữ viết, sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, các sắc thái tâm lý
tình cảm, phong tục và lễ nghi... khiến người ta có thể phân biệt tộc người này với

tộc người khác.
Vì thế văn hóa tộc người là cơ sở, nền tảng nảy sinh, phát triển, duy trì và
củng cố ý thức tự giác dân tộc. Đây là điều quan trọng số một của một tộc người.
Văn hóa tộc người cịn là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc trưng và đặc
thù dân tộc, nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này
với tộc người khác. Hay văn hóa tộc người là khái niệm chỉ tồn bộ các giá trị văn
hóa vật thể, phi vật thể của các dân tộc thiểu số có quá trình sinh tụ lâu đời trên
lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện của sự thích ứng và sáng tạo của con người trong
mơi trường, hồn cảnh tự nhiên và xã hội cụ thể, các giá trị đó vừa phản ánh những
nét thống nhất, sự giao thoa văn hóa tộc người trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Vào những năm 70 của thế kỉ XX, các nhà Dân tộc học của Liên Xơ đã chia
văn hóa tộc người thành các bộ phận: Văn hóa sản xuất, văn hóa bảo đảm đời
sống, văn hóa chuẩn mực xã hội, văn hóa nhận thức xã hội.

3


Từ năm 1988, UNESSCO chia văn hóa thành hai bộ phận: văn hóa vật thể những yếu tố văn hóa tồn tại dưới dạng vật chất, và văn hóa phi vật thể - những
yếu tố văn hóa tồn tại vơ hình, khơng ở dạng vật chất.
1.2.

Khái qt về hoạt động du lịch ở Sapa, Lào Cai

1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Sa Pa là một thị trấn vùng cao, là một khu nghỉ mát nổi tiếng thuộc huyện Sa
Pa, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Nơi đây ẩn chứa nhiều điều kỳ diệu của tự nhiên,
phong cảnh thiên nhiên với địa hình của núi đồi, màu xanh của rừng cây, tạo nên
bức tranh có bố cục hài hồ, có cảnh sắc thơ mộng và hấp dẫn từ cảnh quan đất
trời vùng đất phía Tây Bắc.
• Lịch sử

Năm 1897, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định mở một cuộc điều tra về
người dân tộc thiểu số miền núi vùng cao. Những đoàn điều tra đầu tiên đến Lào
Cai vào năm 1898.
Mùa đông năm 1903, trong khi tiến hành đo đạc xây dựng bản đồ, đồn thám
hiểm của Sở địa lý Đơng Dương đã khám phá ra cảnh quan mặt bằng Lồ Suối
Tủng.
Năm 1905, người Pháp đã thu thập được những thông tin đầu tiên về địa lý,
khí hậu, thảm thực vật... Sapa bắt đầu được biết tới với khơng khí mát mẻ, trong
lành và cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng. Năm
1917, một văn phòng du lịch được thành lập ở Sapa và một năm sau, người Pháp
bắt đầu xây dựng những biệt thự đầu tiên. Năm 1920, tuyến đương sắt Hà Nội –
Lào Cai hoàn thành, Sapa được xem như thủ đô mùa hè của miền bắc. Tổng cộng
người Pháp đã xây dựng ở Sapa gần 300 biệt thự.
Sapa bị tàn phá nhiều trong chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979. Hàng
ngàn ha rừng thông bao phủ thị trấn bị đốt sạch, nhiều toà biệt thự cổ do Pháp xây
cũng bị phá huỷ. Vào thập niên 1990, Sapa được xây dựng, tái thiết trở lại. Nhiều
khánh sạn, biệt thự mới được xây dựng. Từ 40 phòng nghỉ vào năm 1990, lên tới
300 vào năm 1995. Năm 2003, Sapa có khoảng 60 khách sạn lớn nhỏ với 1.500
phịng. Lượng khách du lịch tới Sapa tăng lên từ 2.000 khách vào năm 1991 đến
60.000 khách vào 2002.
• Vị trí
Sapa nằm trên một mặt bằng ở độ cao 1500 đến 1650 mét ở sườn núi Lô
Suây Tông. Đỉnh của núi này có thể nhìn thấy ở phía đơng nam của Sapa, có độ
cao 2228 mét. Từ thị trấn nhìn xuống có thung lũng Ngịi Dum ở phía đơng và
thung lũng Mường Hoa ở phía tây nam.
• Địa hình - Khí hậu
Nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam, thị trấn Sapa ở độ cao 1.600 mét so với
mực nước biển, cách thành phố Lào Cai 38 km và 376 km tính từ Hà Nội.

4



Sapa có khí hậu mang sắc thái ơn đới và cận nhiệt đới, khơng khí mát mẻ
quanh năm. Thời tiết ở thị trấn một ngày có đủ bốn mùa: buổi sáng là tiết trời mùa
xuân, buổi trưa tiết trời như vào hạ, thường có nắng nhẹ, khí hậu dịu mát, buổi
chiều mây và sương rơi xuống tạo cảm giác lành lạnh như trời thu và ban đêm là
cái rét của mùa đơng. Nhiệt độ khơng khí trung bình năm của Sapa là 15 °C. Mùa
hè, thị trấn không phải chịu cái nắng gay gắt như vùng đồng bằng ven biển, khoảng
13 °C – 15 °C vào ban đêm và 20 °C – 25 °C vào ban ngày. Mùa đông thường có
mây mù bao phủ và lạnh, nhiệt độ có khi xuống dưới 0 °C, đơi khi có tuyết rơi.
Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây khoảng từ 1.800 đến 2.200 mm, tập trung
nhiều nhất vào khoảng thời gian từ tháng 5 tới tháng 8.
Thị trấn Sapa là một trong những nơi hiếm hoi của Việt Nam có tuyết. Trong
khoảng thời gian từ 1971 tới 2011, 15 lần tuyết rơi tại Sapa. Lần tuyết rơi mạnh
nhất vào ngày 13 tháng 2 năm 1968, liên tục từ 3 giờ sáng đến 14 giờ cùng ngày,
dày tới 20 cm.
1.2.2. Các địa điểm du lịch ở Sapa
Vào thập niên 1940, người Pháp đã quy hoạch, xây dựng Sapa thành nơi nghỉ
mát, điều dưỡng khá lý tưởng. Bởi vậy, thị trấn Sapa mang nhiều dáng dấp của
một thành phố châu Âu.
Sapa có nhiều cảnh đẹp tự nhiên như thác Bạc cao khoảng 200 m, cầu Mây
là một di tích lịch sử của người dân tộc, cổng Trời là điểm cao nhất mà đường bộ
có thể đi tới để đứng ngắm đỉnh Phan Xi Păng, rừng Trúc, động Tả Phìn, bãi đá
cổ Sa Pa nằm trong Thung lũng Mường Hoa. Hàm Rồng là nơi trồng rất nhiều
loại hoa, màu sắc sặc sỡ và được trồng theo từng khn viên. Ở nơi đây cũng có
vườn lan với nhiều loại hoa quý hiếm.
Sapa có đỉnh Phan Xi Păng cao 3.143m trên dãy Hoàng Liên Sơn.
Dãy Hoàng Liên Sơn có nhiều lồi gỗ q và chim thú. Trong khu rừng quốc
gia Hồng Liên Sơn có nhiều lồi thú được ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Vườn hoa Hàm Rồng được xây dựng theo địa thế tự nhiên của đỉnh Hàm

rồng. Đỉnh Hàm Rồng được bố trí như một đài quan sát, từ đây du khách có thể
phóng tầm mắt thu toàn bộ thị trấn Sapa vào tầm mắt của mình. Sapa có núi Hàm
Rồng ở sát ngay thị trấn, bất kỳ du khách nào cũng có thể lên đó để ngắm toàn
cảnh thị trấn, Thung lũng Mường Hoa, Tả Phìn ẩn hiện trong sương khói.
Sapa cịn có nhà thờ cổ ở ngay thị trấn và từ thị trấn đi ngược về hướng đông
bắc, trên đường đi tới động Tả Phìn lại có một tu viện cổ được xây bằng đá tại
một sườn đồi quang đãng, thoáng mát. Tại Tả Phìn này với hai tộc người là Mơng
và Dao đã tạo nên cơ sở sản xuất mặt hàng thổ cẩm xuất bán cho cả nước và nước
ngoài khá nổi tiếng.
Đặc biệt Thung lũng Mường Hoa có 196 hịn chạm khắc nhiều hình kỳ lạ
của những cư dân cổ xưa cách đây hàng ngàn vạn năm mà nhiều nhà khảo cổ học
vẫn chưa giải mã được những thơng tin đó. Khu chạm khắc cổ đã được xếp hạng
di tích quốc gia và đang được Nhà nước Việt Nam đề nghị xếp hạng di sản thế
giới. Thác Bạc từ độ cao trên 200 m với những dòng nước đổ ào ào tạo thành âm
thanh núi rừng và mưa xuân.
Sapa với 6 tộc người cũng cư trú, mỗi tộc người có một vốn văn hoá riêng.
5


