Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

----------

TRẦN THỊ THU HẰNG

HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

KHÓA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

----------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

Giảng viên hướng dẫn: ThS. XA KIỀU OANH
Sinh viên thực hiện: TRẦN THỊ THU HẰNG
Lớp: Dân sự 42A1, Khóa: 42
MSSV: 1753801010256



TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan khóa ḷn “Hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án nhân dân” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của ThS. Xa Kiều Oanh. Kết quả nghiên cứu trong khóa luận
là tìm hiểu của bản thân tôi về quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp
dụng pháp luật. Những tài liệu tham khảo được trích dẫn, ghi rõ nguồn và liệt kê tại
danh mục tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 7 năm 2021.
Tác giả

Trần Thị Thu Hằng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Số thứ tự

Viết thường

Viết tắt

01

Bộ luật Dân sự

BLDS


02

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự (Số: 24/2004/QH11)

BLTTDS

03

04

ngày 15 tháng 06 năm 2004 được sửa đổi, bổ sung
bởi Luật số 65/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm

năm 2004 sửa
đổi, bổ sung

2011

năm 2011

Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội
đờng Thẩm phán Tịa án nhân dân tới cao ngày
03/02/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa
án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã

được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nghị quyết số
05/2012/NQHĐTP


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN........................................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .......9
1.1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ..........................................9
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .................................. 12
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .................................... 14
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án nhân dân ...................................................................................................................................... 17
1.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải ................................................................................................. 17
1.2.2. Phạm vi hòa giải.................................................................................................................... 24
1.2.3. Thành phần tham gia và trình tự tiến hành phiên hòa giải ......................................................... 34
1.2.4. Kết quả hòa giải trong tố tụng dân sự ...................................................................................... 40

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 46
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN ..................................................................................................................................... 48
2.1. Về phạm vi hòa giải ................................................................................................................. 48
2.2. Về thành phần phiên hịa giải ................................................................................................ 60
2.3. Về trình tự tiến hành hịa giải ................................................................................................ 62
2.4. Về nội dung hòa giải ............................................................................................................... 67


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................................. 71
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................
PHỤ LỤC CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ..........................................................................



LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Hịa giải là hình thức giải quyết tranh chấp dân sự đã xuất hiện rất sớm, kể từ
khi con người có tranh chấp thì họ đã biết cách áp dụng các biện pháp thương
lượng, hoà giải với nhau để giải quyết những mâu thuẫn nhằm chấm dứt những
bất đồng phát sinh giữa họ. Ngày nay cũng vậy, hịa giải khơng những chiếm vị trí
quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nói chung mà nó còn có vai trò lớn lao
trong khoa học pháp lí nói riêng, đặc biệt là vai trị khơng thể thiếu trong hoạt động
tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Do hòa giải có tính chất là tác
động đến hai hay nhiều đối tượng đang có tranh chấp nhằm đạt đến sự thỏa thuận
thống nhất vì vậy pháp luật quy định hòa giải là một trong những thủ tục tố tụng bắt
buộc và vô cùng quan trọng khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự. Bên cạnh đó
khi mà vụ án dân sự được giải qút thơng qua hịa giải thành giữa các đương sự thì
Tịa án sẽ khơng phải mở phiên tòa, tránh được việc xét xử vụ án nhiều lần, tiết
kiệm thời gian công sức, sự tốn kém cho người dân, cho nhà nước, đồng thời vụ án
sẽ giảm bớt được các giai đoạn tố tụng tiếp theo như phải mở các phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm… từ đó vụ án sẽ được kết thúc nhanh chóng hơn.
Mặc khác thông qua hòa giải, Thẩm phán có điều kiện tiếp xúc với người dân
để hướng dẫn, giải thích pháp luật cho họ, từ đó góp phần giáo dục và nâng cao ý
thức pháp luật trong nhân dân. Khi được tiếp xúc với việc giải thích pháp luật, các
đương sự sẽ hiểu thêm pháp luật và chính sách của Nhà nước, đồng thời đương sự
còn được thể hiện quyền tự định đoạt và sự tự nguyện thỏa thuận với nhau của mình

về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án phù hợp quy định của pháp luật. Như vậy,
hòa giải có thể nói là giải pháp quan trọng để giải quyết các tranh chấp, làm giảm
bớt mâu thuẫn, căng thẳng trong nội bộ nhân dân, củng cố và tăng cường sự đoàn
kết của quần chúng nhân dân, giúp ngăn ngừa phần nào số vụ phạm tội có thể phát
sinh từ các tranh chấp dân sự.
Tuy hòa giải có những thuận lợi nhất định nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật
về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân những năm vừa qua
cho thấy một số quy định của pháp luật về hòa giải nói chung và Bộ luật Tố tụng
dân sự nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định mang tính
chung chung, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau…,


nhiều quy định chưa phù hợp hoặc khơng cịn phù hợp với thực tiễn áp dụng nên rất
cần phải được sửa đổi, bổ sung ngay. Ngoài ra trong quá trình hịa giải Tịa án ở một
sớ địa phương cịn mắc phải những sai sót đáng tiếc về nội dung lẫn hình thức hịa giải
nên cịn nhiều qút định cơng nhận hòa giải thành của Tòa án đã bị Tòa án hoặc Viện
kiểm sát cấp trên kháng nghị dẫn đến bị hủy và vụ việc tranh chấp phải xử đi xử lại
nhiều lần, gây tốn kém về nhiều mặt của các bên đương sự cũng như của Nhà nước.
Điều này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến việc bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự cũng như làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hòa giải trong giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân” để làm Khóa luận tốt nghiệp. Thông qua việc nghiên cứu
đề tài, tác giả hy vọng kết quả của việc nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện hơn pháp
luật về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân ở nước ta.
Tình hình nghiên cứu
Theo tìm hiểu của tác giả, thời gian qua đã có một sớ cơng trình nghiên cứu
khoa học có liên quan đến đề tài này như sau:
Thứ nhất, các cơng trình đề cập đến hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân với vị trí là một trong các vấn đề của ngành luật tố tụng dân sự.
Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ban hành, có các cơng trình sau

