Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.14 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
•••

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
•••

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN
Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

••••

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐÌNH HUY



TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Đình Huy. Những số liệu, kết
luận nghiên cứu được trình bày trong Luận văn này là trung thực và chưa từng được
công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ

NGUYỄN THỊ KIM DUNG


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
BLTTDS 2004

Diễn giải
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được đổi, bổ sung
sửa số điều theo Luật sửa đổi, bổ sung một một điều Bộ
số tụng dân sự năm 2011)

BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

HĐXX

Hội đồng xét xử


QĐCNSTT

Quyết định cơng nhận sự thỏa thuận

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

luật Tố


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số lượng
Bảng
3.1 giải quyết và hòa giải thành vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân hai cấp Thành
phố Hồ chí Minh (tính từ ngày 01/10/2009 đến ngày 30/11/2018)
Số lượng giải quyết và hòa giải thành vụ án hơn nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân
hai cấp
Bảng
3.2Thành phố Hồ chí Minh (tính từ ngày 01/10/2009 đến ngày 30/11/2018)
Số lượng giải quyết án và hòa giải thành vụ án lao động và kinh doanh thương mại tại
Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ chí Minh (tính từ ngày 01/10/2009 đến ngày
30/11/2018)
Bảng
3.3



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.......................................................................3
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài....................................6
4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................6
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................7
6. Kết cấu của luận văn .................................................................................7
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN ....................................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự

tại Tòa án......................................................................................................... 8
1.1.1 Khái niệm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án ...8
1.1.2 Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án ....11
1.1.3 Ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án .......14
1.2. Hòa giải theo quy định của một số nước trên giới thế ...........................17

1.2.1. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản .......................17
1.2.2. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Trung Quốc ...................19
1.2.3. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp .............................20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................23
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TỊA ÁN ............................................................................24
2.1 Hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm ...............24

2.1.1 Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm 24


2.1.2. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm ....50
2.2. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại giai đoạn cấp phúc thẩm ....53
2.2.1 Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử
phúc thẩm ...............................................................................................53
2.2.2 Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa phúc thẩm . 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2....................................................................................... 57
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN .58
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân 02 cấp Thành phố Hồ Chí Minh .........................................58
3.1.1. Những kết quả hịa giải đạt được trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân 02 cấp Thành phố Hồ Chí Minh ..................................58
3.1.2. Những vướng mắc trong quy định của pháp luật về hòa giải trong
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án...........................................................63
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hòa giải trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án ........................................................................72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................................77
KẾT LUẬN ............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, có thể nói hịa giải là hình thức giải quyết tranh chấp dân sự
xuất hiện khá sớm. Khi tranh chấp xảy ra, các bên thường cố gắng tự thương lượng, dàn
xếp với nhau hoặc tìm đến người thứ ba để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải
pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh chấp, bất hịa.
Ngày nay, hịa giải khơng những chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế xã
hội nói chung mà cịn có vai trị lớn trong khoa học pháp lý nói riêng, đặc biệt là vai trị
khơng thể thiếu trong hoạt động tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Hòa
giải vụ án dân sự là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa
thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Do hịa giải có tính chất tác động đến hai hay
nhiều đối tượng tranh chấp nhằm đạt đến sự thỏa thuận thống nhất, vì vậy pháp luật quy
định hòa giải là một trong những thủ tục bắt buộc và vô cùng quan trọng khi Tòa án giải
quyết các vụ án dân sự. Bên cạnh đó, nếu vụ án dân sự được giải quyết thơng qua hòa
giải trên cơ sở các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, thì
Tịa án khơng phải thực hiện các giai đoạn tố tụng tiếp theo như phải mở các phiên tòa
sơ thẩm, phúc thẩm... Không những vụ án sẽ kết thúc một cách nhanh chóng hơn mà cịn
giúp tiết kiệm thời gian, công sức, sự tốn kém của người dân và Nhà nước.
Thơng qua hịa giải, Thẩm phán có điều kiện tiếp xúc với người dân để giải thích,
hướng dẫn pháp luật cho họ, từ đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.
Khi đó, người dân có cơ hội hiểu thêm về chính sách và pháp luật của Nhà nước. Như
vậy, hòa giải là một giải pháp quan trọng để giải quyết các tranh chấp, làm giảm bớt mâu
thuẩn, căng thẳng giữa các bên và tăng cường sự đồn kết trong nhân dân. Tuy nhiên,
khơng phải lúc nào hòa giải cũng đạt được thỏa thuận thống nhất giữa các bên. Khi đó,
thơng qua hịa giải Thẩm phán có thể xác định được những vấn đề mà đương sự thỏa
thuận được với nhau và không thỏa thuận
Nhận thức được vai trò quan trọng này, pháp luật nước ta đã ban hành các văn bản
pháp luật đầu tiên về hòa giải như Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc


