Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch covid 19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 81 trang )

PHẠM THỊ CẨM NGỌC

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG ĐẠI DỊCH COVID 19….

PHẠM THỊ CẨM NGỌC
MSSV: 1753801014126

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19 VÀ
VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thiện Trí

2021

TP. HCM – Năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------

PHẠM THỊ CẨM NGỌC
MSSV: 1753801014126


XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19 VÀ
VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thiện Trí

TP. HCM – Năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan khóa luận tốt nghiệp đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong đại
dịch Covid 19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân” là cơng
trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn
Thị Thiện Trí. Luận văn đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích
dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan
này.
Tác giả
Phạm Thị Cẩm Ngọc


DANH MỤC VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Vi phạm hành chính

VPHC


Uỷ ban nhân dân

UBND

Quản lý thị trường

QLTT

Xã hội chủ nghĩa

Xã hội chủ nghĩa

Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2012

Luật xử lý VPHC 2012

Nghị định 117/2020/NĐ-CP
ngày 28 tháng 9 năm 2020 quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế

Nghị định 117/2020/NĐ-CP

Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày
03 tháng 02 năm 2020 quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu
chính, viễn thơng, tần số vơ tuyến điện,
cơng nghệ thông tin và giao dịch điện

tử

Nghị định 15/2020/NĐ-CP

Nghị định 109/2013/NĐ-CP
ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giá, phí, lệ phí; hố đơn

Nghị định 109/2013/NĐ-CP

Nghị định 49/2016/NĐ-CP ngày
27 tháng 5 năm 2016 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số
109/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm
2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giá, phí, lệ phí;
hố đơn

Nghị định 49/2016/NĐ-CP

Nghị định 167/2013/NĐ-CP
ngày 12 tháng 11 năm 2013 quy định

Nghị định 167/2013/NĐ-CP


xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh trật tự, an tồn xã hội;
phịng cháy và chữa cháy; phịng,

chống bạo lực gia đình
Nghị định 158/2013/NĐ-CP
ngày 12 tháng 11 năm 2013 quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực văn hoá, thể thao, du lịch và quảng
cáo

Nghị định 158/2013/NĐ-CP

Nghị định 38/2021/NĐ-CP ngày
29 tháng 3 năm 2021 quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn
hố, thể thao, du lịch và quảng cáo

Nghị định 38/2021/NĐ-CP

Nghị định 20/2016/NĐ-CP ngày
30 tháng 3 năm 2016 quy định cơ sở dữ
liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành
chính

Nghị định 20/2016/NĐ-CP


MỤC LỤC
Phần mở đầu ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................................. 3
3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4
4. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 4

4.1 Mục tiêu tổng quát .......................................................................................... 4
4.2 Mục tiêu cụ thể ............................................................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 5
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .................................................... 5
7. Kết cấu của khoá luận ............................................................................................. 5
Chương 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong đại
dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân ....................... 6
1.1 Khái quát về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch
Covid-19 ..................................................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính ................. 6
1.1.2 Vi phạm hành chính, hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp khắc phục hậu quả về phòng chống đại dịch Covid-19 ............................... 7
1.1.3 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19 .......... 11
1.1.4 Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19 .................. 16
1.2 Vấn đề bảo đảm quyền con người trong đại dịch Covid-19 .... Error! Bookmark
not defined.
1.2.1 Các loại quyền con người, quyền công dân cần được bảo đảm trong đại
dịch Covid-19 ..................................................................................................... 18
1.2.2 Bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong xử phạt vi phạm hành
chính do đại dịch Covid-19 ................................................................................ 25
1.3 Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính có ý nghĩa bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong dại dịch Covid-19 ở một số quốc gia .................................... 29
1.4 Ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội - của việc bảo đảm quyền con người, quyền
cơng dân trong xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19 ..................... 34
Kết luận chương 1..................................................................................................... 38
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong đại dịch Covid-19 với vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
dân và kiến nghị hoàn thiện ...................................................................................... 39



2.1 Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
đại dịch Covid-19 với vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân .............. 39
2.1.1 Tình hình xử phạt vi phạm hành chính về dịch bệnh Covid-19 và hiệu quả
bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta ....................................... 39
2.1.2 Bất cập pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch
Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân. ...................... 41
2.1.3 Thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính và vấn đề bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong đại dịch Covid-19 ................................................ 50
2.1.4 Nguyên nhân bất cập của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong đại
dịch Covid-19 ..................................................................................................... 54
2.2 Các giải pháp hồn thiện cơng tác xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch
Covid-19 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân ................................... 59
2.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt VPHC trong đại dịch Covid-19
nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân ............................................. 60
2.2.2 Giải pháp hoàn thiện thực tiễn xử phạt VPHC đối với việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân ................................................................................. 64
2.2.3 Các giải pháp khác nhằm hoàn thiện xử phạt VPHC đối với việc bảo đảm
quyền con người, quyền công dân ...................................................................... 66
Kết luận chương 2..................................................................................................... 68
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................... 70


1

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của mỗi người dân, là quyền thiêng
liêng và bất khả xâm phạm. Con người là nguồn cội, người dân là chủ nhân của đất
nước, là động lực của mọi sự phát triển. Những quyền lợi cơ bản đó khơng chỉ được
cộng đồng quốc tế ghi nhận mà Việt Nam nói riêng – quốc gia “của dân, do dân và