đây: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh (2012); Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội (2012); Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi của các tác
giả Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012); Bình luận khoa
học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã sửa
đổi, bổ sung 2011 của Viện Nhà nước và Pháp luật (2012).
Các công trình này đề có phạm vi nghiên cứu là tổng thể các quy định pháp
luật của ngành luật tố tụng dân sự chứ không tập trung vào hòa giải trong giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân. Do đó, mặc dù có đề cập đến, nhưng hầu hết các
công trình chỉ dừng lại ở việc phân tích mang tính khái quát. Ngoài ra, những công
trình này đều được biên soạn trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 nên một sớ điểm mới trong quy định về hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân chưa được đề cập đến.


Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ban hành, một số công trình nghiên
cứu về pháp luật tớ tụng dân sự ra đời như: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam của Trường Đại học Luật thành phớ Hờ Chí Minh (2017); Giáo trình Luật Tố
tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (2017); Bình luận khoa học
Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2015
của tác giả Trần Anh Tuấn (2017); Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương (2016); Bình luận khoa học
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của tác giả Bùi Thị Huyền (2016).
Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hòa giải trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân đã được đề cập trong các công trình nghiên
cứu nói trên. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của các công trình này là tổng thể
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự nên quy định về hòa giải trong giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân chỉ được đề cập đến và chưa đi sâu vào phân tích.
Thứ hai, các công trình có đới tượng nghiên cứu là hịa giải trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân. Cụ thể:

Tác giả Lý Văn Toán với đề tài Những vụ án dân sự khơng được hịa giải và
khơng tiến hành hòa giải được, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2017), Trường đại học
Ḷt Thành Phớ Hờ Chí Minh. Trong cơng trình này, tác giả tập trung nghiên cứu về
phạm vi hịa giải. Tác giả phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam tại Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 về những vụ án dân sự không được hịa giải và khơng tiến
hành hịa giải được. Qua đó, tác giả chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải
quyết các vụ án dân sự; đồng thời đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định
pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài khá hẹp nên vấn đề hòa giải trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân chưa được tác giả phân tích sâu.
Tác giả Nguyễn Thị Thúy với đề tài Hồn thiện chế định hịa giải trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2014), Khoa luật - Đại học
quốc gia Hà Nội. Công trình này cũng đã nêu lên được những khó khăn vướng mắc và
kiến nghị hồn thiện chế định hịa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tuy
nhiên cơng trình chỉ mới bước đầu nêu sơ qua về những vụ án dân sự khơng được
hịa giải và khơng tiến hành hịa giải được, chưa đi sâu nghiên cứu tồn diện quy
định pháp ḷt tớ tụng dân sự về hòa giải. Bên cạnh đó, Luận văn nghiên cứu trước
thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên có những nội dung không


phù hợp.
Tác giả Nguyễn Thị Hương với đề tài Hòa giải vụ án hơn nhân và gia đình, Ḷn
văn Thạc sĩ Luật học (2014), Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội. Công trình này đã
nêu được một số khó khăn vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về hồ giải trong giải
qút vụ án hơn nhân và gia đình. Tuy nhiên cơng trình nghiên cứu này chỉ nghiên cứu
về hịa giải vụ án hơn nhân và gia đình không đề cập nhiều về những vụ án dân sự
khác. Ngoài ra, Luận văn này nghiên cứu trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 nên có những nội dung không phù hợp.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa với đề tài Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án nhân dân, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013), Trường đại học Luật Thành Phố Hờ
Chí Minh. Cơng trình này nghiên cứu về hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa

án, nêu lên được khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, Luận văn
nghiên cứu trước thời điểm ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên có
những nội dung khơng phù hợp.
Tác giả Huỳnh Tất Ngọc Trân với đề tài Hòa giải vụ án kinh doanh thương
mại tại Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2009), Trường đại học Ḷt Thành Phớ
Hờ Chí Minh. Cơng trình này có nghiên cứu liên quan đến hịa giải vụ án kinh
doanh thương mại tại Tòa án, nêu lên được một số quy định trong Bộ luật Tố tụng
dân sự nhưng chủ yếu nghiên cứu chuyên biệt về hòa giải trong các vụ án kinh
doanh thương mại tại Tòa án chưa đi sâu nghiên cứu tổng quan, chuyên sâu về hòa
giải trong giải quyết vụ án dân sự.
Bài viết “Hịa giải trong tố tụng dân sự - nhìn từ góc độ kinh tế” của tác giả
Lê Nết (2006) đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý sớ 02; Bài viết “Cần nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung quy định thủ tục ra bản án và quyết định của Tòa án tại phiên tòa”
của tác giả Nguyễn Thanh Mận (2010) đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân sơ 09;
Bài viết “Điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hòa giải vụ án dân sự
và những nội dung cần hướng dẫn” của tác giả Bùi Thị Huyền (2016) đăng trên
Tạp chí Tịa án nhân dân sớ 08; Bài viết “Những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân
sự 2015 về hòa giải vụ án dân sự” của tác giả Đặng Quang Huy (2017) đăng trên
Tạp chí Nghề Luật số 06: Những bài viết trên tiếp cận tới vấn đề hịa giải ở những
khía cạnh khác nhau và nhắc đến hòa giải là một vấn đề của bài viết khi giải quyết
những vấn đề liên quan khác.