2


được với nhau, từ đó giúp Thẩm phán có căn cứ và định hướng giải quyết các giai
đoạn tiếp theo của vụ án một cách đúng đắn và phù hợp với quy định của pháp luật.
lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa. Sau đó, hịa giải lại được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật sau đó: Sắc lệnh
85/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước quy định về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng; Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1960; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự 1989 ; Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 được sửa đổi tại Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 (BLTTDS 2004) có hiệu lực ngày
01/01/2012, bước đầu đánh dấu sự phát triển trong việc lập pháp; sau đó tiếp tục được
đổi mới, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(BLTTDS 2015) có hiệu lực ngày 01/7/2015. Mặc dù vậy, cùng với sự phát triển không
ngừng của xã hội dẫn đến các quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, các quy định của pháp
luật không kịp điều chỉnh các quan hệ tranh chấp phát sinh, những điều luật quy định
một cách chung chung của pháp luật dẫn đến việc áp dụng các điều luật một cách lúng
túng, gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ án dân sự trong thực tiễn.
Xuất phát từ vai trò của hòa giải trong tố tụng dân sự, hòa giải được xem là một
thủ tục không thể thiếu trong việc giải quyết các vụ án dân sự, trừ những trường hợp
khơng được hịa giải hoặc khơng tiến hành hịa giải được theo quy định của pháp luật.
Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành về hịa giải mặc dù đã có những quy định
mới nhằm bổ sung, nhằm hoàn thiện hơn nữa về hòa giải trong tố tụng dân sự so với Bộ
luật Tố tụng dân sự trước đây. Tuy nhiên, thực tiễn cơng tác hịa giải tại Tịa án cho thấy
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập liên quan đến chế định hòa giải như: quy định của
pháp luật về hòa giải còn chưa đầy đủ, một số quy định cịn chưa phù hợp với thực tiễn,
chưa khuyến khích các bên tham gia hịa giải; trình tự, thủ tục hịa giải cịn chưa đảm bảo
được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan; chưa quy định thủ tục hòa giải đối
với tất cả các giai đoạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự... Do đó, dẫn đến
nhiều vụ án khơng được Thẩm phán giải quyết vụ án tổ chức tiến hành hòa giải theo
đúng quy định của pháp luật và đã bị Tòa án cấp trên sửa, hủy bản án hoặc quyết định; tỷ
lệ vụ án phải đưa ra xét xử vẫn cao do tỷ lệ hòa giải thành thấp hoặc việc hòa giải được

thực hiện khơng hiệu quả. Vì vậy, thực tiễn đang đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật về
chế định hòa giải cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và
hiệu quả hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Vì vậy, địi hỏi cần phải có
sự nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ nhằm góp phần hồn thiện pháp luật


3

tố tụng dân sự Việt Nam. Với những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài “Hịa giải trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án” mang ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hịa giải trong tố tụng dân sự là vấn đề hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu khoa
học pháp lý. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình mang dấu ấn của việc nghiên cứu về
chế định hòa giải trong tố tụng dân sự của các tác giả như:
- Luận văn “Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn thiện” của
tác giả Bùi Đăng Huy thực hiện năm 1996 tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Cơng trình
này cũng nghiên cứu về hịa giải trước khi có BLTTDS 2004 nên ở đây mặc dù tên gọi là
nghiên cứu hòa giải trong tố tụng dân sự nhưng chủ yếu tác giả nghiên cứu dựa trên
những quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để từ đó nêu lên một
số khó khăn vướng mắc và hướng hồn thiện về hịa giải trong tố tụng.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Thực tiễn thi hành chế định hịa giải
trong q trình giải quyết vụ án dân sự - những tồn tại, vướng mắc và kiến nghị (số đăng
ký 2001-38-045) do Viện nghiên cứu khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) thực hiện năm 2002. Cơng trình này đã nêu lên những kết quả đạt được trong
quá trình thực thi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, những vướng mắc còn
tồn tại và đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện hơn pháp luật về hịa giải tại Tòa án.
Tuy vậy, đề tài chủ yếu nêu các vấn đề về thực tiễn, ít đi sâu