vì dân”, bằng tất cả sự nỗ lực, Việt Nam luôn thực hiện mục tiêu, chính sách nhất
qn là tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm tất cả những giá trị tốt đẹp thuộc về quyền lợi
cơ bản của con người.
Việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người đã trở thành một mục
tiêu quan trọng trong hoạch định chính sách, pháp luật của nhà nước. Điều đó đã được
hiên thực hố vào trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật, qua đó, góp phần
vào sự ổn định và phát triển của kinh tế, xã hội và bảo đảm quyền con người.
Với mục tiêu tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động đó, luật xử lý vi
phạm hành chính hiện hành chính là minh chứng mà thơng qua đó, nhà nước sử dụng
cơng cụ này để duy trì trật tự, kỷ cương hành chính trong đời sống, kinh tế xã hội của
đất nước. Hơn hết, đây là một vấn đề rất quan trọng, trực tiếp liên quan đến đời sống
hằng ngày của nhân dân, tổ chức, đoàn thể, đến các hoạt động lao động, sản xuất,
kinh doanh,…mà đã và đang được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm.
Qua nhiều năm áp dụng và thực thi Luật xử phạt vi phạm hành chính, những
quy định về xử phạt đã được thực hiện một cách nghiêm túc và đem lại những hiệu
quả nhất định, góp phần ổn định trật tự, an ninh của đất nước. Tuy nhiên, trong tình
hình đại dịch Covid-19 hiện nay, thì khơng chỉ Luật xử phạt VPHC mà những quy
định mới về xử phạt VPHC trong đại dịch Covid-19 cần phải phát huy vai trị của
mình một cách tối ưu nhất để đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của con
người, của công dân, khi mà đại dịch này đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến con
người. Hơn hết, những biện pháp và chính sách của nhà nước về đảm bảo quyền con
người đang bị những lời lẽ và hành động xuyên tạc của các tổ chức chính trị có ý đồ
chống phá, bác bỏ những nỗ lực của Đảng và Nhà nước, vu khống Việt Nam lợi dụng
Covid-19 để vi phạm nhân quyền. Điều này đòi hỏi, những biện pháp xử phạt VPHC
phải được thực hiện một cách nghiêm túc, tiếp tục hoàn thiện và nghiên cứu kỹ lưỡng
để có thể phát huy hết vai trị tích cực của mình đối với vấn đề bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong đại dịch Covid-19 hiện nay.
Vào ngày 11 tháng 3 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố rằng
đợt bùng phát dịch bệnh do vi rút COVID-19 - được xác định lần đầu tiên vào tháng



2

12 năm 2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc - đã đạt đến mức độ của một đại dịch tồn cầu.
Trích dẫn những lo ngại về “mức độ lây lan và mức độ nghiêm trọng đáng báo động”,
WHO kêu gọi các chính phủ thực hiện hành động khẩn cấp và tích cực để ngăn chặn
sự lây lan của vi rút1.
Luật nhân quyền quốc tế đảm bảo cho mọi người quyền được hưởng tiêu chuẩn
sức khỏe cao nhất có thể đạt được và buộc các chính phủ phải thực hiện các bước để
ngăn chặn các mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng và cung cấp dịch vụ chăm sóc
y tế cho những người cần nó. Luật nhân quyền cũng thừa nhận rằng trong bối cảnh
sức khỏe cộng đồng bị đe dọa nghiêm trọng và tình trạng khẩn cấp đe dọa cuộc sống
của quốc gia, việc hạn chế một số quyền có thể được biện minh khi chúng có cơ sở
pháp lý, thực sự cần thiết, dựa trên bằng chứng khoa học và không tùy tiện cũng
không phân biệt đối xử trong việc áp dụng, trong thời hạn giới hạn, tôn trọng nhân
phẩm, có thể được xem xét và tương xứng để đạt được mục tiêu.
Quy mô và mức độ nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 rõ ràng đã tăng lên
mức đe dọa sức khỏe cộng đồng có thể biện minh cho những hạn chế đối với một số
quyền, chẳng hạn như những quyền do áp đặt kiểm dịch hoặc cô lập hạn chế quyền
tự do đi lại. Đồng thời, việc chú ý cẩn thận đến các quyền con người như không phân
biệt đối xử và các nguyên tắc nhân quyền như minh bạch và tơn trọng phẩm giá con
người có thể thúc đẩy phản ứng hiệu quả trong bối cảnh hỗn loạn và đổ vỡ chắc chắn
dẫn đến thời kỳ khủng hoảng và hạn chế những tác hại có thể xuất phát từ việc áp đặt
các biện pháp quá rộng rãi mà khơng đáp ứng các tiêu chí trên.
Chính vì sự bùng nổ của đại dịch Covid-19, mà kể từ khi xuất hiện cho đến
nay, rõ ràng thế giới của chúng ta phải đối mặt với nhiều hơn tình trạng khẩn cấp về
tính mạng cũng như sức khoẻ của cộng đồng và nhanh chóng biến thành một cuộc
khủng hoảng lớn nhất về kinh tế và xã hội. Hơn một năm trôi qua, một sự thật hiển
nhiên khác lại hiển hiện một cách bi thảm: thế giới đang đối mặt với một đại dịch vi
phạm nhân quyền. Đó là làm sâu sắc thêm những chia rẽ, lỗ hỏng và bất bình đẳng

đã tồn tại từ trước, đồng thời đã mở ra những rạn nứt mới, bao gồm cả những sai sót
trong nhân quyền. Đại dịch này đã cho thấy được tính liên kết của nó đối với tồn bộ
các quyền con người về dân sự, kinh tế, văn hố, chính trị, xã hội,… Khi mà bất kì
một trong các quyền này bị tấn công, các quyền khác cũng sẽ đều bị ảnh hưởng.

1

truy cập ngày
28/03/2021.


3

Covid-19 đã củng cố hai chân lý cơ bản về quyền con người2: Thứ nhất, vi
phạm nhân quyền gây hại cho tất cả chúng ta; hai là, quyền con người là phổ biến và
bảo vệ tất cả chúng ta.
Vậy nên, đây không phải là lúc bỏ bê nhân quyền mà là thời điểm hơn bao giờ
hết, quyền con người, quyền công dân là cần thiết để giải quyết cuộc khủng hoảng
này theo một cách hiệu quả để phát triển đồng đều và bền vững. Nhận thức được tầm
quan trọng ấy, Luật xử lý VPHC 2012 đang phát huy tốt vai trị của mình. Bên cạnh
đó, những hành vi vi phạm trong Covid-19 cũng được xử lý một cách nghiêm túc,
thông qua đó, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích chính đáng của con người. Tuy
nhiên, đại dịch Covid-19 đã và đang đem đến những nguy cơ không lường trước được,
do đó, các hành vi lợi dụng dịch bệnh để vi phạm quyền con người, quyền công dân
cũng ngày càng nhiều, mà pháp luật cũng không thể dự liệu hết được nên cũng khơng
tránh khỏi việc bỏ sót những hành vi vi phạm. Chính vì thế, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền
con người, quyền cơng dân” để làm Khố luận tốt nghiệp Cử nhân Luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19 và vấn đề bào