Đặc trưng nổi bật của Sapa là lễ hội "Roóng pọc" của người Giáy ở bản Tả Van
vào ngày Thìn tháng giêng âm lịch, cùng với lễ hội “Roóng pọc” cịn có hội "Sải
Sán" (đạp núi) của người Mơng, lễ "Tết nhảy" của người Dao đỏ, tất cả đều diễn
ra vào tháng tết hàng năm.
Chợ phiên của Sapa họp vào ngày chủ nhật tại huyện lỵ. Vào tối thứ bảy, có
nhiều người đến chợ cùng chung vui với nhau bằng những bài hát dân ca của trai
gái bản làng người H'mông, người Dao, bằng những âm thanh của đàn môi, sáo,
khèn... và người ta gọi đó là "chợ tình". Vào ngày chủ nhật, tại chợ có thể mua
các loại dược phẩm, lâm thổ sản quý hiếm, sản phẩm nhân tạo truyền thống của
các dân tộc như hàng thổ cẩm thủ cơng; các món ăn dân tộc như thắng cố, thịt hun
khói, cải mèo, su su, rượu ngơ, rượu mầm thóc xã Thanh Kim, rượu táo mèo, rượu

sán lùng; các lâm sản và dược liệu như củ hoàng liên, nấm linh chi, cây mật gấu...
1.2.3. Hoạt động kinh doanh du lịch ở Sapa
• Về khách du lịch
Khách du lịch quốc tế đến Sapa có mức tăng trưởng hàng năm khá cao.
Lượng khách quốc tế đến Sapa tăng từ 130.603 lượt năm 2010 lên đến 253.000
lượt vào năm 2014. Khách nội địa đến Sapa lớn hơn nhiều so với khách quốc tế
do tài nguyên du lịch phù hợp cho việc phục vụ khách nội địa và xu hướng đi du
lịch trong nước tăng, cụ thể là trong 5 năm, từ 2010 đến năm 2014, lượng khách
nội địa tăng từ 319.665 lượt lên đến con số 596.000.
Về doanh thu du lịch
Giai đoạn 2010-2014 mức tăng trưởng khách du lịch cao nên doanh thu xã
hội từ du lịch của Sapa cũng tăng đáng kể. Năm 2010, doanh thu thuần du lịch
Sapa đạt 325 tỷ đồng, đến năm 2014 tăng lên 600 tỷ đồng, tăng gần gấp đơi
(Nguồn: Phịng Văn Hố - Thơng tin huyện Sapa)


Về cơ sở vật chất, lưu trú và ăn uống
Trong những năm qua huyện Sa Pa đã tập trung chỉ đạo đúng mức, bước đầu
đã hình thành nên các điểm du lịch, hệ thống cơ sở vật chất đủ điều kiện phát triển
nhanh về số lượng từng bước đáp ứng nhu cầu ăn nghỉ và vui chơi giải trí của du
khách.
Đến năm 2014, trên địa bàn huyện có 170 cơ sở lưu trú với tổng số 2.775
phòng, 4.990 giường, trong đó có 47 khách sạn đạt từ 1-4 sao; 01 khu nghỉ dưỡng
(resort). Ngoại trừ các khách sạn Victoria Sa Pa, khách sạn Châu Long, khách sạn
Bamboo, Hoàng Gia View, Holiday có qui mơ lớn, cịn lại hầu hết các cơ sở lưu
trú khác đều có qui mơ nhỏ, lượng phịng ít, thiếu các dịch vụ hỗ trợ và các phịng
họp lớn phục vụ hội nghị-hội thảo. Ngồi ra có 107 hộ kinh doanh lưu trú tại gia
tại các xã: Tả Phìn, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ, Thanh Phú, San Sả Hồ, Nậm Sài.
Toàn bộ số hộ kinh doanh lưu trú nhà nghỉ dân có thể đón hơn 1000 lượt
khách/đêm.

Trên địa bàn thị trấn hiện có 84 cơ sở nhà hàng và 01 khu ẩm thực trong đó
có 50 nhà hàng nằm trong các cơ sở lưu trú với khoảng 800 chỗ ngồi 41 và 34 nhà
hàng độc lập với 1.120 chỗ ngồi chủ yếu phục vụ các món Âu, Á đáp ứng nhu cầu


6


cho 6.000 khách lưu trú/ngày đêm. Ngồi ra cịn có rất nhiều các qn ăn có qui
mơ từ 40 đến 50 ghế/quán, phục vụ các món ăn với giá cả phù hợp khả năng và
nhu cầu đa dạng khách du lịch.
• Phương tiện vận chuyển, đưa đón khách
Những phương tiện vận chuyển khách du lịch Sa Pa chủ yếu là các phương tiện
chuyên chở khách du lịch đường bộ. Các phương tiện này phần lớn thuộc sở hữu
của các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế khác. Phương tiện vận
chuyển khách du lịch hiện có 154 xe từ 04 đến 50 chỗ ngồi với sức chứa 1.300
khách và 15 đầu xe buýt Lào Cai-Sa Pa-Lào Cai.

1.2.4. Vai trị của người H’mơng trong phát triển du lịch ở Sapa
Cộng đồng người H’Mơng đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển du
lịch ở Sa Pa. Cộng đồng người H’Mơng đóng vai trị quan trọng trong việc phát
triển du lịch ở Sa Pa. Họ đã tham gia vào một số hoạt động du lịch như dẫn đường,
43 hướng dẫn viên, khuân vác, cung cấp lương thực, thực phẩm, bán hàng và một
số dịch vụ khác.
Bản Cát Cát có 610 người H’Mơng mà có tới 120 người tham gia hoạt động
du lịch chiếm tỷ lệ 19,7% dân số. Làng Lý Lao Chải có 950 người H’Mơng có
121 người tham gia dịch vụ du lịch chiếm tỷ lệ 12,7% dân số lịch rất cao. Như
vậy là số người trực tiếp tham gia dịch vụ du lịch khá đơng. Đó là chưa kể số
người gián tiếp tham gia các dịch vụ này như sản xuất, đi mua thổ cẩm, hàng lưu
niệm....

Bên cạnh việc xuất hiện các ngành nghề mới, một số ngành nghề truyền
thống được khôi phục và phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá như nghề thêu
dệt thổ cẩm, làm đồ chạm khắc bạc. Các sản phẩm chăn nuôi của các làng H’Mông
trước kia chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu ăn uống và tín ngưỡng của từng gia đình thì
nay đã bước đầu trở thành các sản phẩm hàng hoá cung cấp cho các nhà hàng,
khách sạn. Thông qua trao đổi hàng hoá, giao dịch với du khách, khả năng nắm
bắt nhu cầu, giá cả thị trường của người H’Mông được nâng cao.
Về tổ chức các hoạt động văn nghệ, văn hóa dân gian: 16 làng người H’Mơng
cịn thành lập các đội văn nghệ phục vụ khách du lịch, thu hút khoảng 200 nam
nữ diễn viên không chuyên tham gia. Một số đội ở Lao Chải, Sa Pa, San Sả Hồ
khơng chỉ biểu diễn ở làng mà cịn trở thành đội văn nghệ không chuyên của các
khách sạn Victorya, BamBeo, khách sạn Châu Long, khách sạn Hàm Rồng....
Những nét đặc trưng văn hóa của tộc người H’Mơng ở Sapa
Dân tộc H’mơng sinh sống ở Việt Nam có khoảng 80 vạn người thuộc nhóm
ngơn ngữ: H’Mơng- Dao. Người H’mơng (từ Q Châu- Vân Nam- Quảng TâyTrung Quốc) thiên di vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm, bằng nhiều đợt,
rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối thế kỷ XIX. Người H ’mông vào Việt Nam
là do nguyên nhân: trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra
nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có
dân tộc H’mơng), để giành quyền cai trị đất nước, làm người H ’mông phải thiên
di đi khắp nơi. Đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn
1.3.