4


nghiên cứu về lý luận cũng như quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết
vụ án dân sự tại TAND.
- Luận án “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - Cơ sở lí
luận và thực tiễn” của tác giả Trần Văn Quảng thực hiện năm 2004 tại Trường Đại học
Luật Hà Nội. Do đây là thời điểm mà BLTTDS 2004 chưa có hiệu lực nên cơ sở lý luận
và thực tiễn của đề tài này chủ yếu nghiên cứu hòa giải theo quy định của Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự và dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy vậy, cơng trình
này cũng đã phần nào khái lược được các quy định về trình tự thủ tục hòa giải vụ án dân
sự tại TAND.
- Luận án “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam” của tác giả
Đào Thị Xuân Lan thực hiện năm 2004 tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Cơng trình này
có sự phân biệt giữa tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh tế. Ngoài việc chủ yếu nghiên
cứu hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế, cơng trình này cũng đồng thời đề
cập đến các hoạt động hịa giải ngồi tố tụng, chủ thể tiến hành hịa giải khơng phải là
Tịa án (ví dụ: Trọng tài thương mại).
- Luận văn “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng,
hòa giải - những vấn đề lí luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Hoài Sơn thực hiện
năm 2004 tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Mặc dù cơng trình này có nghiên cứu liên
quan đến hòa giải tại Tòa án nhưng hòa giải ở đây chủ yếu là các tranh chấp thương mại
nhưng chưa đi sâu nghiên cứu hòa giải các tranh chấp dân sự tại TAND. Bên cạnh đó,
cơng trình cịn nghiên cứu hịa giải ngồi tố tụng tại Tịa án.
- Luận văn “Hòa giải trong các vụ án dân sự từ thực tiễn xét xử của Tịa án nhân
dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Quỳnh Châu thực
hiện năm 2015 tại Học viện Khoa học xã hội. Cơng trình này có sự nghiên cứu pháp luật
về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này
tại TAND quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó luận giải những cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết
vụ án dân sự tại TAND cấp quận ở nước ta. Tuy
Qua nghiên cứu những cơng trình này, có thể nhận thấy, ít nhiều các tác giả đã có

những nghiên cứu và phân tích về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự. Do hòa giải
trong tố tụng dân sự là một vấn đề khơng mới trong khoa học pháp lý. Có cơng trình
nghiên cứu hòa giải dựa trên những quy định của của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự 1989; có cơng trình nghiên cứu về hịa giải tại Tòa án nhưng hòa giải ở đây


5

nhiên, nội dung nghiên cứu của tác giả chỉ ở phạm vi TAND cấp quận và việc
nghiên cứu được thực hiện trước khi BLTTDS 2015 có hiệu lực.
chủ yếu là tranh chấp thương mại, đồng thời chủ yếu nghiên cứu hịa giải ngồi tố tụng,
chưa đi sâu nghiên cứu các tranh chấp dân sự tại Tịa án; có cơng trình nghiên cứu về
hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND nhưng đều là những cơng trình nghiên
cứu trong bối cảnh của những quy định pháp luật cũ; bên cạnh đó cũng có một số bài
viết khoa học pháp lý chủ yếu nêu các vấn đề về thực tiễn, ít đi sâu nghiên cứu về lý luận
cũng như quy định của pháp luật hòa giải trong tố tụng dân sự.
Đa số các cơng trình nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trước khi BLTTDS 2015
ra đời. BLTTDS 2015 được Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày
25/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Như vậy BLTTDS 2015 được áp dụng vào
thực tiễn cho đến thời điểm hiện tại khoảng gần 3 năm. Mặc dù vậy khi áp dụng quy
định này vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những vướng mắc và bất cập. Đến thời điểm hiện
nay, vẫn có một số nghiên cứu đã được thực hiện như “Bình luận những điểm mới trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của PGS.TS Nguyễn Thị Hồi Phương và tập thể tác
giả, năm 2015; hay “Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 : Dành cho
thẩm phán, hội thẩm, thẩm tra viên, kiểm sát viên, luật sư và các học viên tư pháp” của
tác giả Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp và một số nội dung trong các bài báo, tạp chí
khoa học pháp lý.
Do vậy, việc nghiên cứu này là sự nghiên cứu toàn diện, chi tiết và đầy đủ về hòa
giải theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, nêu ra những vướng mắc của quy định cùng
với việc tìm ra giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật, nhằm giúp cho việc áp dụng

quy định pháp luật phù hợp với thực tiễn là thực sự cần thiết, tránh


6

tình trạng áp dụng pháp luật khơng thống nhất, gây ra những sai lầm, thiếu sót, vi
phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động hòa
giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Nhằm phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật về
hịa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng quy định này, từ đó
làm rõ hơn bản chất thủ tục hịa giải trong q trình giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án, từ
đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp trong việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về hịa
giải trong tố tụng dân sự nước nhà phù hợp với thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu: Là các quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải được
ghi nhận trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn của việc áp
dụng của các quy định này tại TAND. Luận văn có đề cập đến việc hịa giải trong tố tụng
dân sự theo pháp luật của một số nước trên thế giới, nhưng chỉ là đối chiếu, so sánh khi
cần thiết , chứ không đi sâu vào lĩnh vực này.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu những vấn đề trọng tâm về hòa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án như nguyên tắc, phạm vi các vụ án hòa giải, chủ
thể, thủ tục trong hòa giải vụ án dân sự tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, phân tích
những bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng tại TAND
Thành phố Hồ Chí Minh để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau: phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đề giải quyết toàn
bộ nội dung khoa học; phương pháp phân tích được xem là phương pháp chủ yếu trong
suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, cịn kết hợp một số phương pháp nghiên
cứu khác: Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu để tìm ra những ưu khuyết điểm