Bài viết “Biên bản hịa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt không”
(2018)1; Bài viết “Một số ý kiến về những vụ án khơng hịa giải được trong
BLTTDS năm 2015” (2019)2; Bài viết “Khơng cần hịa giải đối với vụ án ly hôn
trong trường hợp không đăng ký kết hơn” (2019)3: Những bài viết này giúp tác giả
có thêm nhiều thông tin thực tiễn áp dụng pháp luật về hịa giải trong q trình giải
qút vụ án dân sự và tiếp cận được nhiều quan điểm kiến nghị hồn thiện pháp
ḷt.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả lựa chọn đề tài “Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án nhân
dân” với đới tượng nghiên cứu là các quy định về hòa giải vụ án dân sự theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam với các mục đích hướng đến là:
Thứ nhất, phân tích một cách toàn diện quy định của pháp luật về việc hòa giải
trong giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm để làm rõ cơ sở lý luận, từ đó tìm
ra những điểm chưa hợp lý, chưa cụ thể trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hiện hành.
Thứ hai, tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật và nghiên cứu các
vấn đề vướng mắc phát sinh trong q trình hịa giải giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm.
Thứ ba, trên cơ sở của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành để tìm ra mới liên hệ
với các quy định của pháp luật tố tụng trong hệ thống pháp ḷt tớ tụng Việt Nam,
ngồi ra cịn có sự liên hệ đến pháp luật của nước ngoài trong vấn đề hịa giải để
thấy được sự tương đờng, và hơn hết là sự tiến bộ của pháp luật tố tụng dân sự nước
ngoài. Qua đó, có thể lựa chọn hướng sửa đởi cho phù hợp với tình hình thực tiễn
trong nước.
Bài viết “Biên bản hịa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt không”, truy cập ngày 07/6/2021.
1

Bài viết “Một số ý kiến về những vụ án không hòa giải được trong BLTTDS năm 2015,
truy cập ngày 04/6/2021.
2

Bài viết “Khơng cần hịa giải đới với vụ án ly hôn trong trường hợp không đăng ký kết hôn”,
truy cập ngày 03/6/2021.
3


Cuối cùng, mục đích quan trọng nhất mà tác giả muốn hướng đến là đưa ra

những kiến nghị trong một số trường hợp để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố
tụng dân sự trên thực tế.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khố ḷn tập trung phân tích và làm rõ vấn đề hòa giải trong giải quyết vụ án
dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Các quy định của pháp luật và
những vấn đề thực tiễn được nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi cấp xét xử sơ thẩm.
Để có cái nhìn bao quát hơn về sự thay đởi theo hướng ngày càng hồn thiện
hơn của pháp luật tố tụng dân sự trong việc quy định về hòa giải trong giải quyết vụ
án dân sự, tác giả đối chiếu với một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Ngoài ra, tác giả liên hệ tới một số quy định về
vấn đề tương tự trong quy định của pháp ḷt tớ tụng nước ngồi, cụ thể là: Nhật
Bản, Trung Quốc, Pháp và Liên bang Nga. Phạm vi của khoá luận là tập trung phân
tích quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và đưa ra những kiến nghị phù
hợp với thực tiễn áp dụng. Do đó, tác giả chỉ tiếp thu những quy định mà tác giả cho
rằng có thể áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam nên không đi sâu vào việc
nghiên cứu tất cả các quy định của các ngành luật khác và pháp luật nước ngoài về
vấn đề hòa giải.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích mà khoá luận hướng đến, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp, cụ thể như sau:
Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tởng hợp và bình
ḷn để làm rõ những khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân. Ngoài ra, những phương pháp kể trên được tác giả
sử dụng trong việc trình bày các quy định của pháp ḷt tớ tụng dân sự về vấn đề mà
khóa luận nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp so sánh để
đối chiếu sự giống nhau và khác nhau giữa quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Hơn
nữa phương pháp so sánh được sử dụng trong việc liên hệ giữa pháp luật tố tụng



dân sự Việt Nam với pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài nhằm tìm ra được những
quy định phù hợp mà Việt Nam có thể áp dụng để khắc phục hạn chế cịn tờn tại.
Trong Chương 2, tác giả cũng sử dụng phương pháp phân tích, bình luận về
những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
trên thực tiễn xét xử vụ án dân sự về việc hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để rút ra
được những bất cập và vướng mắc đang cần hướng giải quyết phù hợp, từ đó đưa ra
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
Kết cấu của khóa luận
Ngoại trừ phần lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì
khóa luận bao gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tịa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng và một sớ kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hòa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.



CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Sự phát triển của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế hội nhập ngày càng
phong phú, đa dạng, là động lực mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu thiết lập các quan hệ về
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Cùng với đó, số lượng các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động được xét xử hằng năm ngày càng gia tăng
nhanh chóng. Để giải qút kịp thời và nhanh chóng tranh chấp thì có rất nhiều cách

thức khác nhau, hoặc các bên tự thỏa thuận, bàn bạc để đi đến thống nhất, hoặc nhờ
bên thứ ba làm trung gian hòa giải, hoặc đưa các tranh chấp ra cơ quan tài phán có
thẩm quyền phán quyết…. Trong nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp, hòa giải là
một biện pháp quan trọng để giải quyết kịp thời các tranh chấp, hướng tới mục đích
bình đẳng và hịa hợp trong các mới quan hệ xã hội. Hịa giải đã trở thành một nét
đẹp truyền thớng, đạo lý của dân tộc Việt Nam giúp giải quyết những mâu thuẫn,
tranh chấp góp phần giữ gìn sự hịa tḥn cho từng gia đình, bình yên cho từng xóm
làng, giữ trật tự, kỹ cương, an toàn xã hội, củng cố khới đoàn kết cộng đờng.
Để tìm hiểu khái niệm hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, trước
tiên cần tìm hiểu khái niệm tḥt ngữ “hịa giải”.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “hòa giải” được hiểu là “việc thuyết phục các bên
đồng ý chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa”4 hay “hịa giải là dàn xếp
nhằm chấm dứt một cuộc xung đột”5 hoặc “hòa giải là thu xếp để chấm dứt một
cuộc xung đột, một mối bất hòa”6. Các khái niệm này đã đưa ra một cách chung
nhất về phương thức và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ các
yếu tố như bản chất, nội dung, và chủ thể của hịa giải.

4

Viện Ngơn ngữ (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 430.

5

Viện Hàn Lâm Khoa học – Xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr.350.

6

Từ điển Tiếng Việt (1999-2000), Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 372.



Từ điển Luật học năm 2006 thì “hòa giải” được hiểu là “thuyết phục các bên
tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa. Thơng thường, việc
hòa giải được tiến hành sau khi thương lượng (khiếu nại) giữa các bên đã không
đạt được kết quả”7. Khái niệm này đã chỉ ra được chủ thể, phương thức, thời điểm
của hòa giải.
Theo từ điển Luật học Anh – Mỹ Black thì “hịa giải là một q trình giải
quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, hịa giải viên là người thứ ba
trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thỏa thuận”8. Cách hiểu này đã
nêu lên được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trong hòa giải.
Trong khoa học pháp lý, cũng có nhiều khái niệm tờn tại về “hịa giải” như
“hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của một bên thứ
ba trung lập, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù
hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”9. Quan điểm này thể
hiện được bản chất, đặc điểm của hòa giải và chủ thể trung gian là bên thứ ba trung
lập với vai trò giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận giải quyết tranh chấp một cách
tự nguyện.
Quan điểm khác lại cho rằng “hòa giải là một trong những phương thức giải
quyết tranh chấp, theo đó các bên tự cùng nhau hoặc thơng qua sự hướng dẫn giúp
đỡ một cách có tổ chức của bên thứ ba để bàn bạc, thỏa thuận để tìm ra giải pháp
giải quyết xung đột giữa họ”10. Theo quan điểm này, hòa giải được xem như là một
biện pháp giải quyết tranh chấp, với sự giúp đỡ của bên thứ ba, các bên có thể cùng
nhau tự thỏa thuận, thống nhất giải pháp giải quyết xung đột của mình.
Như vậy, tuy các khái niệm về hịa giải có sự khác nhau nhưng chung quy lại
thì hịa giải luôn là phương thức giải quyết tranh chấp một cách hịa bình và thỏa
mãn ba ́u tớ gờm: (i) Có sự tranh chấp giữa hai bên; (ii) Có sự thớng nhất ý chí
giữa các bên để giải quyết tranh chấp thơng qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít; (iii)
Trong q trình hịa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để cho ý kiến
7

Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp – Nxb. Bách khoa toàn thư, tr. 365.


8

Henry Campbell (1990), Từ điển Luật học Anh - Mỹ Black, Nxb. West. Thomson, tr. 152.

Dương Quỳnh Hoa (2015), Cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế đối với các quan hệ thương mại ở Việt
Nam – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Q́c gia, tr. 126.
9

Huỳnh Tất Ngọc Trân (2009), Hòa giải vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Trường Đại học Ḷt Thành phớ Hờ Chí Minh, tr. 03.
10


tư vấn đờng thời cơng nhận thủ thục hịa giải thành giữa các bên trong tranh chấp.
Nếu khơng có sự tham gia của bên thứ ba này thì quá trình này gọi là tự hòa giải
hoặc thương lượng11.
Trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, tuy pháp luật chưa có khái niệm về
hòa giải nhưng cũng có quan điểm về hòa giải tại TAND “hòa giải là một chế định
quan trọng của luật tố tụng dân sự, là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính sự
thỏa thuận, thương lượng của các đương sự”12. Quan điểm này nêu lên được chủ
thể tham gia hòa giải là các bên đương sự nhưng vẫn chưa nêu được vai trò của Tòa
án trong q trình hịa giải.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS năm 2015 thì hịa giải là trách nhiệm của
Tịa án nhằm tạo điều kiện cho các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật và được tiến hành như một thủ tục cần
thiết, bắt buộc và cũng là một thủ tục đặc trưng của tố tụng dân sự. Hòa giải tại
TAND thể hiện vai trò của Tòa án là bên trung gian trong hòa giải. Nếu hòa giải
thành thì Tịa án sẽ ra qút định cơng nhận, vì vậy hòa giải cũng được xem là một
biện pháp giải quyết tranh chấp. Chủ thể trung tâm của hòa giải là Tòa án sẽ giúp

cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp và sự thỏa
thuận về giải quyết tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp quyết định. Như
vậy, hoà giải là một thủ tục tố tụng do TAND tiến hành, nhằm giúp đỡ các đương
sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết quan hệ đó cho phù hợp với pháp ḷt,
khơng trái đạo đức xã hội.
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của tác giả thì hịa giải trong giải
quyết vụ án dân sự tại TAND cần được hiểu như sau: Hòa giải trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử và được khuyến khích ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Theo đó,
người tiến hành tố tụng với vai trị trung gian, có trách nhiệm hịa giải, giải thích
pháp luật, giúp đỡ các bên đang có tranh chấp trong vụ án dân sự mà mình giải
quyết nhằm hướng các bên đi đến thỏa thuận về một giải pháp giải quyết tranh
chấp trên cơ sở đó Tịa án sẽ xem xét công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
Lê Nết (2006), “Hịa giải trong tớ tụng dân sự - nhìn từ góc độ kinh tế”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 02,
tr. 33.
11

Nguyễn Ngọc Điệp - Lê Thị Kim Nga - Vũ Mạnh Thơng (1999), Tìm hiểu ngành luật tố tụng dân sự, Nxb.
Mũi Cà Mau, tr. 98.
12


1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân
Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân có những đặc điểm
đặc trưng như sau:
Thứ nhất, hịa giải là một nguyên tắc cũng là một thủ tục bắt buộc trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự tại TAND. Trong lĩnh vực dân sự, thơng thường lợi ích
của các bên được xem như là động lực để các bên tham gia quan hệ pháp luật dân
sự và cũng chính là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự13. Xuất phát từ sự tự nguyện,

quyền tự định đoạt của đương sự trong quan hệ dân sự nên khi phát sinh tranh chấp
từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, không giống với
tố tụng hình sự hay tớ tụng hành chính. Trong đó, hịa giải là một biện pháp quan
trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tớ tụng dân sự mà Tịa án phải thực hiện. Bên
cạnh đó, hòa giải cũng đã được các văn bản pháp luật về tố tụng trước đây khẳng
định là một nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án14. Với tinh thần đó,
BLTTDS năm 2015 tiếp tục khẳng định hòa giải là một nguyên tắc trong tớ tụng
dân sự: “Tịa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các
đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
Bộ luật này”. Đồng thời, tại Điều 10, Điều 205, Điều 206 và Điều 207 BLTTDS
năm 2015 quy định hịa giải có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa
sơ thẩm, trừ những vụ án khơng được hịa giải, những vụ án khơng tiến hành hịa
giải được, vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Do hòa giải là một nguyên tắc bắt
buộc phải tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, vì vậy nếu khơng tiến
hành hòa giải mà đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại
phiên tòa sơ thẩm, mặc dù trách nhiệm của Tòa án là hịa giải nhưng khơng mang
tính bắt buộc mà chỉ mang tính khún khích hịa giải15. Sự bắt buộc phải tiến hành
Lê Thị Bích (2013), Hịa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 16.
13

Điều 9 Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và ḷt tớ tụng quy định: “Tịa án nhân
dân hịa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương mại kể cả việc xin ly dị trừ những vụ kiện mà theo luật
pháp đương sự khơng có quyền điều đình”.
14

Điều 10 BLTTDS năm 2004, sửa đởi, bở sung năm 2011 cũng có ghi nhận: “Tồ án có trách nhiệm tiến
hành hòagiải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân
sự theo quy định của Bộ luật này”.
Khoản 1 Điều 246 BLTTDS năm 2015: “Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau

về việc giải quyết vụ án hay không; trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
15


hịa giải ở đây là chỉ bắt buộc đới với Tịa án vì khi tiến hành hịa giải giữa các
đương sự, Tòa án giữ vị trí đặc biệt quan trọng, phải chủ động trong việc hòa giải để
giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Đối với đương sự thì việc tham gia hay
khơng tham gia hịa giải phải thể hiện ý chí tự nguyện của đương sự nên khơng
mang tính chất bắt buộc như đới với Tịa án. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định
hòa giải là một nguyên tắc cũng là việc tận dụng tối đa cơ hội rút ngắn q trình tớ
tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, đờng thời cịn mang ý nghĩa xã
hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khới đoàn kết cộng
đờng.
Thứ hai, chủ thể tiến hành hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND là
Thẩm phán16 hay Hội đồng xét xử17. Chủ thể này xuất hiện không phải với tư cách
một bên tham gia hịa giải mà là người tở chức, bố trí cho các đương sự thương
lượng, thỏa thuận với nhau. Với vai trò giải thích cho các đương sự hiểu được
quyền, nghĩa vụ pháp luật có liên quan đến tranh chấp cần hòa giải. Kết quả hòa giải
là biên bản hịa giải thành hoặc khơng thành và đây là những văn bản có tính chất
pháp lý, là cơ sở để tiếp tục các hành vi tố tụng tiếp theo. Sự có mặt của chủ thể này
trong hịa giải khẳng định vị trí trung gian của Tịa án trong việc hòa giải các vụ án
dân sự và chủ thể này do pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào sự lựa chọn
của các bên. Đặc điểm này là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong giải quyết vụ án
dân sự tại TAND có sự khác biệt với các hình thức thương lượng hoặc hịa giải
ngồi tớ tụng khác do người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn,
hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Chủ thể tiến hành hịa giải
này phải có vị trí và vai trị độc lập với các bên, hồn tồn khơng có lợi ích liên
quan đến tranh chấp và không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào. Tuy chủ
thể tiến hành hịa giải khơng do các bên qút định, lựa chọn nhưng sự điều chỉnh,

thỏa thuận về giải pháp giải quyết các tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp
quyết định.