7


(Hà Giang). Vì thế, người H’mơng sinh sống ở Việt Nam đều coi cao nguyên
Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình. Người H’mơng phân chia thành 4 nhóm:
H’mơng Hoa (H’mông Lềnh), H’mông Đen (H’mông Dú), H’mông Xanh
(H’mông Chúa), H’mơng Trắng (H’mơng Đu). Tuy có 4 nhóm H’mơng khác
nhau, nhưng về ngơn ngữ và văn hố cơ bản giống nhau, sự khác nhau giữa các

nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ. Dân tộc H’mông phân bố khắp trên
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao
Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La,
Hoà Bình, Thanh Hố, Nghệ An và số ít ở Phú Thọ. Sau ngày giải phóng miền
Nam (1975), một bộ phận Người H’mông di cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây
Ngun. Có thể nói rằng người H’mơng ở SaPa là một trong số ít các dân tộc đặt
chân lên gồm ba nhóm địa phương: H’mơng Trắng, H’mơng Đen, H’mơng Hoa.
Tuy cư trú ở độ cao từ 700m đến 1500m, rải tác khắp nơi trên miền núi phía
Bắc Việt Nam và trên Tây Ngun, nhưng tộc người H’mơng vẫn duy trì đươc
bản sắc văn hóa độc đáo của mình trong cộng đồng quốc giá dân tộc Việt Nam.
1.3.1. Văn hóa vật thể
• Nhà ở
Với mơi trường sống trên các triền núi cao, khí hậu lạnh, khắc nghiệt thì ngơi
nhà trình tường bằng đất, lợp ngói hay tranh của người H’mơng có ưu điểm mát
mẻ về mùa hè, giữ ấm về mùa đông, chống thú dữ. Người H’mông coi cây cột cái
là cột chủ đạo trong nhà, thể hiện sự ngay thẳng, cứng cáp, vững vàng của chủ
nhà nên cây cột phải là cây rừng không bị sâu thối cụt ngọ n. Nhà của người
H’mông dù to hay nhỏ đều theo một khn mẫu, nhà ba gian và hai cửa, một cửa
chính, một cửa phụ và phải có hai cửa sổ trở lên. Trong 3 gian nhà chính, gian bên
trái dùng để đặt bếp lò và chỗ ngủ của vợ chồng chủ nhà. Gian bên phải đặt bếp
sưởi và giường khách. Gian giữa rộng hơn để đặt bàn thờ tổ tiên và là nơi tiếp
khách, ăn uống của gia đình. Hai gian trái đặt cối xay ngô, giã gạo. Nhà của người
H’mông bao giờ cũng có sàn gác để cất giữ đồ đạc, lương thực, thực phẩm. Ngô
lúa khi mang từ nương về bao giờ cũng được cất lên gác , ngoài ra, sàn gác có cịn
có thể làm nơi ngủ khi nhà đơng khách. Khói bếp sẽ làm khơ và giữ cho không bị
sâu mọt. Phong tục người H’mông không cho con gái, đàn bà được ngủ trên gác.
Khi đàn ông trong nhà đi vắng thì con dâu khơng được phép lên gác. Nhà của
người H’mơng khơng bao giờ làm dính sát vào nhau, cho dù là anh em ruột thịt.
Làm nhà được coi là một việc hệ trọng trong đời người H’mông, do vậy ngày
về nhà mới là ngày đại sự của gia chủ. Ngày hôm ấy, người ta tổ chức ăn uống

vui vẻ, chúc nhau mọi sự tốt lành.
Dù đi bất cứ địa phương nào có người H’Mơng sinh sống chúng ta sẽ thấy
được những ngơi nhà có kiểu thiết kế giống nhau. Vậy nếu khi tới du lịch Sapa
mà không tới thăm những ngôi nhà của người H’Mông thì thật đáng tiếc.
• Trang phục
Khơng giống các nhóm H’mơng khác thường mặc váy, nhóm dân tộc
H’mơng sinh sống ở Sapa lại mặc quần, cả đàn bà và đàn ông đều mặc quần, họ
chỉ mặc váy khi mất hoặc vào các dịp đặc biệt.

8


Bộ trang phục nữ gồm có y phục (khăn, áo, thắt lưng, xà cạp, quần) và đồ
trang sức. Trong đó khăn là tấm vải vải chàm hình chữ nhật khổ 18 x 50cm. Áo
của phụ nữ H’mơng có hai loại: Loại áo mặc trong màu chàm, xẻ ngực. Các loại
áo khốc ngồi cộc tay, thân dài, cổ áo thêu các loại họa tiết hoa văn kỉ hà theo
mơ típ các họa tiết cổ móc câu kép biến thể như họa tiết trang trí mặt trống đồng
Đơng Sơn. Thắt lưng được làm bằng vải có tua ở hai đầu, giữa thêu các họa tiết
hoa văn. Người còn sống thắt dải hoa văn về phía sau lưng. Khi mất thắt dải hoa
văn về phía trước bụng. Quần của phụ nữ mơng là quần lửng qua gối, bắp chân
quấn xà cạp bằng màu chàm. Đồ trang sức của phụ nữ khá phong phú, trong đó
bao gồm: vịng khun tai to và vịng cổ, ngày thường thì đeo loại đơn, ngày lễ
thì đeo loại kép có nhiều vịng biểu hiện của sự giàu có. Vịng cổ có hình hai đầu
chim hoặc hai đầu rắn - biểu tượng của vật tổ. Ngồi ra cịn có vịng tay và xà tích.
Trang phục nam: Mũ bằng vải lanh hình quả dưa gồm tám miếng vải khâu
ghép. Áo trong xẻ nách ngắn, áo ngoài dài. Cổ áo thêu hoa văn móc câu kiểu hoa
văn đơn. Quần thì chàm màu đen ống rộng, đũng rộng.
Trang phục nữ mặc khi mất: Người H’mông khi về già đều chuẩn bị một bộ
trang phục để khi mất sẽ mặc đẹp đi gặp tổ tiên. Bộ trang phục nữ gồm có khăn,
áo như ngày thường nhưng có thêm một áo khốc dài tay tồn bộ phía lưng vai,

sau ống tay đều thêu, in sáp ong các băng dải hoa văn rực rỡ. Nền vải áo là vải
lanh nhuộm chàm pha củ nâu tạo thành màu tím than. Khi sang thế giới bên kia,
người phụ nữ Mông phải mặc váy bằng vải lanh. Thân váy in hoa sáp ong, gấu
váy thêu các hoạ tiết hoa văn khổ to, phối nhiều gam màu nóng: đỏ, vàng, da cam
tạo vẻ rực rỡ.
Từ đây có thể thấy, bộ trang phục của người H’mơng khơng chỉ có ý nghĩa
phục trang bình thường mà nó cịn phản ánh của thế giới quan, phản ánh cả một
nền văn hoá rất sâu sắc bên trong đó và rất cần những định hướng cụ thể để giúp
đồng bào gìn giữ những kĩ thuật chế tác trang phục độc đáo của mình.
• Tập qn ăn uống
Người H’mơng ăn bột ngơ đồ là chính, ăn cơm là phụ. Thường ngày, họ ăn
cơm gạo tẻ theo cách chế biến đồ trong chõ gỗ. Đa số các món ăn chủ yếu được
chế biến theo cách luộc hoặc xào. Các loại thịt nếu có nhiều ăn tươi không hết, họ
thường để dành bằng cách sấy khô để trên rách bếp (giàn bếp). Người H’mông
xúc thức ăn bằng thìa gỗ, dùng đũa chỉ là phụ. Khi có khách phụ nữ không được
ngồi ăn chung, chủ nhà bao giờ cũng ngồi ở trên,lưng quay vào bức vách hậu gian
giữa. Trong dịp lễ tết, hay nhà có khách thường được thiết đãi bằng thịt gà, rượu.
Họ hút thuốc lào bằng điếu cày là phổ biến. Nếu chủ nhà tự tay nạp thuốc vào
điếu mời khách hút, được coi là cử chỉ q mến khách.

1.3.2. Văn hóa phi vật thể
• Hơn nhân và ma chay
Hôn nhân của người H’mông thông qua mua bán và có phần tin vào tín
ngưỡng. Trong lễ ăn hỏi, người H’mơng tin rằng đơi trai gái có hợp nhau hay
không là do lễ cúng “xem chân gà”. Người con gái được định giá thông qua giá
trị vật chất thịt, rượu, bạc trắng, thuốc phiện. Mỗi đám cưới thường nhà gái yêu
9