những quy định trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, bên cạnh đó cũng so sánh quy
định về hịa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam với pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới; phương pháp thống kê được sử
Ý nghĩa khoa học: Luận văn này là cơng trình khoa học pháp lý nghiên cứu một
cách tồn diện, đầy đủ và có hệ thống về hịa giải trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
tại Tịa án. Phân tích những vấn đề lý luận về hịa giải, từ đó làm sáng tỏ bản chất, điều
kiện, thủ tục hòa giải.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn nêu lên được những khó khăn vướng mắc trong quy
định của pháp luật về hòa giải cũng như đưa ra được một số kiến nghị nhằm góp phần
vào việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về hịa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt


7

dụng trong phần thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hòa giải, sau cùng
là phương pháp tổng hợp được sử dụng để hoàn thành luận văn trên cơ sở tập hợp
các tài liệu, số liệu đã thu thập.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nam trước yêu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho những người có liên quan đến việc tham gia tố tụng tại Tịa án trong q
trình giải quyết vụ án dân sự, cũng như được sử dụng để tham khảo phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, tác giả
còn chia Luận văn thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Lý luận chung về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.
Chương 2. Pháp luật hiện hành về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hồn thiện pháp luật về hịa giải trong
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.



8

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ TẠI TÒA ÁN
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án
1 A __ À _ • rp Ạ r__
dân sự tại Tòa án
1.1.1.

Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
Trong xã hội ngày một phát triển như hiện nay, thì việc phát sinh thêm tranh

chấp dân sự trong các mối quan hệ xã hội là điều tất yếu và những tranh chấp này càng
lúc càng phức tạp trên tất cả các lĩnh vực như: dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động,
thương mại, hành chính... Khi tranh chấp xảy ra, các bên thường cố gắng tự thương
lượng, dàn xếp với nhau hoặc nhờ bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ cho các
bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, bất hòa
hoặc đưa các tranh chấp ra cơ quan tài phán có thẩm quyền phán quyết... Trong đó, hịa
giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trường hợp các bên tranh chấp khơng tự thương lượng, hịa giải được
với nhau về việc giải quyết tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, thì tranh chấp sẽ
được Tịa án giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Chính những lý do
trên là cơ sở thực tiễn làm xuất hiện khái niệm hòa giải trong khoa học pháp lý. Để tìm
hiểu khái niệm hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, trước tiên ta cần tìm
hiểu khái niệm thuật ngữ “hịa giải”.
Theo một số từ điển, hòa giải “là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung

đột hay xích mích một cách ổn thỏa” 2 hoặc “là thu xếp để chấm dứt một cuộc xung đột,
một mối bất hòa”3 hay còn được hiểu là “thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết
tranh chấp của mình một cách ổn thỏa. Thơng thường, việc hòa giải được tiến hành sau
khi thương lượng (khiếu nại) giữa các bên đã không đạt được
Theo Black's Law Dictionary thì “hịa giải là một q trình giải quyết tranh chấp
2Từ điển Tiếng Việt (1992), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 350
3Từ điển Tiếng Việt (1999-2000) ,NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr. 372


9

kết quả”3. Các khái niệm này đã đưa ra một cách chung nhất về phương thức và
mục đích và thời điểm của hịa giải.
mang tính chất riêng tư, trong đó, Hòa giải viên là người thứ ba trung gian giúp các
bên tranh chấp đạt được một sự thỏa thuận” 4 5. Khái niệm trên nêu lên được hành vi,
vai trò trung gian của bên thứ ba trong hoà giải.
Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hòa giải.
Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng “hịa giải là q trình giải quyết
những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong q trình hịa giải cần đến bên thứ ba
với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên tranh chấp giải quyết được những
bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã
hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó” 6. Quan điểm này cho rằng mục đích
của hịa giải là giải quyết thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các
trường hợp hịa giải đều thành cơng. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn
toàn nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý
chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ tranh
chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói chung và làm giảm mức độ
mâu thuẫn.
Quan điểm thứ hai: Theo quan điểm này “hòa giải là một biện pháp giải quyết
các tranh chấp, theo đó, với sự giúp đỡ của một bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung

gian, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy
định pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội” 7. Quan điểm này thể hiện được bản chất,
đặc điểm của hòa giải và vai trò của bên trung gian thứ ba trong hòa giải. Xem hòa giải
là một biện pháp giải quyết tranh chấp; chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian
giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết

4Từ điển Luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa - NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 365
5Pryan A. Garner (biên soạn, 1990), Black's Law Dictionary, NXB West, Thomson, tr 152
6Trần Huy Liệu (1999), Thực trạng tổ chức và hoạt động hịa giải ở cơ sở, Thơng tin khoa học pháp lý,
số 2, tr. 25 - 29
7Trần Văn Quảng (2004), Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và
thực tiễn, luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 145.