đảm quyền con người, quyền công dân” là đề tài mới, chưa được nghiên cứu. Qua
tìm hiểu, tác giả nhận thấy đề tài này có một số nghiên cứu liên quan của các tác giả
sau:
Bài viết “Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của quy định
của pháp luật hiện hành” của tác giả Bùi Thị Đào, Hoàng Thị Lan Phương tập trung
nghiên cứu những nguyên tắc chung, chưa làm rõ vấn đề bảo đảm quyền con người.
Bài viết “Hạn chế của Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 nhìn từ
góc độ kỹ thuật lập pháp” của tác giả Cao Vũ Minh phân tích, đánh giá những bất
cập liên quan đến lỹ thuật lập pháp trong các quy định của luật Xử lý VPHC chính
năm 2012, không nghiên cứu sâu về nguyên tắc xử phạt đối với việc bảo đảm quyền
con người.
Giáo trình “Luật Hành chính Việt Nam” của Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh do tác giả Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Nxb Hồng Đức năm 2017.
Giáo trình cung cấp một kiến thức nền về xử phạt vi phạm hành chính, các vấn đề
mang tính nguyên tắc, về thẩm quyền xử phạt,… Tác giả tiếp thu những kiến thức

2

/>
abuses-covid-19-antonio-guterres (truy cập ngày 04/4/2021).


4

nền để củng cố và mở rộng thêm những vấn đề có liên quan xử phạt vi phạm hành
chính trong đại dịch Covid-19 mà tác giả đang nghiên cứu.
Bài viết “Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề
đặt ra đối với việc thực hiện cơng khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình” của tác
giả GS.TS Phan Trung Lý được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
số 15 tháng 8/2020 tập trung nghiên cứu vị trí, vai trị của cơng khai, minh bạch và

trách nhiệm giải trình trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong vài viết có chỉ ra vấn đề quyền con người, quyền công dân trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tác giả tham khảo thêm để có những dẫn chứng
trong khoá luận này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích các vấn đề lý
luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến “xử phạt vi phạm hành chính
trong đại dịch Covid-19”, sử dụng phương pháp trên để phân tích các vấn đề pháp lý
có liên quan từ thực tiễn áp dụng pháp luật.
Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập các quy định pháp luật như
Luật, Nghị định liên quan về xử phạt vi phạm hành chính để đưa ra đánh giá tổng
quát và chi tiết góp phần nhìn nhận vấn đề nghiên cứu chính xác hơn.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng để phân loại
lý thuyết như Luật, Nghị định của các lĩnh vực sẽ được phân loại cụ thể với các tư
liệu nghiên cứu, góp phần quan trọng giúp cho việc tổng hợp, phân tích pháp luật và
tư liệu thu thập.
4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1 Mục tiêu tổng quát
Tác giả lựa chọn đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19
và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân” nhằm nghiên cứu một số vấn
đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn xử phạt trong đại dịch Covid-19. Thơng
qua việc tìm hiểu và phân tích những quy định về xử phạt VPHC của Luật xử lý
VPHC và tham khảo pháp luật của một số nước trên thế giới đề đề ra những kiến nghị
phù hợp nhằm hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề “Xử
phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con
người, quyền cơng dân”. Nhờ đó có thể áp dụng một cách triệt để hơn, nhất là trong
tình hình đại dịch Covid-19, khi mà xuất hiện nhiều cá nhân, tổ chức lợi dụng dịch
bệnh để kiếm tiền bất hợp pháp và đồng thời bác bỏ luận điệu của các tổ chức chống
phá về quan điểm “Việt Nam lợi dụng Covid-19 để vi phạm nhân quyền”.



5

4.2 Mục tiêu cụ thể
Tác giả lựa chọn đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19
và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân” nhằm đạt được các mục tiêu
sau:
- Tìm hiểu một cách sâu rộng các quy định của pháp luật đối với vấn đề trên
và tìm ra những bất cập.
- Tìm hiểu quá trình xử phạt VPHC trên thực tiễn để đánh giá những hạn chế
còn gặp phải.
- Chỉ ra nguyên nhân của những bất cập và từ đó giải pháp kiến nghị trong
quy định của pháp luật và trên thực tiễn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất: Dưới góc độ lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến xử phạt các hành vi VPHC của Luật xử lý VPHC hiện hành đối với việc
đảm bảo quyền con người như khái niệm, ý nghĩa,…
Thứ hai: Dưới góc độ thực tiễn, đề tài tập trung phân tích hướng giải quyết
thông qua các bài viết liên quan để làm sáng tỏ vấn đề từ đó đưa ra các kiến nghị phù
hợp để hoàn thiện về các quy định xử phạt vi phạm của Luật xử lý VPHC đối với
việc bảo đảm quyền con người.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Sau khi hoàn thành đề tài nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính trong đại
dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, với những kết
quả nghiên cứu đạt được, đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho các nhà
lập pháp, các học giả, những nhà nghiên cứu, những người làm công tác xử phạt liên
quan đến vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài sẽ được áp dụng một cách hiệu quả, nhất là
trong tình hình dịch bệnh phức tạp. Đặc biệt, đề tài sẽ là căn cứ quan trọng phục vụ
cho công tác giảng dạy, học tập của sinh viên quan tâm đến đề tài.
7. Kết cấu của khố luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồn có 02
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính
trong đại dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong đại dịch Covid-19 với vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền cơng
dân và kiến nghị hồn thiện.


6

Chương 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý về xử phạt vi phạm hành
chính trong đại dịch Covid-19 và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
dân
1.1 Khái quát về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
trong đại dịch Covid-19
1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính (VPHC) là một trong số các hành vi vi phạm pháp luật,
tuy nhiên so với các vi phạm pháp luật khác như vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm),
vi phạm pháp luật dân sự (vi phạm dân sự), vi phạm kỷ luật nhà nước (vi phạm kỷ
luật),... thì VPHC là loại vi phạm pháp luật phổ biến nhất trong đời sống xã hội hiện
nay3. Nhằm mục đích răn đe, giáo dục các chủ thể nghiêm chỉnh chấp hành và tuân
thủ các quy định của pháp luật, thì việc xây dựng các quy định về xử phạt cũng cần
được chú trọng và pháp luật về điều chỉnh các VPHC cũng không ngoại lệ. Việc
nghiên cứu khái niệm VPHC khơng những có ý nghĩa lý luận mà cịn mang tính thực
tiễn sâu sắc trong việc xác định các hành vi VPHC. Theo đó, tại khoản 1 Điều 2 Luật
xử lý VPHC 2012 thì “VPHC là hành vi có lỗi, do cá nhân hay tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo
quy định của pháp luật thì sẽ bị xử phạt VPHC”. Do đó, một hành vi bị coi là VPHC
khi nó có đầy đủ các đặc điểm sau: (i) là hành vi có lỗi, do cá nhân, tổ chức thực hiện;