cầu từ 60 đến 120 đồng bạc trắng, từ 60kg đến 120kg thịt lợn, từ 60kg đến 120kg

rượu và một số thuốc phiện. Giá trị vật chất nhà gái yêu cầu càng nhiều đối với
nhà trai thì người con gái đó càng hồn hảo về tài sắc. Trong quan hệ hơn nhân
con dì, con cơ, con cậu được phép lấy nhau. Người H’mơng có phong tục em
chồng được phép lấy chị dâu (nếu anh trai đã mất), ngược lại chị dâu có quyền
lấy em chồng là để giữ gìn tài sản và có trách nhiệm ni dưỡng các cháu của anh
trai. Nếu em chồng đã có vợ thì chị dâu chỉ được làm vợ lẽ. Trong trường hợp gia
đình khơng có em chồng thì chị dâu được phép lấy em họ.
Tục cướp vợ rất phổ biến: một nhóm thanh niên từ 3 đến 5 người, tổ chức
họp nhau đón đường bắt cóc người con gái mang về nhà mình (dù người con gái
đó có bằng lịng hay khơng bằng lịng). Trong thời điểm người con gái bị cướp
mọi người trong họ hàng, gia đình, anh em khơng được phép tham gia giải cứu.
Sau hai hôm cướp vợ, nhà trai cử người sang nộp phạt tiền danh dự cướp vợ và
báo cho gia đình nhà gái biết sự việc. Sau đó, hai bên gia đình bàn bạc, ấn định
ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ thành hôn cho đôi trai gái. Người H’mơng tin
rằng quan hệ hơn nhân với dịng họ khác thì làm ăn mới phát đạt, nịi giống mới
phát triển tốt.
Theo phong tục của người H’Mông, hôn nhân phải đủ nghi lễ như dạm hỏi,
ăn hỏi và lễ đón dâu, tất cả đều được tổ chức vào ngày lành tháng tốt. Lễ dạm hỏi
bắt buộc phải có hai ông mối thông thuộc các bài hát nghi lễ cưới xin, kết nối hai
nhà để làm thủ tục dạm hỏi và hẹn ngày đón dâu. Lễ cưới chính thức, nhà trai
mang lễ vật sang nhà gái từ chiều hôm trước. Lễ đón dâu được tổ chức vào sáng
hơm sau. Cơ dâu mặc áo màu đỏ, váy hoa, đầu quấn khăn xanh. Lễ cưới diễn ra
trong những cuộc mời rượu, đối đáp giữa các thanh niên, thiếu nữ. Sau đó cơ dâu
làm lễ cúng tổ tiên, ma nhà, ma cửa... để về nhà chồng. Khi về nhà chồng, gia
đình nhà chồng bày một mâm cơm cúng tổ tiên để ra mắt con dâu.
Về ma chay, trước kia thường được tổ chức kéo dài từ 5 đến 7 ngày, ngày
nay giảm xuống cịn từ 2 đến 3 ngày. Khi gia đình có người mất, họ đi mời người
(thầy mo) đến làm thủ tục cúng hát mở đường, sau đó mới tiến hành khâm liệm
(áo ngồi bằng lanh thì mới được đồn tụ với tổ tiên). Cách hành xử mỗi nơi mỗi
khác: có nơi để người chết trên “cáng” treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt

ngang cửa ra vào. Có nơi người chết được đặt vào quan tài nhưng không đậy nắp
để dễ dàng xem mặt người chết. Trong lúc hát mở đường đến đoạn sự tích gà dẫn
đường cho người chết về với tổ tiên, người ta mang một con gà đã chết để nguyên
lông đặt trong âu bột ngơ để phía dưới người chết. Trong đám ma người
H’mơng dùng khèn và trống để thực hiện nghi lễ tiễn đưa người chết về với tổ
tiên được êm đẹp. Sau khi chôn cất xong, nếu là nam giới, người ta cắm 9 cành
lá, nữ giới cắm 7 cành để đánh lạc hồn người chết không quay về làm hại những
người thân trong gia đình. Lễ cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên sau khi chôn
cất hoặc kéo dài một hay vài năm.
Tín ngưỡng tơn giáo
Người H’mơng cịn tiếp thu yếu tố văn hố mới Kitơ giáo (đạo Thiên Chúa
và đạo Tin Lành). Từ năm 1888, thực dân Pháp chiếm đóng Sapa đã có ý định


10


xây dựng các cơ sở truyền giáo. Nhưng mãi tới năm 1921, mới có 5 gia đình
H’mơng theo đạo và đến những năm 40 của thế kỷ XX, chỉ có 33 hộ gia đình
người H’mơng ở 11 làng theo đạo. Người H’mông ở Sapa theo đạo không chỉ do
yêu cầu tín ngưỡng khao khát một niềm tin mà chủ yếu là do sự thúc đẩy của tâm
lí thực dụng. Họ cần đi theo chúa khơng chỉ vì hạnh phúc trên thiên đàng mà vì
những vấn đề thiết thân trong cuộc sống đang đặt ra. Người H’mông coi tôn giáo
chỉ là phương tiện nhằm giải quyết những nhu cầu bức xúc của đời sống chứ
khơng quan tâm nhiều về triết lí, về hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên kia.
Tín ngưỡng tâm linh và thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên, đó là thờ cúng ơng bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã
mất. Người ta tin rằng tổ tiên đã mất, che chở cho con cháu đang sống làm những
nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia đình và tiến hành những nghi
thức nhằm thờ phụng tổ tiên.

Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người H’mơng cịn tồn tại một hệ thống ma nhà
với những lễ thức cúng bái riêng biệt: “Xử Cả” là ma có vị trí quan trọng trong hệ
thống các ma nhà người H’mơng, gắn liền với sự giàu có, nhất là tiền bạc. Bên
cạnh đó là “Bùa Đáng” (ma lợn), “Xìa Mình” (ma cửa), “Hú Sinh” (ma bếp),
“Nhìu Đáng” (ma trâu).
Người H’mơng cịn thờ cúng thần cộng đồng “Giao” (thần thổ địa). Đồng
bào quan niệm: Người dân trong “Giao” khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, gia súc
nhiều, dân số tăng là nhờ thần thổ địa phù hộ. Hàng năm vào ngày Thìn của tháng
hai (hoặc ngày mồng 2 tháng 2) đại diện các gia đình trong “Giao” đến khu rừng
cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần, lễ vật cúng là gà, hoặc lợn và rượu.


Văn hóa nghệ thuật
Người H’mơng có một nền văn hoá nghệ thuật phong phú,
truyện cổ dân ca chiếm một vị trí quan trọng, gồm nhiều loại (cúng ma, tình yêu,
cưới xin, làm dâu,…). Trong dân ca khơng chỉ có những bài ngắn mà đã có những
liên khúc dài nổi tiếng như “ Tiếng hát làm dâu” được nhiều dân tộc biết đến. Mỗi
người H’mơng ít nhiền đều biết dân ca cũng như nhiều nam nữ thanh niên biết
gảy đàn môi, thổi kèn lá rất điêu luyện.
Các loại nhạc cụ như khèn, kèn lá, đàn môi và các loại hình hoa văn trang trí
trên trang phục phụ nữ là những tác phẩm nghệ thuật dân gian đẹp, cái đẹp tươi
sáng tự nhiên của vùng cao.


Lễ hội
Trong một năm, đồng bào H’mơng có hai Tết lớn: Tết năm mới và Tết mồng
5 tháng 5. Tết đón mừng năm mới là cái tết quan trọng nhất của cộng đồng
H’mông, đó là thời khắc thiêng liêng để người H’mơng tưởng nhớ tổ tiên, tỏ lòng
biết ơn trời – đất đã cho thu hoạch mùa màng và cầu mong vụ mùa năm mới tươi
tốt… Bắt đầu từ ngày 26 tháng 11 âm lịch, mọi người đã chuẩn bị các vật dụng

cần thiết như rượu, hương, củi, mổ lợn và làm bánh dầy để đón mừng năm mới.
Đêm 30 rạng sáng ngày mồng 1, khi gà cất tiếng gáy chào ngày mới, một người


11


trong nhà cầm 3 thẻ hương cùng giấy bản đến giếng hoặc khe lấy nước về nấu
cơm. Những vật dụng trong gia đình như: cái rìu, cái cuốc, khẩu súng… theo quan
niệm của người H’mơng chúng đều có cơng tạo ra của cải ni sống gia đình, nên
vào ngày tết chúng được tập trung dựng cạnh bàn thờ. Những ngày sau đó mới
đúng là ngày hội của nam nữ thanh niên với nhiều trò vui chơi cổ truyền như: ném
pao, đánh cầu lơng gà, đánh quay, đá bóng… trai gái còn thi hát đối đáp, múa
khèn, thổi khèn lá, trẻ em thì chơi những trị như: rải đá, nhảy dây.
Hội Gầu Tào
Lễ hội được tổ chức nhằm mục đích cho gia chủ cầu con, cầu cho
bản làng được mùa màng bội thu. Nếu hội tổ chức 3 năm liền thì mỗi năm
tổ chức 3 ngày liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức 9 ngày. Ngày mở hội Gầu
Tào là do thầy cúng tế trong bản và gia chủ quyết định, thường chọn ngày Thìn,
ngày Sửu trong tháng đầu tiên của năm mới. Ngay từ cuối tháng Chạp, khi được
thầy cúng bói xin mở hội, gia đình mở hội cầu phúc, cầu mệnh, cử ra một người
chặt cây làm cây nêu. Cây nêu được dựng lên, các làng gần, làng xa biết năm nay
sẽ mở hội Gầu tào, nhà nhà háo hức chuẩn bị. Sau khi làm lễ cúng cầu mong trời
đất cho gia chủ và mọi người sức khỏe, mùa màng bội thu, mọi người tỏa ra các
ngọn đồi thấp hoặc các bãi ruộng bằng xung quanh chơi xuân. Các chàng trai so
tài cao thấp, thể hiện sức khỏe và bản lĩnh của người miền sơn cước. Hết thời gian
hội, gia chủ làm lễ kết thúc, cây nêu được hạ xuống, thầy mo đốt quẻ giấy, hốt
than cho vào gáo nước, vừa đi vủa cầu khấn.