10

tranh chấp; sự thỏa thuận về giải quyết tranh chấp do chính các bên tranh chấp
quyết định.
Ngồi ra cịn có quan điểm như: “Hòa giải là biện pháp giải quyết tranh chấp,
mà theo đó các bên trong q trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc
lập làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích
hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh chấp, bất hịa”8. Như vậy, tuy các
khái niệm về hịa giải có sự khác nhau nhưng chung quy lại thì hịa giải ln là phương
thức giải quyết tranh chấp một cách hịa bình và thỏa mãn ba yếu tố gồm:
Một là, phải có tranh chấp giữa hai bên.
Hai là, phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp thơng
qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít.
Ba là, trong q trình hịa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để cho
ý kiến tư vấn đồng thời cơng nhận thủ tục hịa giải thành giữa các bên trong tranh chấp.
Nếu khơng có sự tham gia của bên thứ ba này thì quá trình này gọi là tự hòa giải hoặc

thương lượng9.
Trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, tuy pháp luật chưa có khái niệm về hịa
giải nhưng cũng có quan điểm về hòa giải tại TAND “là sự thỏa thuận của các bên
đương sự về việc giải quyết toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện và tự nguyện chấm dứt
tranh chấp bằng con đường tố tụng”10. Quan điểm này nêu lên được hòa giải là sự thỏa
thuận của các bên đương sự nhưng vẫn chưa nêu được vai trò của Tịa án trong q
trình hịa giải.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS 2015 quy định về hòa giải trong tố tụng dân
sự: “Tịa án có trách nhiệm tiến hành hịa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương
sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật
này”. Như vậy, trong việc giải quyết vụ án dân sự, Tòa án đóng vai trị là trung gian hịa
giải, giúp đỡ các bên đương sự thỏa thuận giải quyết vụ án. Điều này có nghĩa, hịa giải
là sự tự nguyện thỏa thuận và thương lượng giữa các đương sự về việc giải quyết vụ án
với sự giúp đỡ của TAND nhằm hướng sự thỏa thuận và thương lượng giữa các đương
sự đúng pháp luật và chính sách. Trong q trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm, đối với
những vụ án mà pháp luật quy định phải hịa giải thì hịa giải là một thủ tục đặc trưng và
8Phạm Hữu Nghị (2002), Hịa giải trong tố tụng dân sự , Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (44), tr.
42 - 47
9Lê Nết (2006), Hòa giải trong tố tụng Dân sự - nhìn từ góc độ kinh tế, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
2(33), tr. 14 - 17
10Nguyễn Ngọc Khánh (2005), Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ
luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5, tr.68


11

mang tính bắt buộc đối với Tịa án trước khi mở phiên tịa. Nếu hịa giải thành thì Tịa
án sẽ ra quyết định cơng nhận, vì vậy hịa giải cũng được xem là một biện pháp giải
quyết tranh chấp. Chủ thể trung tâm của hòa giải là Tòa án sẽ giúp cho các bên tranh
chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp và sự thỏa thuận về giải quyết

tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp quyết định.
Xét ở mức độ chung nhất thì hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND là
cách thức tích hợp hịa giải vào tố tụng tư pháp với vai trò của Tòa án là người trung
gian thứ ba để hỗ trợ, giúp đề xuất các cách giải quyết thân thiện để hai bên tự thỏa
thuận nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt
các tranh chấp, bất hòa, đồng thời công nhận giá trị pháp lý và bảo đảm thi hành kết quả
thỏa thuận của các bên bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Do đó, theo quan điểm của tác giả thì hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cần được hiểu như sau: Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án là
một thủ tục tố tụng bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và được khuyến


• ^9

^9 ^9



•/
khích ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Trong đó, Tòa án là chủ thể trung gian tiến
hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi nhằm giúp các bên tranh chấp trong vụ án
dân sự đi đến thỏa thuận về một giải pháp giải quyết tranh chấp, trên cơ sở đó Tịa
án sẽ xem xét cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
Thứ nhất, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án, là hoạt động tố tụng được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân
sự quy định.
Không giống tố tụng hình sự hay hành chính, bản chất của quan hệ dân sự được
thiết lập trên cơ sở tự nguyện và tự định đoạt của đương sự. Vì vậy, việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định.