(ii) vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự và (iii) bị xử lý theo quy định của pháp luật hành chính.
Một hành vi VPHC, có lỗi, do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước thì theo quy định của pháp luật sẽ bị xử phạt VPHC,
theo đó, “Xử phạt VPHC là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC
theo quy định của pháp luật về xử phạt VPHC”4. Xử phạt VPHC được thể hiện thông
qua quyết định xử phạt VPHC. Quyết định xử phạt VPHC bằng văn bản được ban
hành bởi người có thẩm quyền xử phạt VPHC nhằm mục đích áp dụng chế tài xử phạt
VPHC đối với cá nhân, tổ chức có hành vi VPHC. Các chủ thể vi phạm phải chấp
hành quyết định xử phạt theo đúng quy định, nếu khơng chấp hành đúng có thể dẫn
đến cưỡng chế thi hành.
Quyết định xử phạt VPHC có những đặc điểm sau:

3
4

Đinh Phan Quỳnh (2016), “Bàn thêm về khái niệm VPHC”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, (số 4), tr.4.
Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý VPHC 2012.


7

Thứ nhất, xử phạt VPHC là một hình thức cưỡng chế của nhà nước, mang tính
quyền lực nhà nước. Đặc điểm này được thể hiện qua việc xử phạt VPHC chỉ được
thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền và áp dụng những chế tài hành chính được quy
định trong quy phạm pháp luật hành chính.
Thứ hai, đối tượng bị xử phạt VPHC là cá nhân hoặc tổ chức đã thực hiện
VPHC mà pháp luật quy định. Trong đó, VPHC được hiểu là hành vi vô ý hoặc cố ý
vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước nhưng không phải tội phạm và chưa đến mức

truy cứu trách nnhiệm hình sự.
Thứ ba, việc xử phạt VPHC được thực hiện theo một trình tự, thủ tục riêng do
pháp luật hành chính quy định. Hiện nay, trình tự thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
quy định trong Luật Xử lý VPHC 2012.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của xử phạt VPHC được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật, cụ thể là trong Luật xử lý VPHC 2012 và các Nghị định của Chính
phủ quy định chi tiết các hành vi VPHC trong từng ngành, từng lĩnh vực chuyên
ngành. Luật Xử lý VPHC 2012 chỉ quy định những vấn đề cơ bản mang tính nguyên
tắc về xử phạt vi phạm hành chính. Các VPHC và các biện pháp xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả cụ thể trong từng lĩnh vực được quy định rải rác ở rất nhiều nghị
định về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước như lĩnh vực thương mại,
dầu khí, kinh doanh xăng dầu, xây dựng, giao thông, đất đai, thuế,... Việc áp dụng
pháp luật về xử phạt VPHC chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện.
Thứ năm, các hình thức xử phạt VPHC thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp
luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước
thông qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất
hoặc tinh thần. Bên cạnh đó, các hình thức xử phạt VPHC cịn mang tính giáo dục
đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng cao ý thức của công dân trong
việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản lý nhà nước.
1.1.2 Vi phạm hành chính, hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các
biện pháp khắc phục hậu quả về phịng chống đại dịch Covid-19
Tính đến hiện nay, tồn thế giới đã có trên 180 triệu ca nhiễm và gần 4 triệu
ca tử vong. Tại Việt Nam, một khi đại dịch bùng phát, có thể dẫn đến nguy cơ thiếu
trang bị y tế và nguồn nhân lực, tạo gánh nặng và ảnh hưởng đến đời sống của của
người dân. Chính vì vậy, việc hướng dẫn, ban hành các biện pháp, các quy định pháp
luật về việc phòng, chống Covid-19 sẽ là biện pháp hiệu quả, nhanh chóng nhất và
mang tính bắt buộc thực hiện để hạn chế tối đa những ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Đã có nhiều biện pháp quyết liệt và răn đe được áp dụng. Ngày 01/4/2020 Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid-19.



8

Theo đó, các địa phương chủ động triển khai, hướng dẫn các nội dung một cách chủ
động, kịp thời với tình hình của mỗi địa phương. Tổng kết chung, hiện có 14 hành vi
VPHC đối với quy định phịng, chống dịch Covid-19 như sau5 :
Một là, hành vi không tổ chức việc thơng tin, giáo dục, truyền thơng về phịng,
chống dịch bệnh Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định 117/2020/NĐ-CP sẽ bị phạt tiền
từ 1.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 2.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng đối với tổ chức).
Hai là, hành vi đưa tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh Covid-19: bao gồm
các hành vi sau:
Thứ nhất, theo quy định tại Điểm a Khoản 3 và Điểm a Khoản 4 Điều 5 Nghị
định 117/2020/NĐ-CP thì đối với hành vi đưa tin khơng chính xác về tình hình dịch
bệnh Covid-19 sau khi công bố dịch hoặc công bố hết dịch theo nội dung do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về y tế cung cấp sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
15.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với
tổ chức). Ngồi ra, cịn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc cải chính
thơng tin sai sự thật trên phương tiện thơng tin đại chúng trên địa bàn đã đưa tin trước
đó liên tục trong 03 ngày theo quy định của pháp luật”.
Thứ hai, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 và Khoản 3 Điều 101: hành vi cung
cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan,
tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân liên quan đến phòng, chống dịch Covid19: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 10.000.000
đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức) và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
“Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp
luật”.
Ba là, hành vi vứt khẩu trang, các chất, vật dụng đã sử dụng khơng đúng nơi
quy định có khả năng làm lây lan dịch bệnh Covid-19 được quy định tại Khoản 1
Điều 6 Nghị định 117/2020/NĐ-CP: bị cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến

500.000 đồng.
Bốn là, hành vi không thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có
thẩm quyền trong q trình thực hiện giám sát dịch bệnh Covid-19. Quy định tại
Điểm a Khoản 2 Điều 7 Nghị định 117/2020/NĐ-CP: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng
đến 3.000.000 đồng.

5

Công văn 107/STP-XDKT&TDTHPL ngày 29/01/2021 của Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương.