Văn hóa ẩm thực
Người H’mơng có một số món ăn nổi tiếng như:

Thịt trâu khô
Khi thịt trâu tươi ăn không hết, người H’mông làm thịt khô để ăn dần. Thịt
được tẩm ướp gia vị rồi đem xâu bằng nạt tre mỏng, treo lên gác bếp để khơ rồi
ăn dần. Khi có khách thịt trâu khơ được chế biến theo hình thức: thịt trâu được
cạo bỏ lớp đen bám bên ngồi, sau đó đem đập dập, nướng trên bếp than cho dậy
mùi, sau đó pha nước tương gồm đường, chanh, mắm và thêm loại tương đặc biệt
do đồng bào tự làm.
Món măng đắng
Măng đắng người ta có thể chế biến thành rất nhiều món hấp dẫn như hầm
xương, xào mẻ, luộc chem, mẻ ớt, hay luộc chấm với mẻ chưng cùng trứng gà,
muối. Đơn giản nhất là món măng đắng luộc chấm gia vị khiến ai đã từng ăn một
lần thì khó có thể quên được hương vị của nó.
Mèn mén
Mèn mén được chế biến từ các loai ngô được trồng ở địa phương. Do đây là
một món ăn khơ nên đồng bào thường ăn kèm với món canh. Món mèn mén trộn
cơm được rất nhiều người Mơng u thích vì vị ngọt, bùi, thơm của ngô và vị

12


mềm dẻo của cơm. Tại các phiên chợ, món này còn được hòa vào nước dùng để
ăn cùng phở hay mỳ.
Ngồi món “mèn mén” cịn nhiều món ăn làm từ ngun liệu ngơ như: chua
xía (bánh ngơ non), chua phụ (bánh chua, làm bằng ngô già), giom lậu (bánh ngô
nếp)…Bánh ngô non thường làm vào đầu vụ ngô, bánh chua thường làm bán trong
các chợ phiên.
Thắng cố

Thắng cố là một món ăn rất phổ biến của đồng bào dân tộc H’Mông. Thắng
cố trên Sapa được chế biến chủ yếu bằng thịt, xương và nội tạng của ngựa. Hiện
nay, món ăn độc đáo này được nhiều nơi chế biến để quảng bá rộng hơn ẩm thực
vùng cao, song thưởng thức thắng cố được chính tay đồng bào H’Mơng trên mảnh
đất Sapa chế biến, bạn mới thấy được sự khác biệt không chỉ là mùi vị mà cịn ở
cả khơng khí, địa điểm nơi món ăn ra đời. Mùa đơng, được ngồi bên cạnh nồi
thắng cố bốc khói nghi ngút, ăn từng bát và nhâm nhi cùng vài chén rượu ngô
nồng ấm thì quả khơng cịn gì thú vị bằng.
Rượu ngơ
Rượu ngơ là món đặc sản nổi tiếng của vùng này. Người H’mông thường
chọn loại ngô tẻ để nấu rượu. Rượu chẳng những được dùng trong những ngày lễ
tết mà còn được dùng phổ biến hàng ngày.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA TỘC
NGƯỜI H’MƠNG TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở SAPA HIỆN NAY.
2.1.

Những thực trạng trong khai thác du lịch văn hóa tộc người H’mơng
tại Sapa

2.1.1. Thực trạng các giá trị văn hóa tộc người
• Thực trạng nghề thủ cơng
Nói đến nghề thủ cơng của người H’mơng nổi tiếng hơn cả là nghề dệt lanh
và làm thổ cẩm. Do xã hội thay đổi quan niệm về trang phục truyền thống của
người H’mông đã khác trước, thay những sản phẩm tự tay dệt bằng chất liệu
truyền thống thì người H’mông sử dụng loại chất liệu công nghiệp may sẵn. Hiện
nay người dân ở đây dần chuyển sang các hoạt động kinh doanh phục vụ cho du
khách nên các nghề thủ công truyền thống dần mất đi, sản xuất dựa trên lợi nhuận
kinh doanh, do chạy theo số lượng, không ít các mặt hàng truyền thống được chế
tác lại để làm hàng lưu niệm, sự cẩu thả trong sản xuất đã làm méo mó giá trị chân
thực của truyền thống, sai lệch hình ảnh của nền văn hóa bản địa. Đây là thực tế

đáng buồn của hầu hết các địa điểm du lịch, không chỉ của du lịch SaPa.
Thực trạng các gía trị văn hóa khác
Du lịch lễ hội là một trong những điểm thu hút du khách đến tham quan và
tham gia. Nhưng lễ hội tộc người ở đây vẫn chưa được chú trọng, các hoạt động


13


du lịch chỉ mang tính tự phát và chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng
mức.
Nhà cửa và các cơng trình phục vụ cho hoạt động du lịch của người H’mông
chưa được quy hoạch, kể cả nhà của những người làm du lịch cũng xuống cấp,
chưa đáo ứng được nhu cầu của du khách.
2.1.2. Tình hình du khách đến tham quan các làng ở Sapa
Theo thống kê của Phòng văn hóa Sapa năm 2008, số khách đi tham quan
làng bản ở Sapa đi trong ngày là 47.877 người, đi 2 ngày 1 đêm là 10.549 người,
đi 3 ngày 2 đêm là 8.620 người. Như vậy, du khách đến các bản làng chủ yếu là
đi một ngày, không ngủ qua đêm ở làng. Số du khách có thời gian lưu trú vài ba
ngày chiếm tỷ lệ thấp.
Du khách đến các làng H’mông chủ yếu xem cảnh quan làng, sinh hoạt văn
hoá các dân tộc. Từ tháng 1 đến tháng 4 hàng năm là thời điểm khách nước ngoài
đến thăm làng H’mơng đơng nhất. Bình qn mỗi ngày có từ 40 - 70 du khách
đến Lao Chải, 50 du khách đến Cát Cát, Sín Chải. Thời gian lưu tại các làng
H’mơng từ 4 - 6 giờ. Một số làng, một năm đón đến 37.000 lượt khách. nhưng
cũng có làng mỗi năm chỉ đón vài trăm lượt khách. Song số du khách đến các làng
H’mông tăng rất nhanh trong vài năm gần đây.
2.1.3. Thực trạng về các nhà quản lí và đội ngũ lao động
Mặc dù thấy rõ tầm quan trọng của nguồn tài ngun văn hóa khơng chỉ đối
với xã hội và tín ngưỡng tinh thần mà cịn liên quan đến du lịch, song cho đến nay

vấn đề quản lý tổ chức khai thác những giá trị này vẫn còn hạn chế.
Vấn đề tổ chức kinh doanh các hoạt động lưu trú tại các bản, xã du lịch đã
được ban quản lý các cấp nghành quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn người dân. Song
việc kinh doanh, đón tiếp khách vẫn do người dân tự đứng ra tổ chức.
Đội ngũ lao dộng du lịch khá đông đảo, chủ yếu là dân cư địa phương, họ
hiểu biết rõ về nền văn hóa của địa phương, nhiệt tình tuy nhiên họ lại khơng qua
đào tạo chính quy nên nghiệp vụ vẫn cịn hạn chế.
2.2.

Tác động của du lịch đến đời sống văn hóa – xã hội của tộc người
H’mông ở Sapa

2.2.1. Du lịch làm nảy sinh và phát triển các ngành nghề mới, khôi phục các
nghề truyền thống
Hiện nay do du lịch phát triển, các làng H’mơng ở gần thị trấn có cảnh quan
đẹp, giữ được bản sắc văn hoá trở thành những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó du
lịch đã tác động làm biến đổi đời sống kinh tế của các gia đình người H’mơng.
Trước hết là sự xuất hiện hàng loạt nghề mới phục vụ du lịch như bán hàng thổ
cẩm, đồ trang sức, chở xe ôm, dẫn khách du lịch....
Trong các ngành nghề mới xuất hiện, có nghề hướng dẫn viên du lịch và
phục vụ khách du lịch (mang đồ, dẫn đường cho khách du lịch) phát triển khá
nhanh, nhất là trong tầng lớp thanh niên. Mỗi một làng người H’mơng có một vài
thanh niên làm nghề hướng dẫn viên tự phát. Đặc biệt, một số công ty du lịch đã
14


tuyển người H’mông ở các làng đào tạo trở thành đội ngũ hướng dẫn viên chuyên
nghiệp. Các hoạt động ca múa nhạc dân tộc của người dân H’mông cũng phát
triển. Mỗi lần tham gia các diễn viên được hưởng một khoản thù lao là 10.000
đồng/người/lần. Vào mùa khách du lịch Tây Âu, mỗi tháng họ có thể tham gia 4