án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội
đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án”.
16

Điều 209 đến Điều 212 BLTTDS năm 2015.

17

Điều 246 BLTTDS năm 2015.


Thứ ba, hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự. Mặc dù hòa giải là một
hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của
các đương sự. Đương sự trong các vụ án dân sự là chủ thể chính của hòa giải và là
các bên của tranh chấp mà Tòa án cần giải quyết. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết
mâu thuẫn của chính họ. Vì lý do này mà pháp luật quy định đương sự là người có
quyền tự định đoạt để giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc thỏa thuận giữa các đương
sự sẽ đạt được kết quả trung thực, được Tịa án cơng nhận nếu quá trình thỏa thuận
được diễn ra trên cơ sở tự nguyện, khơng bị một ai với bất kỳ hình thức nào cưỡng
ép, can thiệp vào thỏa thuận của các đương sự. Đặc điểm này là đặc trưng cơ bản
của hòa giải, đờng thời cũng là điểm khác biệt giữa hịa giải và xét xử. Khi xét xử,
Tòa án sẽ ra phán quyết và đương sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi phán quyết
của Tòa án. Trong hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh
chấp thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa tḥn đó.
Thứ tư, hịa giải cịn có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác.
Trong q trình hịa giải Thẩm phán sẽ nắm bắt được tâm tư nguyện vọng và yêu
cầu của từng bên, hiểu rõ hơn những vấn đề mà các bên đang tranh chấp để từ đó

tiến hành các công việc cần thiết liên quan đến phiên tòa sơ thẩm và hoạt động tớ
tụng của Tịa án sau này. Nếu hịa giải tớt thì phiên tịa sơ thẩm diễn ra sau này sẽ
được tḥn lợi, hạn chế tình trạng hỗn phiên tịa nhiều lần do những yếu tố chủ
quan cũng như hạn chế tình trạng xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
do bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án. Bên cạnh đó việc thực hiện tốt cơng tác hịa giải sẽ giúp cho Tịa án
cấp phúc thẩm giải quyết kháng cáo, kháng nghị được nhanh chóng, thuận lợi.
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Hòa giải khơng chỉ mang lại ý nghĩa đới với Tịa án, cho các bên tranh chấp,
cho việc thi hành án mà cịn có ý nghĩa đới với trật tự xã hội.
Ý nghĩa đối với Tịa án:
Xét xử tớt đã là tớt nhưng không phải xét xử mà vẫn giải quyết được tranh
chấp cịn tớt hơn, vì vậy hịa giải ln được khún khích khi giải qút vụ án dân
sự18. Qua hịa giải, trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ giảm bớt được nhiều
18

Lê Thị Bích (2013), tlđd (10), tr. 26.


thời gian, công sức cho việc giải quyết vụ án. Đặc biệt nếu hòa giải thành trong thời
gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì Tịa án sẽ khơng phải mở phiên tịa sơ thẩm, phiên
tịa phúc thẩm và có thể sẽ không phải thực hiện những thủ tục tố tụng phức tạp và
khó khăn như thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm, hạn chế việc giải qút
vụ án trải qua nhiều vịng tớ tụng. Mặt khác, nếu làm tớt cơng tác hịa giải thì khơng
chỉ tỷ lệ số vụ án được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm được nâng cao mà cịn giảm
sớ lượng án phải giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Điều này sẽ khơng chỉ có ý
nghĩa về kinh tế mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường uy tín của
cơ quan xét xử nói riêng cũng như cơ quan nhà nước nói chung.
Trong trường hợp hịa giải vụ án dân sự khơng thành thì việc hịa giải cũng
giúp Tịa án có điều kiện để tìm hiểu kỹ hơn nội dung của vụ án với những tình tiết

liên quan, nắm vững nội dung tranh chấp, hiểu rõ hơn tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng của các đương sự cũng như những vướng mắc trong suy nghĩ của ; từ đó củng
cố hồ sơ vụ án, xác định đường lối xét xử đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án,
hiệu quả xét xử được nâng cao.
Ý nghĩa đối với các bên tranh chấp:
Hòa giải giúp các đương sự bảo đảm được quyền quyết định và tự định đoạt
mình, là cơ hội để các đương sự có thể bàn bạc, thỏa thuận với nhau về cách giải
quyết tranh chấp. Thông qua hòa giải, các đương sự có thêm cơ hội để giải quyết vụ
án theo ý muốn của mình nhưng vẫn đảm bảo được việc mâu thuẫn sẽ được giải
quyết một cách triệt để. Bên cạnh đó, hòa giải giúp các đương sự hiểu biết và thơng
cảm với nhau, góp phần khôi phục lại tình đoàn kết giữa họ, giúp họ giải quyết
tranh chấp với tinh thần cởi mở, giảm bớt mâu thuẫn, ngăn ngừa việc họ có thể sẽ
phạm do nguồn gốc phát sinh từ tranh chấp dân sự. Trường hợp khơng hịa giải
thành thì q trình hịa giải cũng giúp cho các đương sự ngồi lại với nhau, hiểu rõ
hơn nguyên nhân tranh chấp, được bày tỏ ý chí của mình. Từ đó, họ có thể phần nào
tìm được tiếng nói chung cũng giúp hạn chế bớt mâu thuẫn.
Thơng qua việc giải thích pháp ḷt liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, phân tích hệ quả của hòa giải thành của Thẩm phán, các đương sự sẽ nắm
được các quy định của pháp luật liên quan đến quan hệ đang tranh chấp, hiểu được
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Trên cơ sở đó, họ điều chỉnh hành vi và lựa
chọn thực hiện hành vi tuân thủ theo quy định của pháp luật. Thông qua đó, hòa giải