Trong đó, hịa giải là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng dân sự mà Tòa án phải thực
hiện trong quá trình tố tụng của một vụ án dân sự và được quy định tại các điều từ Điều
205 đến Điều 213 của BLTTDS 2015. Các văn bản tố tụng trước đây mà cụ thể là Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động khẳng định
hòa giải là một nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trên tinh thần
đó, BLTTDS 2015 tiếp tục khẳng định: “Tịa án có trách nhiệm tiến hành hịa giải và tạo


12

điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự
theo quy định của Bộ luật này”.
Theo quy định tại Điều 205, Điều 246, Điều 298 và Điều 300 BLTTDS 2015 quy
định hịa giải có tính chất bắt buộc trước khi mở phiên tịa sơ thẩm, trừ những vụ án
khơng được hịa giải, khơng tiến hành hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Do vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu Tịa án khơng hịa giải mà đưa vụ án ra xét
xử thì sẽ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại các giai đoạn tiếp theo, việc hịa giải
khơng là thủ tục bắt buộc mà chỉ mang tính khuyến khích. Điều này được thể hiện qua
việc hỏi tại phiên tòa, Chủ tòa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án hay không, trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của
luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm ra Quyết định
công nhận sự thỏa thuận (QĐCNSTT) của các đương sự về việc giải quyết vụ án và
HĐXX phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, cơng nhân sự thỏa thuận
giữa các đương sự.
Tính chất bắt buộc hòa giải ở đây chỉ là bắt buộc đối với Tịa án, vì Tịa án là chủ
thể giữ vị trí đặc biệt quan trọng, phải chủ động tạo điều kiện thuận lợi để các tranh
chấp thỏa thuận được với nhau. Còn đối với các đương sự, việc hòa giải hay khơng hịa
giải khơng mang tính chất bắt buộc mà hồn tồn dựa trên ý chí tự nguyện của các bên.



13

Với ý nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, mọi quan hệ phát
sinh trong quá trình hịa giải vụ án dân sự được pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh.
Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở để tiến hành hòa giải các vụ án
dân sự và bắt buộc Tòa án và những người khác tham gia hòa giải phải tuân thủ.
Thứ hai, Tòa án là chủ thể trung gian tiến hành hòa giải
Chủ thể tiến hành hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND làm trung gian
hòa giải giúp các đương sự thỏa thuận với nhau là Thẩm phán hoặc HĐXX. Đặc điểm
này là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND có sự khác
biệt với các hình thức thương lượng, hịa giải khác ngồi tố tụng, chẳng hạn hòa giải tại
cơ sở do Hòa giải viên cơ sở tiến hành, hòa giải tại Ủy ban nhân dân do Ủy ban nhân
dân tiến hành, hoặc người trung gian có thể là cơ quan, tổ chức luật sư hoặc các tổ chức
khác do các bên thỏa thuận. Chủ thể này không xuất hiện với tư cách một bên tham gia
hịa giải mà là người tổ chức, bố trí hịa giải, giải thích quyền và nghĩa vụ pháp luật liên
quan đến tranh chấp cần hòa giải cho các đương sự hiểu, tham gia hòa giải với vai trò
chủ thể trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp trong suốt quá trình giải quyết vụ việc
dân sự để các bên đạt được sự thỏa thuận, đồng thời đảm bảo tính pháp lý của hòa giải.
Kết quả hòa giải là biên bản hịa giải thành hoặc khơng thành làm cơ sở pháp lý cho các
giai đoạn tố tụng tiếp theo. Sự có mặt của chủ thể này trong hịa giải khẳng định vai trò
trung gian của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự tại TAND và chủ thể này do
pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên,
Thứ ba, hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải là một thủ tục bắt buộc do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất
hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các bên. Việc thỏa thuận giữa các đương sự sẽ đạt
được kết quả trung thực, hợp tình hợp lý nếu quá trình thỏa thuận diễn ra trên cơ sở tinh
thần tự nguyện, trung thực, không bị bất kỳ ai với bất kỳ hình thức nào cưỡng ép hay
can thiệp vào sự thỏa thuận của các bên. Chỉ đương sự mới có quyền quyết định về việc
giải quyết quyền và lợi ích của họ trong q trình hịa giải vì họ hiểu hơn ai hết mâu

thuẩn của chính họ. Đặc điểm này cũng là đặc điểm đặc trưng cơ bản của hòa giải và
cũng là điểm khác biệt với xét xử. Bởi khi xét xử, Tòa án phải ra phán quyết và các
đương sự phải chấp hành nghiêm chỉnh phán quyết đó. Trong hịa giải, Tịa án chỉ đóng
vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau mà khơng can thiệp
vào thỏa thuận đó. Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải quyết
trong vụ án dân sự thì Tịa án lập biên bản hòa giải thành, hết thời hạn 07 ngày, kể từ
ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên không thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó,
thì Tịa án ra QĐCNSTT của các đương sự 11.
11Điều 212 BLTTDS 2015