lần. Như vậy, vào mùa khách du lịch nước ngoài, mỗi hộ này có thể tăng thêm thu
nhập là khoảng 40.000 đồng/tháng.
Bên cạnh việc xuất hiện các ngành nghề mới, một số ngành nghề truyền
thống được khôi phục và phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá như nghề thêu
dệt thổ cẩm, làm đồ chạm khắc bạc. Các sản phẩm chăn nuôi của các làng H’mông
đã bước đầu trở thành các sản phẩm hàng hoá cung cấp cho các nhà hàng, khách
sạn. Thơng qua trao đổi hàng hố, giao dịch với du khách, khả năng nắm bắt nhu
cầu, giá cả thị trường của người H’mơng được nâng cao.
2.2.2. Du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống người
H’mơng, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo ở các làng người H’mông
Trước kia, nguồn thu của các hộ gia đình người H’mơng đa số nhờ vào nơng
nghiệp (trong đó chủ yếu là trồng trọt và khai thác lâm sản). Nhưng hiện nay,
nguồn thu từ dịch vụ du lịch đã chiếm tỷ lệ quan trọng. Bình quân mỗi hộ gia đình
người H’Mơng ở Lao Chải được khảo sát 1 năm có thu nhập 15.834.000 đồng,
cao gần gấp đơi so với các làng trong vùng không tham gia hoạt động du lịch
(Điều tra năm 2008). Các làng H’Mơng có người tham gia dịch vụ du lịch nhiều
(Cát Cát, Lý Lao Chải, Sín Chải, Bản Pho... ) thì tỷ lệ hộ đói nghèo cũng giảm
gần gấp đôi so với các làng H’Mông không tham gia du lịch. Trong 9 tháng đầu
năm 2010, số hộ đói nghèo theo tiêu chí mới ở làng Cát Cát giảm 4,73%, ở Sín
Chải giảm 4,01%, ở Lý Lao Chải giảm 4,52%.
2.2.3. Du lịch tác động tích cực đến nếp sống ở các làng người H’Mơng
Vai trị của già làng, vai trò của trưởng làng được đề cao hơn trước rất nhiều.
Hiện nay, âm hưởng cuộc sống sôi động thường xuyên dội xuống làng. Nếp sống
tĩnh lặng của làng bị phá vỡ. Với việc xây dựng làng thành các điểm du lịch, với
việc thực hiện các dự án làm đường giao thông liên thôn, trồng rừng, lập các tổ
sản xuất phục vụ du lịch.... đòi hỏi sự điều hành của trưởng làng, sự tham gia của
toàn dân làng ngày càng lớn. Trưởng làng phải tổ chức các cuộc họp chung dân
làng thường xuyên nhằm bàn bạc phân công dân làng tham gia các chương trình
dự án.
Làng ở vùng du lịch, trở thành điểm du lịch cũng xuất hiện các kiểu tập hợp

người khác với làng cổ truyền. Ở đây xuất hiện các tổ sản xuất thổ cẩm, tổ du lịch
xe ơm, nhóm những người tham gia bán hàng rong, trồng hoa.... Các nhóm người
này thời kỳ đầu hình thành tự phát nhưng dần dần do nhu cầu cạnh tranh của thị
trường, do nhu cầu tiếp cận vốn tài trợ, đầu tư cũng như tiêu thụ sản phẩm đã hình
thành các tổ chức có bộ máy điều hành như tổ thêu dệt thổ cẩm ở Cát Cát, Tả
Phìn, tổ trồng hoa ở làng Má Cha, tổ hướng dẫn khách du lịch ở Cát Cát, đội văn
nghệ ở làng Cát Cát, làng Sín Chải xã San Sả Hồ huyện Sapa... Các tổ chức này
làm phong phú thêm kết cấu của thiết chế làng. Sự vận hành của các tổ chức này
trong một làng người H’mông vừa là vấn đề phức tạp nhưng cũng là vấn đề tích
15


cực củng cố sự cố kết của làng. Quan hệ cộng đồng làng về kinh tế, văn hoá, xã
hội cũng không ngừng được đề cao.
2.2.4. Tác động tiêu cực của du lịch đến các làng người H’mông ở Sapa
Bên cạnh các yếu tố tác động tích cực đến các làng người H’ mơng, du lịch
cịn một số ảnh hưởng tiêu cực. Trước hết, du lịch là nhân tố quan trọng gây ra
tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ngày càng cao giữa người H’mông và các
dân tộc khác. Hầu hết các làng H’mông trở thành điểm du lịch lại chưa có dịch vụ
nghỉ tại làng nên nguồn thu của người H’mông từ du lịch rất thấp so với người
Tày, người Dao. Điều tra năm 2008, bình quân 1 hộ gia đình người Kinh ở thị trấn
tham gia kinh doanh du lịch một năm thu nhập từ 70 triệu đồng đến 100 triệu
đồng. Người Tày ở Bản Hồ có thu nhập từ du lịch 1 năm từ 15 triệu đến 20 triệu
đồng 1 hộ. Người Dao ở Tả Phìn thu nhập từ 7 đến 9 triệu đồng/1hộ cịn người
H’Mơng ở Lao Chải chỉ thu nhập từ 4 đến 6 triệu đồng/1hộ. Như vậy, so với các
dân tộc khác, người H’mông là cộng đồng chỉ được hưởng lợi rất thấp từ du lịch.
Du lịch đã tác động mạnh mẽ đến phân công lao động trong xã hội người
H’mông, xuất hiện một số ảnh hưởng tiêu cực như tệ nạn trẻ em lang thang bỏ
học và phụ nữ bán hàng rong bám đuổi du khách. Trẻ em ở các làng người
H’Mông là điểm du lịch không đi học hoặc bỏ học nhiều hơn các làng không nằm

trong tuyến du lịch. Làng Séo Mí Tỉ nằm trên sườn núi Phan Xi Păng, tỷ lệ trẻ em
đến tuổi không đi học chỉ chiếm 17,8% nhưng ở xã Lao Chải, điều tra vào đầu
tháng 10 - 2008 có tới 49,6% số học sinh từ 6 đến 14 tuổi không đến lớp học.
Nguyên nhân do nguồn thu từ việc phục vụ du khách khá hấp dẫn nên càng kích
thích các em bỏ học, giảm tỷ lệ chuyên cần ở các lớp có học sinh lớn. Số phụ nữ
bán hàng rong, đeo bám khách cũng diễn ra thường xuyên ở mọi địa điểm du
khách tham quan. Hiện tượng chèo kéo, ép mua đồ lưu niệm thường xuyên xảy
ra.
Du lịch tác động tiêu cực đến đời sống văn hố người H’mơng, nhiều di sản
văn hố vật thể và phi vật thể truyền thống bị biến dạng, nghèo nàn hoặc bị “đóng
giả”, lợi dụng phục vụ mục đích “thương mại hoá”, tạo nhiều nguồn thu. Sinh
hoạt giao duyên buổi tối trước hơm chợ phiên khơng cịn diễn ra ở thị trấn. Trước
nhu cầu của du khách, một số người đóng giả sinh hoạt văn hố giao dun bằng
múa khèn, thổi sáo để thu tiền. Người H’mơng có nghề thổ cẩm tinh xảo. Một tấm
thổ cẩm được sản xuất phải qua nhiều công đoạn dệt, nhuộm, tạo hoa văn công
phu. Nhưng hiện nay, do nhu cầu cần “nhanh, nhiều, rẻ” nên người H’mông dùng
máy khâu thêu hoa văn. Các mô típ hoa văn đơn giản đã thay thế hoa văn đặc sắc
cổ truyền. Vì vậy giá trị nghệ thuật trong thổ cẩm H’ mông bị mai một, đứt đoạn
với truyền thống. Tương tự như vậy, các sản phẩm thủ công như chạm khắc bạc,
làm đỗ gỗ, làm nhạc cụ .... cũng chạy theo số lượng, làm sản phẩm kém chất
lượng, thậm chí cịn là đồ giả bán cho du khách. Điển hình nhất là các đồ trang
sức bằng bạc được thay thế bằng nhơm. Thậm chí, ở nhiều làng, người H’mông
không làm đồ chạm khắc bạc mà đi mua đồ trang sức của người Kinh ở miền xuôi
đem bán kiếm lời. Nhưng nguy cơ đứt đoạn văn hoá, đánh mất bản sắc văn hố
dân tộc cịn diễn ra nghiêm trọng khi một bộ phận người H’mông qua sự tuyên
truyền của du khách chối bỏ tín ngưỡng truyền thống theo đạo Tin lành. Đạo Tin
16