cũng giúp nâng cao được nhận thức của các chủ thể trong việc thực hiện pháp luật
và họ có thể tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp, không trái với quy định của
pháp luật.
Hòa giải còn giúp cho các đương sự ít tớn kém về án phí cho những u cầu
của mình. Trước khi mở phiên tịa, Tịa án tiến hành hòa giải, nếu các đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ chịu 50% mức án phí
dân sự sơ thẩm (khoản 3 Điều 147 BLTTDS năm 2015). Trong trường hợp các

đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ phải chịu
án phí sơ thẩm nếu u cầu của họ khơng được Tịa án chấp nhận, trừ trường hợp
được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm (khoản 1 Điều 147 BLTTDS năm
2015). Bên cạnh đó, tâm lý của các đương sự trong q trình giải qút vụ án tại
Tịa án bao giờ cũng mong muốn rút khỏi tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu
quả cịn hơn việc phải theo đ̉i một q trình giải qút quan hệ tranh chấp tại Tịa
án kéo dài, vừa tốn nhiều thời gian lại ảnh hưởng rất lớn đến uy tín. Do đó nếu
thống nhất được phương án giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng thì thơng
tin, bí mật của cá nhân, cơ quan, tở chức khơng bị tiết lộ và uy tín của họ cũng
không bị giảm sút19.
Ý nghĩa đối với việc thi hành án:
Khi bản án được Tòa án đưa ra thì bước tiếp theo trong q trình tớ tụng đó là
cơng việc thi hành án nếu các bên có yêu cầu. Tuy nhiên trên thực tế, công việc thi
hành án là không dễ dàng bởi những cản trở thường thấy như: đương sự có điều
kiện thi hành án nhưng vẫn cớ tình khơng tự nguyện thi hành án, bản án được Tịa
án tun nhưng lại sai sót nên khơng thể thực hiện thi hành án trên thực tế…Chính
vì những lý do trên, dẫn tới phán qút của Tịa án khơng dễ dàng được thực hiện
trên thực tế.
Ngược lại với bản án của Tịa án, đới với qút định cơng nhận sự thỏa thuận
của các đương sự là sự tự nguyện thỏa thuận, thống nhất của các đương sự, là kết
quả của việc thực hiện quyền thỏa thuận và tự định đoạt của các đương sự nên khi
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được ban hành và có hiệu lực
pháp luật thì các đương sự sẽ có xu hướng tôn trọng và tự nguyện thi hành hơn là
Lê Hữu Nghĩa (2013), Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân, Luận văn Thạc sỹ Ḷt
học, Trường Đại học Ḷt Thành phớ Hờ Chí Minh, tr. 14.
19


một bản án với quyền quyết định giải quyết tranh chấp thuộc về Tòa án. Như vậy,
khi vụ án được hòa giải thành sẽ giúp cho việc thi hành án được thuận lợi hơn so

với những vụ án được đưa ra xét xử. Từ đó sẽ góp phần làm giảm thiểu số lượng án
dân sự bị tồn đọng và việc phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước trong công
tác thi hành án.
Ý nghĩa đối với trật tự xã hội:
Hòa giải thành đã nhanh chóng khắc phục được bất đồng, giảm bớt mâu thuẫn
và hậu quả khác do tranh chấp gây ra, ngăn ngừa tội phạm có ng̀n gớc từ tranh
chấp dân sự phát sinh, đồng thời khôi phục được lịng tin, củng cớ đoàn kết trong
nội bộ nhân dân, thúc đẩy giao lưu dân sự tiếp tục phát triển. Hịa giải cịn có ý
nghĩa quan trọng trong việc phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc ta, nâng cao
nhận thức và hiểu biết về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nâng cao
trình độ dân trí, giáo dục nếp sớng và làm việc theo pháp ḷt trong nhân dân. Như
vậy, hịa giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự cơng bằng xã hội, làm cho
mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh, mà bằng sự giáo dục
thuyết phục và cảm thông của các thành viên trong xã hội20.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hòa giải trong
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
1.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải
Việc hịa giải khơng thể tiến hành một cách tùy tiện mà tuân theo những
nguyên tắc nhất định. Đó là những quan điểm, tư tưởng nền tảng, mang tính chỉ đạo
xun śt q trình hịa giải từ xác định phạm vi hịa giải, trình tự hịa giải và cơng
nhận kết quả hòa giải. Cụ thể, theo quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015 thì khi tiến
hành hịa giải Tịa án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo các nguyên tắc
sau:
Thứ nhất, hòa giải là một hoạt động tịa án phải tiến hành trong q trình giải
quyết các vụ án dân sự.
Trong tớ tụng dân sự, “Tịa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều
kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân
sự” (Điều 10 BLTTDS năm 2015). Như vậy, trách nhiệm hòa giải của Tịa án đã
20


Lê Thị Bích (2013), tldđ (10).