9

Năm là, hành vi che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời hiện
trạng của bản thân hoặc của người khác mắc dịch bệnh Covid-19 được quy định tại
Điểm a Khoản 3 Điều 7 Nghị định 117/2020/NĐ-CP: phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 20.000.000 đồng.
Sáu là, hành vi từ chối hoặc trốn tránh việc áp dụng quyết định cách ly y tế,
cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thầm quyền đối với người mắc bệnh
Covid-19, được quy định tại Điểm b Khoản 2 và Khoản 3 Điều 11 Nghị định
117/2020/NĐ-CP: Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngồi ra, cịn
phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc thực hiện việc cách ly y tế, cưỡng
chế cách ly y tế”.
Bảy là, hành vi không thực hiện đeo khẩu trang nơi công cộng hoặc ra đường
thuộc diện không cần thiết. Quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 12 Nghị định
117/2020/NĐ-CP: phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Tám là, hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ
hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh
Covid-19 được quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP:
phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 20.000.000

đồng đến 40.000.000 đồng đối với tố chức).
Chín là, hành vi khơng thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập
trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi cơng cộng
để phịng, chống dịch bệnh Covid-19 được quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 12
Nghị định 117/2020/NĐ-CP: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối
với cá nhân (từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với tố chức).
Mười là, hành vi không thực hiện quyết định cấm tập trung đơng người tại
vùng đã được ban bố tình trạng khấn cấp dịch bệnh Covid-19 được quy định tại Điểm
b Khoản 5 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP: phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
40.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với
tổ chức).
Mười một, hành vi khơng niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng,
chống dịch bệnh Covid-19 tại địa điểm phải niêm yết giá theo quy định của pháp luật
hoặc niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng:
được quy định tại Khoản 1 và Điểm a Khoản 2 Điều 12 Nghị định 109/2013/NĐ-CP
(được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 49/2016/NĐ-CP): Phạt tiền từ 500.000 đồng
đến 1.000.000 đồng; trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm bị phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Mức phạt trên áp dụng đối với cá nhân (đối với
tổ chức vi phạm bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).


10

Mười hai, hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ liên quan đến
phịng, chống dịch bệnh Covid-19 do tổ chức, cá nhân định giá không thuộc Danh
mục bình ốn giá, hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh
doanh có điều kiện. Quy định tại Khoản 3 và 7 Điều 12 Nghị định 109/2013/NĐ-CP:
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 10.000.000
đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức) và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
“Buộc trả lại cho khách hàng số tiền đã thu cao hơn giá niêm yết, trường hợp không

xác định được khách hàng để trả lại thì nộp vào ngân sách nhà nước”.
Mười ba, hành vi giúp đỡ, chứa chấp, che giấu, tạo điều kiện cho người nước
ngoài vào Việt Nam, ở lại Việt Nam hoặc qua lại biên giới quốc gia trái phép. Quy
định tại Điểm a Khoản 5 và Khoản 9 Điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: Phạt tiền
từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 30.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng đối với tổ chức). Người nước ngoài có hành vi VPHC, thì tùy theo
mức độ vi phạm có thể cịn bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mười bốn, nhóm hành vi cản trở, chống lại người thi hành cơng vụ phịng,
chống dịch bệnh Covid-19, bao gồm các hành vi:
Thứ nhất, hành vi cản trở; xúi giục, lơi kéo; kích động người khác khơng chấp
hành u cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm sốt hoặc có lời nói, hành động đe dọa, lăng
mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch
bệnh Covid-19: được quy định tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân (từ 4.000.000 đồng
đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức).
Thứ hai, hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành
công vụ hoặc gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người
thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh Covid-19 mà chưa đến mức phải truy cứu
trách nhiệm hình sự: được quy định tại Điểm a, b Khoản 3 Điều 20 Nghị định
167/2013/NĐ-CP: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với cá nhân
(từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đổi với tổ chức).
Các hành vi VPHC trong đại dịch Covid-19 hiện nay được quy định tại NĐ
117/2020/NĐ-CP Nghị định của Chính phủ ban hành ngày 28 tháng 9 năm 202 quy
định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế, có hiệu lực từ ngày 15/11/2020; NĐ
15/2020/NĐ-CP Nghị định của Chính phủ ban hành ngày ngày 03 tháng 02 năm 2020
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, tần số vô
tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử có hiệu lực từ ngày 15/4/2020.
Bên cạnh đó, vi phạm các quy định về phòng, chống dịch bệnh Covid-19 liên quan



11

tới các lĩnh vực chuyên ngành cũng được điều chỉnh tại các NĐ 109/2013/NĐ-CP
Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ
phí, hóa đơn, sửa đổi bổ sung bởi NĐ 49/2016/NĐ-CP, NĐ167/2013/NĐ-CP Nghị
định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia
đình.
Có thể thấy rằng, việc quy định các hành vi bị xử phạt trong Covid-19 rõ ràng
là các biện pháp cấp thiết và cần được tăng cường một cách quyết liệt. Việc pháp luật
đưa ra các quy định này ứng phó kịp thời trước mối nguy hiểm của dịch bệnh đồng
thời bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Khi một hành vi vi
phạm xuất hiện không những ảnh hưởng đến hoạt động trị an của nhà nước mà còn
gây tác động khơng nhỏ đến trật tự xã hội. Ví dụ như một cá nhân đăng tin không
đúng lên mạng xã hội, khơng có căn cứ xác thực trên trang Facebook cá nhân khi
nhận được rất nhiều lượt like, share của mọi người thì ắt hẳn nó trở thành một vấn đề
rất nóng. Việc đăng tải thơng tin về tình hình dịch bệnh Covid chưa được kiểm chứng,
thơng tin khơng chuẩn xác, gây hoang mang dư luận đồng thời ảnh hưởng đến đến
danh dự, nhân phẩm của của cá nhân bị đăng tin đó và họ như trở thành một “tội đồ”
của xã hội bị mọi người lên án, chỉ trích.
Như vậy, có thể hiểu “VPHC trong đại dịch Covid-19 hành vi có lỗi, do cá
nhân hay tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật trong hoạt động phịng,
chống Covid-19 mà khơng phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật thì sẽ bị
xử phạt VPHC”.
Mọi vi phạm hành chính sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, vi phạm hành chính
về phịng chống dịch Covid cũng bị xử phạt theo quy định chung. Có thể định nghĩa
xử phạt vi phạm hành chính trong phịng, chống dịch Covid-19 như sau: Xử phạt vi
phạm hành chính trong phịng chống dịch covid 19 là việc người có thẩm quyền áp
dụng các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả theo trình tự thủ tục

pháp luật quy định đối với người có hành vi vi phạm hành chính về phịng, chống
dịch bệnh Covid-19.
1.1.3 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19
Việc xác định thẩm quyền xử phạt VPHC là một trong những cơng việc quan
trọng mà người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải thực hiện trước khi tiến
hành các thủ tục tiếp theo của hoạt động xử phạt VPHC. Chính vì tầm quan trọng của
việc xác định thẩm quyền xử phạt, nếu một khi ra quyết định xử phạt VPHC không
đúng thẩm quyền sẽ dẫn đến phải huỷ bỏ toàn bộ nội dụng của quyết định xử phạt
VPHC. Do đó, pháp luật đã quy định rất chặt chẽ về nguyên tắc xác định thẩm quyền