14

Thứ tư, hịa giải có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác
Thẩm phán hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sẽ nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng của các bên. Do vậy, nếu hịa giải thành thì Tịa án lập biên bản hịa giải
thành và ra QĐCNSTT của các đương sự nếu các bên khơng thay đổi ý kiến. Tuy nhiên,
nếu hịa giải khơng thành thì Thẩm phán cũng hiểu rõ hơn vấn đề mà các bên đang tranh
chấp để từ đó có thể định hướng được đường lối giải quyết vụ án và tiến hành các giai
đoạn tiếp theo của hoạt động tố tụng thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, cơng tác hịa giải tốt
thì phiên tịa sơ thẩm diễn ra sau này sẽ được sn sẻ hơn, tránh được tình trạng hỗn
phiên tịa nhiều lần do yếu tố chủ quan cũng như hạn chế được tình trạng kháng nghị
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Hòa giải tốt còn giúp Tòa án cấp phúc
thẩm giải quyết kháng cáo, kháng nghị được nhanh chóng, thuận lợi.
1.1.3. Ý nghĩa
Hịa giải khơng chỉ mang lại ý nghĩa cho Tịa án trong q trình giải quyết các vụ
án dân sự theo trình tự sơ thẩm tại TAND mà cịn làm giảm đi tính chất phức tạp của
các bên tranh chấp, tạo điều kiện thi hành án thuận lợi, nhiều khả năng đương
- Ý nghĩa đối với Tòa án

Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ giảm bớt được nhiều thời gian, công
sức cho việc giải quyết vụ án, rút gọn quy trình giải quyết các vụ án. Đặc biệt nếu hòa
giải thành trong thời gian chuẩn bị xét xử thì Tịa án sẽ khơng phải mở phiên tòa sơ
thẩm và hạn chế các thủ tục xét xử tiếp theo như xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Mặt khác, nếu làm tốt công tác hịa giải thì khơng chỉ số lượng xét xử của Tòa án
cấp sơ thẩm giảm xuống mà số lượng án ở Tòa án cấp phúc thẩm cũng giảm theo một
cách rõ rệt, hệ quả là hiệu quả xét xử sẽ được nâng cao. Điều này sẽ khơng chỉ có ý
nghĩa về kinh tế mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường uy tín của cơ
quan xét xử nói riêng cũng như cơ quan nhà nước nói chung.
Trong trường hợp hịa giải khơng thành thì Tịa án cũng có điều kiện nắm vững
nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự, những vấn đề mà các bên thỏa
thuận được và không thỏa thuận được để từ đó có thể định hướng thu thập chứng cứ
nhằm xác định đường lối xét xử đúng đắn hơn trong q trình giải quyết vụ án. Trong
đó:


15

sự tự nguyện thi hành, hạn chế cưỡng chế thi hành, ngồi ra cịn có ý nghĩa đối với
việc giữ gìn trật tự xã hội.
* Bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt của đương sự trong việc giải quyết vụ án dân
sự
Giải quyết vụ án dân sự là quá trình tự giải quyết các mâu thuẫn của các bên bằng
biện pháp thương lượng, hồ giải nhằm tìm ra một thoả thuận mà hai bên có thể chấp
nhận được; nhưng các thoả thuận này không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Tòa
án với vai trò là trung gian hịa giải, khơng can thiệp vào nội dung giải quyết vụ án của
các đương sự.
* Tiết kiệm được tiền của, công sức, thời gian của Nhà nước và nhân dân trong
trường hợp hòa giải thành
Các quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thường

được thi hành nhanh chóng do xuất phát từ những cam kết tự nguyện của các đương sự
nên họ tự giác thi hành. Việc khiếu nại, kháng nghị QĐCNSTT của các đương sự
thường ít xảy ra. Trong khi đó, thực tiễn xét xử nhiều vụ án dân sự thường có xu hướng
bị các bên đương sự kháng cáo hoặc bị Viện kiểm sát kháng nghị dẫn đến việc giải
quyết những vụ án này kéo dài, phức tạp và tốn kém tiền của, công sức, thời gian của
nhà nước và đương sự.
* Giúp Tòa án xác định phương hướng giải quyết đúng đắn vụ án
Trong trường hợp hịa giải khơng thành, thì việc tiến hành hịa giải vụ án dân sự
cũng giúp Tịa án có điều kiện tìm hiểu sâu hơn nội dung tranh chấp, hiểu biết rõ hơn
tâm tư, nguyện vọng cũng như các vướng mắc của các đương sự để từ đó có thể xác
định phương hướng giải quyết vụ án đúng đắn hơn khi đưa vụ án ra xét xử.
- Ý nghĩa đối với các bên đương sự đang tranh chấp
Hòa giải giúp các đương sự hiểu biết và thơng cảm với nhau, góp phần khơi phục
lại tình đoàn kết giữa họ, giúp họ giải quyết tranh chấp với tinh thần cởi mở, giảm bớt
mâu thuẫn, ngăn ngừa việc họ có thể sẽ phạm tội do nguồn gốc phát sinh từ tranh chấp
dân sự. Trường hợp khơng hịa giải thành thì q trình hịa giải cũng giúp cho các
đương sự ngồi lại với nhau, hiểu rõ hơn nguyên nhân tranh chấp, được bày tỏ ý chí của
mình. Từ đó, họ có thể phần nào tìm được tiếng nói chung cũng giúp hạn chế bớt mâu
thuẫn.
Hòa giải còn giảm được án phí cho các bên tranh chấp, bởi đương sự chỉ chịu một
phần hai án phí nếu hịa giải thành. Nhưng khi hịa giải khơng thành và Tịa án phải xét