được pháp luật xác định là một trong những nguyên tắc đặc thù để phân biệt với các
ngành luật khác. Quy định này hoàn toàn phù hợp khi giải quyết những tranh chấp
mà trước đó các bên trong quan hệ tranh chấp đã thiết lập trên cơ sở bình đẳng, tự
do thỏa thuận ý chí để thiết lập nên các giao dịch này. Chính vì vậy, khi phát sinh
tranh chấp, mâu thuẫn… việc giải quyết, dàn xếp các mâu thuẫn đó phải từ chính
các bên nhưng cần thiết có một chủ thể thứ ba đủ uy tín, trách nhiệm và có thẩm
quyền để hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục nhằm giúp các bên tranh chấp đạt được
sự thỏa thuận một cách tự nguyện vì lợi ích hài hịa của các bên.
Cơ sở của hòa giải vụ án dân sự là quyền tự định đoạt của đương sự. Trong vụ
án dân sự, các đương sự là chủ thể của các quan hệ pháp luật về nội dung có tranh
chấp cần giải quyết nên có quyền thương lượng với nhau để giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, sự định đoạt này phải xuất phát từ ý chí chủ quan, từ sự tự nguyện của
chính đương sự. Khơng ai, bằng bất kỳ hình thức nào có thể cưỡng ép, bắt buộc
đương sự thỏa thuận với nhau giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ. Đối
với những vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác, cơ quan, tổ chức không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh
chấp nên không có quyền hịa giải với bị đơn21.
Hịa giải trong tớ tụng dân sự có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của q
trình tớ tụng nhưng trách nhiệm, quyền hạn hòa giải của Tòa án ở mỗi giai đoạn tố
tụng là khác nhau tùy thuộc vào ý nghĩa và bản chất của từng giai đoạn tố tụng đối
với tồn bộ tiến trình tớ tụng giải qút tranh chấp tại Tòa án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Theo khoản 1 Điều 205 BLTTDS
năm 2015, Tòa án phải tiến hành hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án trừ những vụ án không được hịa giải, khơng tiến hành hịa giải được hoặc
những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm là một
giai đoạn trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND được tính từ ngày Tòa án thụ lý
vụ án đến ngày Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, ở giai đoạn này Tòa án sẽ

chuẩn bị những điều kiện cần thiết để xét xử những vụ án mà Tịa án đã thụ lý trong
đó bao gờm cả hoạt động hòa giải. Như vậy, hòa giải ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm là hành vi tố tụng do Tòa án chủ động thực hiện nhằm triệu tập các bên đương
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.
256, 257.
21


sự đến Tòa án để tiến hành việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đương sự
thỏa thuận về các vấn đề trong vụ án mà các bên có tranh chấp. Trừ những vụ án
khơng được hịa giải, khơng tiến hành hòa giải được hoặc những vụ án được giải
quyết theo thủ tục rút gọn thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định
tại Điều 203 BLTTDS năm 2015, Tịa án phải có trách nhiệm tiến hành hịa giải dù
việc hịa giải có khả năng thành hay khơng. Nếu Tịa án khơng tiến hành hịa giải
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
dân sự và là căn cứ kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm để hủy án và xét xử sơ
thẩm lại. Xuất phát từ mục đích của hòa giải là để các đương sự thỏa thuận được
việc giải quyết tranh chấp một cách ổn thỏa, từ đó đem lại nhiều ý nghĩa cho Tòa án
và các đương sự. Do vậy, mục đích của hòa giải sẽ thể hiện rõ nhất, đem lại nhiều ý
nghĩa nhất khi các đương sự thỏa thuận được với nhau trước khi mở phiên tòa sơ
thẩm. Vì khi đó Tịa án sẽ khơng phải mở phiên tịa xét xử, có thể khơng phải tiến
hành thêm các giai đoạn tớ tụng tiếp theo như phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái
thẩm. Với ý nghĩa như vậy nên pháp luật quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải
trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Tòa án khơng hịa giải mà chỉ tạo điều kiện để các bên
tự hịa giải bằng cách hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về giải quyết
vụ án hay khơng. Vì vậy, Điều 246 BLTTDS năm 2015 quy định: “Chủ tọa phiên
tịa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay
không; trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và khơng trái

đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự về việc giải quyết vụ án”. Sở dĩ, hòa giải chỉ bắt buộc ở giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm mà khơng mang tính ngun tắc ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo
để tránh việc phải hịa giải vơ ích nhiều lần khi vụ việc khơng còn khả năng hòa giải
giữa các đương sự.
So sánh với pháp ḷt một sớ nước trên thế giới, có thể thấy, phần lớn các
nước đều tồn tại quy định về hòa giải vụ án dân sự. Song việc hòa giải mang tính
bắt buộc được tiến hành ở thời điểm nào của quá trình giải quyết vụ việc dân sự
được pháp luật của các nước quy định khác nhau. Theo pháp ḷt tớ tụng dân sự
Nga, hịa giải giữa các bên là một trong những nhiệm vụ của Tòa án trong giai đoạn


×