12

xử phạt, nhất là trong tình hình đại dịch Covid-19 đang đe doạ cuộc sống của tồn
cầu, thì những hành vi lợi dụng dịch bệnh để vi phạm pháp luật cũng tăng cao. Mặt
khác, dựa vào thẩm quyền xử phạt, pháp luật cũng quy định mức phạt tiền cụ thể theo
từng chức danh đối với VPHC trên các lĩnh vực.
Căn cứ theo Điều 52 Luật xử lý VPHC 2012 quy định về nguyên tắc xác định
và phân định thẩm quyền xử phạt VPHC; Điều 103 đến Điều 111 Nghị định
117/2020/NĐ-CP Nghị định quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế và các văn
bản hướng dẫn, việc xác định thẩm quyền xử phạt VPHC trong đại dịch Covid-19
thuộc về các chủ thể sau:
Chủ tịch UBND cấp xã: được xử phạt đối với 06 hành vi sau: (i) hành vi không
tổ chức việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống dịch bệnh Covid-19
cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; (ii) hành vi vứt khẩu
trang, các chất, vật dụng đã sử dụng không đúng nơi quy định có khả năng làm lây
lan dịch bệnh Covid-19; (iii) hành vi không thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của
cơ quan y tế có thẩm quyền trong quá trình thực hiện giám sát dịch bệnh Covid-19;
(iv) hành vi không thực hiện đeo khẩu trang nơi công cộng hoặc ra đường thuộc diện
không cần thiết; (v) hành vi khơng niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ liên quan đến

phòng, chống dịch bệnh Covid-19 tại địa điểm phải niêm yết giá theo quy định của
pháp luật hoặc niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm lẫn cho
khách hàng; (vi) hành vi cản trở; xúi giục, lơi kéo; kích động người khác khơng chấp
hành u cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm sốt hoặc có lời nói, hành động đe dọa, lăng
mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch
bệnh Covid-19
Chủ tịch UBND cấp huyện: được xử phạt đối với 08 hành vi sau: (i) hành vi
không tổ chức việc thơng tin, giáo dục, truyền thơng về phịng, chống dịch bệnh
Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; (ii) hành vi
che giấu, khơng khai báo hoặc khai báo không kịp thời hiện trạng của bản thân hoặc
của người khác mắc dịch bệnh Covid-19; (iii) hành vi từ chối hoặc trốn tránh việc áp
dụng quyết định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thầm
quyền đối với người mắc bệnh Covid-19; (iv) hành vi không thực hiện quyết định áp
dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy
cơ làm lây truyền dịch bệnh Covid-19; (v) hành vi không thực hiện quyết định áp
dụng biện pháp hạn chế tập trung đơng người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh,
dịch vụ tại nơi cơng cộng để phịng, chống dịch bệnh Covid-19; (vi) hành vi đưa tin
khơng chính xác về tình hình dịch bệnh Covid-19 sau khi cơng bố dịch hoặc công bố
hết dịch theo nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cung cấp; (vii)


13

hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch
bệnh Covid-19 do tổ chức, cá nhân định giá không thuộc Danh mục bình ốn giá, hàng
hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; (viii)
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành công vụ hoặc gây
thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người thi hành cơng vụ
phịng, chống dịch bệnh Covid-19 mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự.

Chủ tịch UBND cấp tỉnh: được xử phạt đối với 02 hành vi sau: (i) hành vi
không thực hiện quyết định cấm tập trung đông người tại vùng đã được ban bố tình
trạng khấn cấp dịch bệnh Covid-19; (ii) hành vi giúp đỡ, chứa chấp, che giấu, tạo
điều kiện cho người nước ngoài vào Việt Nam, ở lại Việt Nam hoặc qua lại biên giới
quốc gia trái phép.
Chánh Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông: được xử phạt đối với 03 hành
vi sau: (i) hành vi không tổ chức việc thông tin, giáo dục, truyền thơng về phịng,
chống dịch bệnh Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền; (ii) hành vi đưa tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh Covid-19; (iii) hành vi
đưa tin khơng chính xác về tình hình dịch bệnh Covid-19 sau khi công bố dịch hoặc
công bố hết dịch theo nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cung cấp.
Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: được xử phạt đối với 03
hành vi sau: (i) hành vi không tổ chức việc thông tin, giáo dục, truyền thơng về phịng,
chống dịch bệnh Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền; (ii) hành vi đưa tin khơng chính xác về tình hình dịch bệnh Covid-19 sau khi
cơng bố dịch hoặc công bố hết dịch theo nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về y tế cung cấp; (iii) hành vi cản trở, chống lại người thi hành cơng vụ phịng, chống
dịch bệnh Covid-19.
Chánh Thanh tra Sở Y tế: được xử phạt đối với 09 hành vi sau: (i) hành vi
không tổ chức việc thông tin, giáo dục, truyền thơng về phịng, chống dịch bệnh
Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; (ii) hành vi
không thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có thẩm quyền trong q
trình thực hiện giám sát dịch bệnh Covid-19; (iii) hành vi không thực hiện đeo khẩu
trang nơi công cộng hoặc ra đường thuộc diện không cần thiết; (iv) hành vi che giấu,
không khai báo hoặc khai báo không kịp thời hiện trạng của bản thân hoặc của người
khác mắc dịch bệnh Covid-19; (v) hành vi từ chối hoặc trốn tránh việc áp dụng quyết
định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thầm quyền đối
với người mắc bệnh Covid-19; (vi) hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện
pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm



14

lây truyền dịch bệnh Covid-19; (vii) hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện
pháp hạn chế tập trung đơng người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ
tại nơi cơng cộng để phịng, chống dịch bệnh Covid-19; (viii) hành vi đưa tin khơng
chính xác về tình hình dịch bệnh Covid-19 sau khi cơng bố dịch hoặc công bố hết
dịch theo nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cung cấp; (ix) hành
vi cản trở, chống lại người thi hành công vụ phịng, chống dịch bệnh Covid-19.
Chánh Thanh tra Sở Tài chính: được xử phạt đối với 03 hành vi sau: (i) hành
vi khơng niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid19 tại địa điểm phải niêm yết giá theo quy định của pháp luật hoặc niêm yết giá không
đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng; (ii) hành vi bán cao hơn
giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 do tổ
chức, cá nhân định giá khơng thuộc Danh mục bình ốn giá, hàng hóa, dịch vụ thuộc
Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; (iii) hành vi cản trở,
chống lại người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh Covid-19.
Chánh Thanh tra Sở Giáo dục: được xử phạt đối với 03 hành vi sau: (i) hành
vi không tổ chức việc thơng tin, giáo dục, truyền thơng về phịng, chống dịch bệnh
Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; (ii) hành vi
đưa tin khơng chính xác về tình hình dịch bệnh Covid-19 sau khi công bố dịch hoặc
công bố hết dịch theo nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cung cấp;
(iii) hành vi cản trở, chống lại người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh Covid19.
Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải: được xử phạt đối với 03 hành vi sau:
(i) hành vi không tổ chức việc thơng tin, giáo dục, truyền thơng về phịng, chống dịch
bệnh Covid-19 cho người lao động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; (ii) hành
vi đưa tin khơng chính xác về tình hình dịch bệnh Covid-19 sau khi công bố dịch
hoặc công bố hết dịch theo nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cung
cấp; (iii) hành vi cản trở, chống lại người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh
Covid-19.
Giám đốc Cơng an tỉnh: được xử phạt đối với 05 hành vi sau: (i) hành vi cung

cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan,
tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân liên quan đến phòng, chống dịch Covid19; (ii) hành vi che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời hiện trạng của
bản thân hoặc của người khác mắc dịch bệnh Covid-19; (iii) hành vi từ chối hoặc trốn
tránh việc áp dụng quyết định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà
nước có thầm quyền đối với người mắc bệnh Covid-19; (iv) hành vi không thực hiện
quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công


15

cộng có nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh Covid-19; (v) hành vi không thực hiện
quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đơng người hoặc tạm đình chỉ hoạt
động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng để phịng, chống dịch bệnh Covid-19.
Trưởng phịng Cơng an tỉnh: được xử phạt đối với 03 hành vi sau: (i) hành vi
không thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có thẩm quyền trong q
trình thực hiện giám sát dịch bệnh Covid-19; (ii) hành vi không thực hiện đeo khẩu
trang nơi công cộng hoặc ra đường thuộc diện không cần thiết; (iii) hành vi cản trở,
chống lại người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh Covid-19.
Trưởng công an huyện: được xử phạt đối với 03 hành vi sau: (i) hành vi không
thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có thẩm quyền trong quá trình
thực hiện giám sát dịch bệnh Covid-19; (ii) hành vi không thực hiện đeo khẩu trang
nơi công cộng hoặc ra đường thuộc diện không cần thiết; (iii) hành vi cản trở; xúi
giục, lơi kéo; kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra,
kiểm sốt hoặc có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh Covid-19
Chánh Thanh tra/Trưởng đồn thanh tra chuyên ngành của Sở Thông tin và
Truyền thông: được xử phạt đối với hành vi cung cấp nội dung thông tin sai sự thật,
vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm
của cá nhân liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19.
Thanh tra viên Y tế, Thanh tra viên Giáo dục, Thanh tra viên Giao thông vận

tải, Thanh tra viên Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thanh tra viên Khoa học và
công nghệ, Thanh tra viên Tài nguyên và môi trường: được xử phạt đối với hành vi
vứt khẩu trang, các chất, vật dụng đã sử dụng không đúng nơi quy định có khả năng
làm lây lan dịch bệnh Covid-19.
Cục trưởng Cục quản lý xuất nhập cảnh: hành vi giúp đỡ, chứa chấp, che giấu,
tạo điều kiện cho người nước ngoài vào Việt Nam, ở lại Việt Nam hoặc qua lại biên
giới quốc gia trái phép.
Đội trưởng Đội Quản lý thị trường: được xử phạt đối với hành vi cản trở,
chống lại người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch bệnh Covid-19.
Thẩm quyền xử phạt tiền của các chức danh này là thẩm quyền đối với một
hành vi VPHC của cá nhân. Trong trường hợp phạt tiền thẩm quyền xử phạt tổ chức
gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt cá nhân. Thẩm quyền phạt tiền được xác định căn cứ
vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể.
Trong trường hợp người có thẩm quyền xử phạt VPHC giao cho cấp phó thực hiện
thẩm quyền xử phạt VPHC thì phải thực hiện giao quyền xử phạt VPHC theo quy
định của Luật Xử lý VPHC 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành, sử dụng Mẫu


16

quyết định số 29 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày
18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày
19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử
lý VPHC 2012.
Việc xác định thẩm quyền trong các trường hợp cụ thể được thực hiện theo
quy định chung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính6
Việc liệt kê các chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC là hoàn toàn cần thiết
trong bối cảnh dịch bệnh đang đe doạ tới sức khoẻ và tính mạng của con người. Quy
định chi tiết chủ thể có thẩm quyền xử phạt đối với từng hành vi giúp cho người có
thẩm quyền dễ dàng trong việc xác định giới hạn xử phạt, bảo đảm công tác xử lý