16

xử thì số tiền án phí này đương sự sẽ phải chịu toàn bộ, các đương sự phải theo tranh
chấp đó ở các giai đoạn xét xử tiếp theo trong giải quyết vụ án và thi hành án. Tâm lý
của các bên đương sự tranh chấp bao giờ cũng mong muốn rút khỏi tranh chấp một cách
nhanh chóng và hiệu quả còn hơn việc phải theo đuổi một quan hệ pháp luật tranh chấp
tại Tòa án kéo dài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín. Do đó nếu thống nhất được phương

án giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng thì


17


18

đến duy trì mối quan hệ ni dưỡng; những vụ án khác khơng cần làm bản hịa giải
(Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự Cơng hịa nhân dân Trung Hoa).
Biên bản hịa giải do các bên đang có tranh chấp ký sẽ được Thẩm phán viết lại
dưới hình thức biên bản hòa giải thành, được Thẩm phán ký tên, đóng dấu của Tịa án,
sau khi có chữ ký của hai bên đương sự là có ngay hiệu lực pháp luật. Sau đó biên bản
hịa giải thành được chuyển đến các bên, nó sẽ có tác dụng và hiệu lực giống như bản
án chính thức của Tịa án. Nếu các bên có tranh chấp khơng nhất trí họ có thể làm đơn
kháng cáo như kháng cáo đối với với một bản án thơng thường của Tịa án.
Như vậy, điểm khác biệt về hòa giải trong pháp luật Trung Hoa so với pháp luật
Việt Nam là bản hòa giải sau khi được lập sẽ có ngay hiệu lực. Và trong một số trường
hợp thì hịa giải thành Tịa án khơng cần lập bản hòa giải mà chỉ cần ghi vào biên bản,
sau khi có chữ ký hoặc đóng dấu của hai bên đương sự, Thẩm phán và thư ký là có hiệu
lực pháp luật ngay.
1.2.3. Hòa giải trong pháp lu ật tố tụng dân sự Pháp
Ở Pháp cũng giống như Việt Nam, trong pháp luật tố tụng dân sự của nước Cộng
hòa Pháp, các quy định về hòa giải cũng giữ một vị trí vơ cùng quan trọng và nó đã
được xác định là một nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án
“Thẩm phán có trách nhiệm hòa giải các bên đương sự” (Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân
sự Pháp). Tuy vậy, xét về hình thức hịa giải, trình tự và thủ tục hịa giải thì có những
điểm khác hơn so với pháp luật Việt Nam, cụ thể:
Hình thức hịa giải: Có hai hình thức hòa giải là các bên tự hòa giải với nhau hoặc
hòa giải theo sáng kiến của Thẩm phán. Nếu các bên tự hòa giải, Thẩm phán phụ trách

việc thẩm cứu hồn tất hồ sơ có thể ghi nhận sự hịa giải của các bên. Nếu các bên
khơng tự hịa giải được thì lúc này Thẩm phán sẽ đưa ra sáng kiến để các bên lựa chọn
(Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp), do đó địi hỏi trình độ ở Thẩm phán rất cao.
Điều này có những điểm tương đồng so với các quy định của pháp luật Việt Nam là các
đương sự sẽ tự thỏa thuận với nhau trong phiên hòa giải và Thẩm phán sẽ đưa ra các
hướng giải quyết để các bên tham khảo để từ đó có thể đi đến thống nhất. Nội dung việc
thỏa thuận hòa giải, dù mới chỉ thỏa thuận một phần, phải được ghi nhận trong một biên
bản do Thẩm phán và các bên đương sự cùng ký tên. Có thể cấp sao trích biên bản hịa
giải; Biên bản hịa giải có hiệu lực thi hành (Điều 130, 131 Bộ luật Tố tụng Dân sự
Pháp).
Trình tự và thủ tục hịa giải: Theo quy định của pháp luật Pháp, việc hòa giải được


×