lành theo bước chân của du khách len lỏi đến các làng người H’ mơng Sapa dẫn

đến tình trạng gây mất ổn định trong một làng, một dòng họ. Mâu thuẫn giữa
người theo đạo với người theo tín ngưỡng cổ truyền liên tiếp xảy ra ở khắp các
CHƯƠNG
MỘT
SỐ điểm
GIẢIduPHÁP
làng H’mông3:gắn
với các
lịch. NHẰM GÌN GIỮ VÀ KHAI THÁC
HIỆU QUẢ NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HĨA CỦA TỘC NGƯỜI H’MƠNG
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI SAPA
Nâng cao vai trò của cộng đồng người dân địa phương (cộng đồng các
làng H’mơng)
Chính quyền các cấp ở Lào Cai và Sapa phải trao quyền cho các làng người
H’mơng tham gia q trình xây dựng kế hoạch (dự án) và đề ra các quyết định về
quản lý du lịch, phát triển du lịch tại địa phương có sự tham gia của các tổ chức
tư vấn và thành phần hữu quan khác. Đồng thời người H’mông ở các “giao” cũng
phải được tham gia cung cấp các dịch vụ du lịch như dịch vụ ăn nghỉ, giải trí, mua
bán.... cho du khách. Ở đây địi hỏi có các chính sách điều tiết cụ thể: Chính sách
bắt buộc phải sử dụng nguồn nhân lực tại các làng người H’mông: đào tạo các
hướng dẫn viên, các nhân viên phục vụ nhà nghỉ tại các làng H’mơng. Chính sách
xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển du lịch bền vững mà đối tượng hưởng lợi trực tiếp
là cộng đồng cư dân địa phương tham gia du lịch. Chính sách điều tiết hưởng lợi
bằng nguồn thuế, lệ phí cho các điểm du lịch ở các làng bản... Trao quyền quản
lý thu lệ phí ở Cát Cát, Tả Phìn, Cầu Mây cho cộng đồng địa phương.
Đồng thời, chính quyền và ban ngành quản lý du lịch cần tuyên truyền và
vận động nhân dân nâng cao ý thức bảo vệ mơi trường, gìn giữ và bảo tồn các nét
đẹp văn hóa truyền thống, xây dựng tập tục lành mạnh.
Người dân địa phương là những người trực tiếp gìn giữ, bảo tồn và truyền
lại những giá trị văn hóa cho thế hệ sau, họ cũng là người trực tiếp tiếp xúc với

khách du lịch. Vì vậy, những hành động ứng xử, thái độ của họ đều ảnh hướng
lớn tới tâm lý khách du lịch. Chính quyền địa phương cần ý thức được điều này,
có sự khích lệ, ưu đãi kịp thời với người dân địa phương.
3.1.

Xây dựng mơ hình các làng du lịch văn hố trở thành điểm du lịch hấp
dẫn của người H’mơng Sapa
Làng văn hố là một mơ hình của một điểm du lịch có tài nguyên du lịch
nhân văn và tự nhiên, được tổ chức khai thác phục vụ du khách theo hướng phát
triển du lịch bền vững. Ở Sa Pa hiện nay có 61 làng người H’Mơng, trong đó có
11 làng có khả năng xây dựng làng du lịch văn hoá như Cát Cát, Sín Chải, Lý Lao
Chải, Lồ Hùng Chải, Hang Đá, Tả Van H’Mơng, Séo Mí Tỉ, Giàng Tả Chải, Thải
Giàng Phình, Sử Pán, Ý Lình Hồ.
Mỗi một làng cần nghiên cứu sự độc đáo trong tài nguyên du lịch nhân văn,
tài nguyên tự nhiên xây dựng các hoạt động phục vụ du lịch, cụ thể:
Khôi phục các làng nghề thủ công truyền thống như thêu dệt, in sáp ong,
ghép vải hoa văn tạo ra các sản phẩm thổ cẩm mới, nghề chạm khắc bạc, nghề
thêu rèn đúc, nghề làm đồ mộc gia dụng, đan lán.... Đồng thời các điểm sản xuất,
3.2.

17


nghề thủ cơng cũng trở thành điểm trình diễn, điểm tham quan của du khách. Các
sản phẩm này được bày bán ngay tại các cơ sở sản xuất (các hộ gia đình), vừa xố
bỏ nạn bán hàng rong ở thị trấn, vừa thu hút du khách về làng.
Tổ chức các dịch vụ do dân làng tham gia như dịch vụ leo núi, dịch vụ hướng
dẫn viên bản địa, xây dựng các nhà nghỉ cộng đồng, phòng nghỉ đảm bảo yêu cầu
vệ sinh, sạch đẹp tại gia đình, tổ chức các dịch vụ ăn uống giới thiệu văn hoá ẩm
thực...

Bảo tồn tơn tạo các di sản văn hố vật thể, các cảnh quan phục vụ du khách
tham quan như các khu rừng thiêng, kiến trúc nhà cửa, khu ruộng bậc thang, rừng
thảo quả, nương trồng lanh, dịng suối....
Khơi phục và bảo tồn các di sản văn hoá phi vật thể, chú trọng tổ chức các lễ
hội, các sinh hoạt văn hoá cộng đồng theo đúng thời điểm truyền thống, quảng bá
du khách.
Xây dựng các đội văn nghệ dân gian phục vụ du khách . Tìm lại các bài dân
ca, các bài hát và phát triển thành phong trào ca nhạc rộng rãi trong nhân dân.
Thu hút đầu tư và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch.
Cần hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp luật sao cho phù hợp với tình
hình chung hiện nay để thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn đầu tư từ phía nhà
nước, doanh nghiệp trong nước và các tổ chức nước ngoài. Nhà nước cần quan
tâm hơn nữa tới các giá trị văn hóa của người dân tộc Hmơng nói riêng và cộng
đồng các dân tộc nói chung ở địa phương như lễ hội, nghề thủ công, ẩm thực…
nên dành một khoản kinh phí cần thiết cho việc nghiên cứu các giá trị văn hóa để
thúc đẩy hoạt động du lịch ở đây phát triển hơn nữa.
Việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch phải được sự quan tâm
của các cấp chính quyền. Phải có chiến lược xây dựng những nhà nghỉ phục vụ
khách du lịch nhưng vẫn mang đậm bản sắc dân tộc H’mông. Đồng thời có những
chính sách hỗ trợ, khuyến khích các hộ dân trong vùng tu sửa lại những ngôi nhà
truyền thống tránh bị phá hủy hoặc lai tạp xây dựng bằng bê tông cốt thép. Việc
tu sửa phải diễn ra đồng bộ và những cơng trình mới phải hài hịa với mơi trường
tự nhiên và mơi trường văn hóa và phải được nhân dân địa phương chấp nhận.
Ngồi ra phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thành các khu vui chơi giải trí dành
cho khách du lịch và nhân dân địa phương. Để khách du lịch đến đây có thể tham
gia trị chơi của dân tộc H’mơng đồng thời có thể gìn giữ và phục hồi những trị
chơi truyền thống, qua đó mà mối quan hệ giữa du khách và dân cư địa phương
được thắt chặt.
Các nhà quản lý, các nhà làm du lịch và cộng đồng đân cư phải có trách
nhiệm giới thiệu các đặc sản của địa phương, mở rộng dịch vụ bán hàng lưu niệm,

những sản phẩm thủ công truyền thống như các sản phẩm từ nghề dệt thổ cẩm…
3.3.

Tuyên truyền quảng cáo tiếp thị du lịch
Muốn phát triển du lịch văn hóa tộc người ở Sapa thì cần phải tuyên truyền
quảng bá, tiếp thị du lịch cũng như các loại hình kinh doanh khác trong du lịch.
Cơng việc này cần phải thực hiện ngay và thực hiện một cách đúng đắn tránh lãng
phí vì đây là cơng tác tuyên truyền quảng bá du lịch và cũng là bộ mặt của địa
3.4.

18


phương, tránh tạo nên những thơng tin khơng thật. Phịng văn hóa huyện nên xuất
bản những quyển sách mỏng, tờ gấp giới thiệu về du lịch tồn huyện nói chung
và du lịch văn hóa tộc người H’mơng nói riêng. Bên cạnh đó cần phối hợp với đài
truyền hình Lào Cai xây dựng các trang du lịch địa phương, hay qua các phương
tiện hiện đại như mạng Internet, lập các Website riêng giới thiệu về các tuyếnđiểm du lịch của huyện, các thơng tin chính về điểm du lịch. Đồng thời cần phối
hợp với các công ty lữ hành, sở văn hóa du lịch mở các tuyến du lịch và đăng tải
nó trên báo địa phương.
Cùng với tuyên truyền quảng cáo cần phải đẩy mạnh cơng tác tiếp thị du lịch,
tìm kiếm thị trường. Tiếp thị trong du lịch bao gồm: Thống kê, phân loại nhu cầu
du khách, tập trung tìm kiếm thị trường mục tiêu và thị trường khách tiềm
năng…Tuy nhiên, tiếp thị du lịch là một loại hình tiếp thị đặc biệt, hơn nữa lại
tiếp thị loại hình du lịch văn hóa mang tính chất vơ hình. Vì vậy người làm cơng
tác tiếp thị phải có kiến thức vững vàng, có khả năng thuyết phục khách, am hiểu
du lịch địa phương và am hiểu đối tượng khách mà mình đang hướng tới.
Tận dụng các cơ hội thuận lợi để tham gia các hội nghị, hội thảo để có điều
kiện tiếp thị, tuyên truyền quảng bá cho du lịch văn hóa tộc người H’mơng.
Xây dựng một số chương trình du lịch có khai thác văn hóa tộc người

H’mơng ở Sapa
• Tour tham quan đi bộ Bản Cát Cát từ Sapa (đi trong ngày):
8h00: Hướng dẫn viên sẽ đón du khách tại khách sạn của du khách và bắt đầu đi
bộ xuống bản Cát Cát - bản làng của tộc người H’mơng, nơi cịn lưu giữ ngun
vẹn những phong tục độc đáo của người dân tộc, tiêu biểu như tục kéo vợ.
8h50: Đến bản Cát Cát và gặp hướng dẫn viên địa phương.
9h00: tham quan và khám phá những hoạt động đời sống hàng ngày của người địa
phương:
- Xem cách bộ khăn độc đáo của người da đen H'Mông được làm tại bản Cát
Cát
- Khám phá nhà truyền thống ở bản.
- Mua sắm đồ lưu niệm
- Xem trạm thủy điện cũ được người Pháp xây dựng năm 1925
- Tham quan Thác Cát Cát
11h00: Ăn trưa tại nhà hàng trong bản Cát Cát
12h00: Kết thúc chuyến tham quan, trở về khách sạn ở thị trấn Sapa
3.5.