được tiến hành nhanh chóng. Bên cạnh đó, sẽ kịp thời phát hiện và xử phạt những
hành vi phạm pháp, ngăn chặn những hành vi có ý định thực hiện, đồng thời góp phần
giảm thiểu những tồn tại, bất cập phổ biến như hiện nay, khi mà dịch bệnh đang diễn
tiến theo chiều hướng phức tạp với những hậu quả khó lường, nhất là mối đe doạ tới
các quyền con người, quyền công dân.
1.1.4 Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong đại dịch Covid-19
Bên cạnh việc xác định thẩm quyền, thủ tục xử phạt VPHC là một hoạt động
hành chính đặc biệt quan trọng, liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Để hoạt động xử phạt VPHC trong đại dịch Covid19 được diễn ra hiệu quả và triệt để, đồng thời vẫn bảo đảm quyền con người, quyền
cơng dân thì thủ tục xử phạt VPHC địi hỏi phải tuân theo quy định của pháp luật.
Theo Luật xử lý VPHC 2012 thì việc xử phạt VPHC có thể được thực hiện theo thủ
tục lập biên bản hoặc không lập biên bản VPHC. Thủ tục xử phạt không lập biên bản
áp dụng trong trường hợp phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá
nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức trừ trường hợp VPHC được phát hiện nhờ sử
dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản7.
Căn cứ quy định của Luật xử lý VPHC 2012 đã nêu ở trên, có thể thấy hầu hết
các hành vi vi phạm trong đại dịch Covid-19 đều phải thực hiện theo thủ tục lập biên
bản. Người có thẩm quyền lập biên bản VPHC trong đại dịch Covid-19 bao gồm:
Người có thẩm quyền xử phạt và công chức, viên chức thuộc ngành y tế, bảo hiểm
xã hội đang thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao khi phát hiện VPHC có trách nhiệm

6
7

Xem nguyên tắc xác định thẩm quyền tại Điều 52 Luật XLVPHC 2012.
Khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 Luật xử lý VPHC 2012.


17


lập biên bản và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyèn để xử phạt VPHC
theo quy định của pháp luật8.
Biên bản VPHC phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên
bản và người vi phạm hoặc địa diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm
khơng ký được thì điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại
diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng ký vào biên bản. Trường hợp biên bản gồm nhiều
tờ, thì những người quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người
vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện
tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Biên bản VPHC lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức VPHC 01 bản. Trường hợp
VPHC không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập
biên bản thì biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để
tiến hành xử phạt9.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản VPHC trong đại dịch Covid,
người có thẩm quyền xử phạt VPHC phải ra quyết định xử phạt VPHC10. Đối với vụ
việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ
việc thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình thì
thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản. Trường hợp
vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phúc tạp và thuộc trường hợp giải
trình mà vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu
thập thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo cho thủ trưởng
trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời
hạn gia hạn không được quá 30 ngày11.
Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân được thể hiện
xuyên suốt trong các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong
tình hình dịch bệnh hiện nay, khơng chỉ riêng Việt Nam mà thế giới nói chung, đã và
đang phải đối mặt với những thách thức to lớn của đại dịch Covid-19 tồn cầu. Ảnh
hưởng mà nó đem lại là những cuộc đại khủng hoảng, đó là khủng hoảng về y tế,
khủng hoảng về kinh tế và khủng hoảng về xã hội. Nền kinh tế bị suy thoái, người
lao động mất việc làm, thương mại đình trệ, gia tăng áp lực đối với ngành y tế,…và

hơn hết, con người chính là nạn nhân trực tiếp bởi những hệ quả tiêu cực này. Việc
được hưởng thụ các quyền cơ bản của con người bị gián đoạn, nhất là các quyền sống,
8

Điều 94 Nghị định 176/2013/NĐ-CP.
Khoản 3 Điều 58 Luật Xử lý VPHC 2012
10
Điều 66 Luật Xử lý VPHC 2012.
11
Điều 61 Luật Xử lý VPHC 2012.
9


18

quyền được bảo đảm về sức khoẻ. Trước tình hình trên, vấn đề cấp bách đặt ra chính
là thực thi các quy định của pháp luật một cách tối ưu nhất để bảo vệ các quyền cơ
bản của con người, của cơng dân. Nhà nước đã có biện pháp đấu tranh phòng, chống
hành vi VPHC trong đại dịch Covid-19 và bảo đảm các quyền cơ bản của con người,
của công dân bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó ban hành những chế tài xử
phạt VPHC. Thơng qua đó, những hành vi VPHC trong đại dịch Covid-19 sẽ được
phát hiện và kịp thời ngăn chặn.
1.2.1 Các loại quyền con người, quyền công dân cần được bảo đảm trong
đại dịch Covid-19
Bệnh viêm đường hô hấp cấp - Coronavirus disease 2019 (Covid-19) là một
đại dịch truyền nhiễm được gây ra bởi virus SARS-CoV-2 một chủng mới của virus
Corona gây viêm đường hô hấp cấp ở người và có khả năng lây lan từ người sang
người. Covid-19 bắt đầu bùng phát từ tháng 11 năm 2019 tại thành phố Vũ Hán, tỉnh
Hồ Bắc, Trung Quốc. Ngày 31/01/2020, Tổ chức y tế thế giới (WHO) công bố dịch
bệnh Covid-19 là sự kiện y tế cơng cộng khẩn cấp gây quan ngại tồn cầu và đến tối

ngày 11/3/2020 chính thức cơng bố căn bệnh Covid-19 do chủng mới của virus
corona gây ra là đại dịch toàn cầu. Tại Việt Nam, theo Quyết định số 07/2020/QĐTTg ngày 26/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Covid-19 được xếp vào bệnh truyền
nhiễm nhóm A12. Ngày 01/04/2020, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ký Quyết định số
447/QĐ-TTg công bố dịch Covid-19 trên phạm vi cả nước và tiến hành thực hiện các
biện pháp cánh ly xã hội.
Kể từ khi xuất hiện, Covid-19 diễn biến ngày càng phức tạp với nhiều biến thể
mới, không chỉ cướp đi sinh mệnh của hàng triệu người, ảnh hưởng đến sức khoẻ của
trăm triệu người mà còn gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống, sinh hoạt,
thói quen, lối sống của mọi cá nhân, của cộng đồng người trên thế giới. Bên cạnh đó,
sự kỳ thị, phân biệt giàu nghèo cũng ngày càng gia tăng. Chính vì thế, nhiệm vụ được
đặt lên hàng đầu chính là bảo đảm cho cuộc sống của con người - “quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”13.
Tính đến ngày 29/6/2021, tổng số trường hợp mắc Covid-19 được ghi nhận tại
Việt Nam là 16.041 trường hợp, trong đó có 76 ca tử vong14. Từ thực tế diễn biến
12

Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007 quy định: “Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây
truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm”.
13
Hồ Chí Minh(1945), “Tun ngơn độc lập”.
14
Xem: Covid-19 ngày 29/6: 95 ca mắc mới, TP. Hồ Chí Minh có 58 ca, Báo Giao thông, tại website
truy cập
ngày 29/6/2021.


×