• Tour Sapa 3 ngày 2 đêm: Hà Nội – Sapa
NGÀY 01: HÀ NỘI – SAPA (LÀO CAI) - BẢN CÁT CÁT (ĂN TRƯA, TỐI)
6h00: Xe và Hướng dẫn viên (HDV) đón quý khách tại điểm hẹn (khu phố cổ
hoặc nhà hát lớn Hà Nội), khởi hành đi tour du lịch Sapa theo đường cao tốc Hà
Nội - Lào Cai. Quý khách dừng chân, nghỉ ngơi 30 phút ăn sáng (chi phí tự túc).
Sau đó Q khách tiếp tục lên xe khởi hành đến Sapa.
12h00: Đến thị trấn Sapa, HDV đưa khách về khách sạn nhận phòng, cất đồ đạc
và ăn trưa tại khách sạn.

19



13h30: HDV đưa đoàn tham quan Bản Cát Cát - nằm cách thị trấn Sapa 2km,
khám phá cuộc sống của đồng bào dân tộc Mông, các làng nghề truyền thống,
mua sắm các đồ lưu niệm thổ cẩm: khăn, áo, váy, túi xách… Thăm những nếp
nhà của người Mông trong bản, du khách sẽ khơng khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp
bình dị, mộc mạc.
15h30: Qúy khách rời bản Cát Cát, quay về nghỉ ngơi tại khách sạn, hoặc tự do
dạo chơi mua sắm tại khu vực thị trấn
19h00: Qúy khách dùng bữa tối tại khách sạn với các món ăn mang đậm nét đặc
trưng núi rừng Sapa như cá hồi, cá tầm, cơm lam, gà đen độc đáo...
Buổi tối, Quý khách có thể từ khách sạn tản bộ đi dạo phố, ngắm Nhà thờ Đá
Sapa, tự do thưởng thức đặc sản vùng cao như: thịt lợn cắp nách nướng, trứng
nướng, rượu táo mèo, giao lưu với người dân tộc vùng cao...
Nghỉ đêm tại khách sạn.
NGÀY 02: SAPA - CHINH PHỤC ĐỈNH PHANXIPAN - NÚI HÀM RỒNG
(ĂN SÁNG, TRƯA, TỐI)
7h00: Qúy khách ăn sáng tại khách sạn
8h30: Quý khách trải nghiệm đến khu du lịch Fansipan Legend bằng Tàu hỏa leo
núi Mường Hoa hiện đại nhất Việt Nam với tổng chiều dài gần 2000m, thưởng
ngoạn bức tranh phong cảnh đầy màu sắc của cánh rừng nguyên sinh, thung lũng
Mường Hoa.
- Chinh phục đỉnh núi Fansipan với độ cao 3.143m hùng vĩ bằng cáp treo.
- Quý khách dùng bữa trưa tại nhà hàng Vân Sam, Fansipan Legend.
14h30: Xe đón Quý khách tại ga đến Fansipan Legend khởi hành tham quan Núi
Hàm Rồng, thăm vườn Lan khoe sắc, vườn hoa Trung Tâm, ngắm Núi
Fansipan hùng vĩ, Cổng Trời, Đầu Rồng Thạch Lâm, Sân Mây...
17h00: Đoàn rời Núi Hàm Rồng, quay về nghỉ ngơi tại khách sạn hoặc tự do tham
quan
- Có thể tham quan cơ sở sản xuất và tắm thuốc của người Dao đỏ - bài thuốc
tắm cổ truyền được chế biến từ các loại thảo mộc, có tác dụng chăm sóc sức khỏe
và hỗ trợ chữa các bệnh, da dẻ mịn màng tạo cảm giác thoải mái, khỏe khoắn, dẻo

dai cho Du khách. (Chi phí tự túc)
19h00: Dùng bữa tối đặc sản địa phương tại nhà hàng, tự do khám phá Sapa về
đêm. Quý khách có cơ hội tham gia:
- Phiên chợ tình độc đáo của đồng bào Mơng - Dao được tổ chức tại quảng
trường trung tâm Sapa vào tối thứ 7 hàng tuần. Quý khách tự do đi dạo dọc khu
phố trung tâm tận hưởng khơng khí trong lành, se lạnh rất đặc trưng của vùng núi
Sapa, ghé phố ẩm thực thưởng thức đồ nướng phố núi như ngô, sắn nướng, trứng
nướng…
Đoàn nghỉ đêm tại khách sạn.
NGÀY 03: SAPA – LAO CHẢI - TẢ VAN – HÀ NỘI (ĂN SÁNG, TRƯA)
7h00: Dùng bữa sáng tại khách sạn
8h30: Xe và HDV đưa khách đi tham quan bản Lao Chải, Tả Van để khám phá vê
cuộc sống cũng như nét văn hóa của đồng bào dân tộc nơi đây
20


11h00: Qúy khách trở về khách sạn, dùng bữa trưa, nghỉ ngơi, thư giãn, sau đó trả
phịng khách sạn, rồi dạo chơi thị trấn Sapa, mua sắm các sản vật của địa phương,
đồ lưu niệm.
15h00: Xe đón đồn, đưa q khách về Hà Nội
20h30: Đoàn về đến Hà Nội, kết thúc tour du lịch Sapa 3 ngày 2 đêm. Kính chào
quý khách và hẹn gặp lại.
C. KẾT LUẬN
Du lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã khẳng định được vai trị của
mình trong nền kinh tế quốc dân. Đáp ứng được nhu cầu du lịch của nhân dân
trong nước và đón tiếp bạn bè quốc tế đến Việt Nam. Du lịch cịn góp phần giới
thiệu về đất nước và con người Việt Nam, tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc
tế với các nước trên thế giới. Văn hóa trong du lịch, đặc biệt là những yếu tố văn
hóa truyền thống vừa là mục tiêu mang tính định hướng, vừa là điều kiện để khẳng
định rằng văn hóa chính là nội dung, bản sắc đích thực để du lịch Việt Nam có thể

tạo nên các sản phẩm du lịch mang tính độc đáo và đặc sắc để thu hút khách du
lịch.
Sapa là mảnh đất chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống. Với nguồn
tài nguyên du lịch phong phú như cảnh quan thiên nhiên, lễ hội, văn hóa của các
dân tộc thiểu số…tạo nên những sản phẩm du lịch có khả năng thu hút khách cao.
Trong đó phải kể đến những giá trị văn hóa của tộc người H’mơng, tuy nhiên cho
đến nay các giá trị văn hóa này hầu như vẫn ở dạng tiềm năng chưa được khai
thác đúng mức để phục vụ phát triển du lịch. Mặc dù cơng tác này đang được tiến
hành song cịn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy việc bảo tồn, gìn giữ, khai thác và phát
huy các giá trị văn hóa của tộc người H’mông là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó,
đồng bào H’mơng đóng một vai trị khá quan trọng trong q trình phát triển du
lịch của Sapa. Có thể nói, họ là một trong những động cơ bản lề để du khách đến
du lịch Sapa. Du khách đến đây du lịch, ngồi mục đích ngắm cảnh, quan trọng
hơn cả là họ muốn tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc nơi đây, mà người H’mông
là tộc người phổ biến nhất ở đây. Ngoài ra, hiện nay đồng bào H’mơng tham gia
khá tích cực vào hoạt động du lịch ở Sapa. Có thể thấy, du lịch đem đến cả tác
động tích cực lẫn tiêu cực đối với đời sống văn hóa-xã hội của người H’Mơng ở
Sa Pa. Như vậy, cần phát huy các mặt tích cực và giảm thiểu các mặt tiêu cực để
phát triển du lịch bền vững nhằm góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
- xã hội của cộng đồng người H’mơng.

21


PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

Người H’mơng ở Sapa

Tục cướp vợ của người H’mông


Lễ cúng “ma khô”

Hội xuân của người H’mông

Lễ hội Gầu Tào

22


Mèn mén - đặc sản của người H’mông

Thịt trâu gác bếp – món ăn tiêu biểu của người
H’Mơng ở Sapa

Món Thắng cố

Thị trấn Sapa

Bản Cát Cát thuộc xã San Sả Hồ, huyện Sapa

Lối vào bản Cát Cát

Chợ tình Sapa – nét văn hóa độc đáo của người Mơng

Đỉnh Fansipan, Sapa

23



×