Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.79 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ ĐÀO TRÂM ANH

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ ĐÀO TRÂM ANH

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học
và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết cam đoan này và đề nghị Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội xem xét để tôi được bảo vệ Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Người cam đoan

Vũ Đào Trâm Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1..................................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT..........................................................7
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ...........................................................7
1.1.1.2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.......................................................12
2.1.5.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ......................................34
2.2. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ..........................................................................................................42
2.2.2. Những hạn chế, bất cập..................................................................................44
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ........................................................................72
KẾT LUẬN.............................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................84


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Nguyên nghĩa

BHNT

Bảo hiểm nhân thọ

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

HĐBHNT

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh doanh BHNT là một lĩnh vực kinh doanh phát triển khá lâu trên thế
giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, tại Việt Nam,
BHNT vẫn còn tương đối mới mẻ và được các doanh nghiệp bảo hiểm, các chuyên
gia và các cơ quan quản lý đánh giá là thị trường đầy tiềm năng. Với sự phát triển

ổn định của nền kinh tế, thu nhập, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện
và chú trọng thì hoạt động bảo hiểm càng có điều kiện phát triển, trở thành một
trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Đối với
từng người dân, bảo hiểm đảm bảo về mặt tài chính nhằm khắc phục hậu quả khi
bất ngờ gặp phải rủi ro tai nạn hay bệnh tật như chi phí điều trị, viện phí,… Bảo
hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng cịn cung cấp những chương trình
tiết kiệm và là người đại diện đầu tư mang lại lợi tức đầu tư cho khách hàng. Bảo
hiểm chẳng những có tác dụng bồi thường tổn thất sau khi rủi ro phát sinh mà cịn
góp phần rất lớn cho vấn đề phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất. Ngồi ra, bảo
hiểm nhân thọ cịn mang ý nghĩa cộng đồng và tính xã hội cao vì mang lại một sự
an tâm cho con người, và để những người tham gia bảo hiểm có thể chia sẻ rủi ro
với quy luật số đơng bù số ít. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra, sẽ khơng có gánh nặng tài
chính, tương lai con trẻ vẫn bảo đảm, tuổi già thêm thảnh thơi.
Thị trường BHNT ở Việt Nam chính thức được ghi nhận về mặt pháp lý tại
Nghị định 100-CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm. Sau nghị định này
nhiều công ty bảo hiểm mới được cấp phép hoạt động. Có thể nói, Nghị định 100CP ra đời là một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt
Nam. Từ đó đến nay, hệ thống pháp luật về lĩnh vực bảo hiểm nói chung và BHNT
nói riêng ln có sự thừa kế và phát triển nên đã từng bước điều chỉnh ngày càng tốt
hơn đối với thị trường BHNT. Nếu ở Mỹ, hơn 90% dân số đều tham gia BHNT thì ở
Việt Nam, con số đó chỉ là hơn 10% dân số tham gia BHNT (Báo cáo Bộ Tài chính
năm 2020). Đây có thể coi là q thấp, có thể vì thế mà BHNT được đánh giá là một
thị trường tiềm năng? BHNT tuy mang rất nhiều ý nghĩa và lợi ích, nhưng ở Việt

1


Nam, nó vẫn được đánh giá là cịn khá mới mẻ, và để đáp ứng những đòi hỏi của
nền kinh tế và hội nhập quốc tế thì pháp luật về kinh doanh BHNT vẫn cần được
tiếp tục hoàn thiện hơn nữa.
Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phát sinh các quan hệ đặc biệt giữa doanh

nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Quan hệ này chính là quan hệ hợp
đồng. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, ngồi đặc tính của một hợp đồng nói chung,
cịn có một số dặc trưng riêng do mang những đặc tính của dịch vụ tài chính, có
nghĩa là liên quan đến q trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm
nhân thọ. Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội nước Cộng hịa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000, đánh dấu một
bước tiến quan trọng trong việc xây dựng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm trong đó có hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh những tác dụng tích
cực, thực tế áp dụng cho thấy những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ ở Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp, gây khó khăn cho các
doanh nghiệp bảo hiểm, khó khăn cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thậm
chí khó khăn cho cả phía người tiêu dùng sản phẩm và hạn chế sự phát triển lành
mạnh của thị trường bảo hiểm. Cụ thể là hệ thống pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ vẫn thiếu các chế tài cần thiết đối trong việc giải quyết những tranh chấp
về giao dịch bảo hiểm xuất phát từ các hoạt động thiết kế, phân phối sản phẩm
BHNT, hoạt động đầu tư và quản lý tài chính… Vì vậy, tơi chọn đề tài “Hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam” làm đề tại Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với sự phát triển hàng trăm năm trên thế giới và hơn 20 năm ở Việt Nam thì
những cơng trình nghiên cứu liên quan đến bảo hiểm nhân thọ cũng tương đối đa
dạng. Có thể tạm chia các cơng trình nghiên cứu thành hai nhóm là cơng trình nước
ngồi và các cơng trình trong nước. Các cơng trình nghiên cứu của nước ngồi, chỉ
tập trung vào những vấn đề pháp lý của nước ngoài, hoặc trên bình diện khái qt
chung, rất ít cơng trình đề cập đến thị trường BHNT Việt Nam cũng như hệ thống
pháp luật Việt Nam về hợp đồng BHNT, tuy vậy những nội dung lý luận cũng có

2


giá trị tham khảo. Đối với các cơng trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề

tài, các tác giả thường đề cập đến một hoặc một số khía cạnh về BHNT và pháp luật
kinh doanh BHNT với những mức độ khác nhau phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu
và cơng trình khoa học ấy.
Ở Việt Nam, sau khi Luật Kinh doanh bảo hiểm ra đời năm 2000, các cơng
trình nghiên cứu trong nước về BHNT lần lượt xuất hiện. Trong đó phải kể đến các
tác phẩm “Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm” của
GS.TSKH Trương Mộc Lâm và Lưu Nguyên Khánh (2001), Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội và “Giáo trình Bảo hiểm nhân thọ” của Đoàn Minh Phụng và Hoàng
Mạnh Cừ (2011), Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội. Bên cạnh những tác phẩm trên
cịn có một số cơng trình ngun cứu là các luận văn, luận án của những học viên,
nghiên cứu sinh về kinh doanh BHNT và HĐBHNT, kể đến là “Một số vấn đề pháp
lý về hợp đồng bảo hiểm” của Nguyễn Văn Tó – Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001,
Trường đại học Luật Hà Nội, “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của Trần Vũ Hải – Luận văn Thạc sĩ luật học 2005, Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội, “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam. Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của Trần Vũ Hải – Luận án Tiến sỹ Luật học 2014, Trường
Đại học Luật Hà Nội, “Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam” của Trịnh Thị
Bích Thủy - Luận văn Thạc sĩ ngành Luật kinh tế 2014, Khoa Luật – Trường Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
Có thể thấy, mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, luận án, bài viết liên
quan đến BHNT nhưng những cơng trình này chủ yếu đề cập đến pháp luật về
BHNT nói chung hoặc pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nói riêng, rất ít cơng trình
nghiên cứu về pháp luật về HĐBHNT, phải kể đến là các cơng trình nghiên cứu của
tác giả Trần Vũ Hải. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu của tác giả Trần Vũ Hải
về HĐBHNT chưa nghiên cứu một cách tổng quát, chuyên sâu, đánh giá một cách
toàn diện về thực trạng xây dựng, áp dụng pháp luật, thực tế thực hiện HĐBHNT.
Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ theo pháp
luật Việt Nam” với mong muốn có một cơng trình khoa học phân tích và tổng hợp

3



một cách hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về HĐBHNT ở Việt Nam;
đánh giá một cách toàn diện về thực trạng xây dựng và áp dụng pháp luật, từ đó đưa
ra một số kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về HĐBHNT cho phù hợp với
thực tế, góp phần để hoạt động quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm
được thực hiện hiệu quả hơn trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về hợp
đồng BHNT, dựa trên cơ sở lý luận đó để đánh giá về thực trạng các quy định pháp
luật hiện hành. Bên cạnh đó luận văn nêu và phân tích một số ví dụ thực tiễn về
tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với mục đích phát hiện và
phân tích những khiếm khuyết của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở Việt
Nam hiện nay để; từ đó, có những đề xuất, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng BHNT nhằm đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng BHNT: khái niệm BHNT, khái
niệm và đặc điểm hợp đồng BHNT, nội dung, hình thức của hợp đồng BHNT và
chủ thể tham gia hợp đồng BHNT.
- Đánh giá các nội dung pháp luật về hợp đồng BHNT, bao gồm những ưu
điểm và hạn chế, những bất cập của các quy định hiện hành về hợp đồng BHNT.
Bên cạnh đó luận văn nêu và phân tích một số ví dụ thực tiễn về tranh chấp liên
quan đến hợp đồng BHNT với mục đích phát hiện và phân tích những khiếm khuyết
của pháp luật về hợp đồng BHNT ở Việt Nam hiện nay để từ đó có những đề xuất
kiến nghị hồn thiện.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về hợp đồng BHNT.
Những giải pháp này cần bám sát và thể hiện đúng chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam và chính sách của Nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật nhằm thúc
đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm đáp ứng quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:

4


- Hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng BHNT bao gồm: Luật
Kinh doanh bảo hiểm, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm
và các văn bản khác có liên quan như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật
Thương mại, ...
- Các quan điểm khoa học các được các tác giả cá nhân và tổ chức cơng bố
trong các cơng trình nghiên cứu về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ nói chung và
nghiên cứu về hợp đồng BHNT nói riêng trong nước và quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung vào hệ thống quy định pháp
luật về hợp đồng BHNT ở Việt Nam kể từ khi có Luật kinh doanh bảo hiểm năm
2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật học mang tính lý luận và dựa
trên các quy định pháp luật hiện hành gắn với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, đồng
thời sử dụng một số phương pháp cơ bản như sau: Phương pháp tiếp cận và phân
tích các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng; phương pháp thống kê; phương
pháp luật học so sánh; phương pháp lịch sử.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay, các cơng trình nghiên cứu về mặt pháp lý và tổng kết thực tiễn về
Hợp đồng BHNT ở Việt Nam chưa nhiều. Đa số các cơng trình nghiên cứu chỉ đề
cập đến một số khía cạnh về pháp luật kinh doanh BHNT mà chưa được nghiên cứu
chặt chẽ về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Với những lý do trên, việc nghiên cứu các
quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam và đưa ra những

định hướng cũng như giải pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp luật trong lĩnh vực
này là vơ cùng cần thiết, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Luận văn là một trong những cơng trình nghiên cứu chun sâu về hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho những cơng trình nghiên cứu tiếp theo, trong hoạt động giảng dạy và học tập.
Bên cạnh đó, những kiến nghị của Luận văn cũng góp phần tác động đến những nhà
làm luật trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng bảo

5


hiểm nhân thọ. Đồng thời, Luận văn cũng là cẩm nang pháp lý hữu ích cho những
các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng và phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Thị trường bảo hiểm là một bộ phận của thị trường tài chính, có vai trị

quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh cũng như các
lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội. Một bộ phận khơng thể thiếu của thị
trường bảo hiểm chính là thị trường bảo hiểm nhân thọ. BHNT là nghiệp vụ bảo
hiểm cho trường hợp người bảo hiểm sống hoặc chết trong thời gian nhất định
theo thỏa thuận giữa bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Khái niệm BHNT được
hiểu tương đối thống nhất trong các tài liệu khoa hoặc và trong pháp luật của các
quốc gia trên thế giới [8].
Ở Việt Nam, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm
2010 và 2019 (sau đây gọi tắt là Luật kinh doanh bảo hiểm), khoản 12, Điều 3 có
đưa ra định nghĩa BHNT như sau: “BHNT là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường
hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”. BHNT cũng đã từng xuất hiện trong
thời kỳ Pháp thuộc và ở miền Nam trước năm 1975, tuy nhiên thì sau khi thống
nhất đất nước thị trường BHNT mới chính thức được tái lập. Về mặt pháp lý,
BHNT bắt đầu được quy định tại Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 18/12/1993 của
Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, nhưng trên thực tế, hoạt động kinh doanh
BHNT chỉ thực sự được triển khai khi Quyết định số 281/BTC-TCNN của Bộ
trưởng Bộ Tài chính ngày 20/2/1996 cho phép Tổng cơng ty bảo hiểm Việt Nam là
doanh nghiệp được thí điểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ
BHNT năm năm, mười năm và bảo hiểm trẻ em. Cũng như đa số các sản phẩm
bảo hiểm khác, nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ được thực hiện thông qua
cơ chế hợp đồng giữa DNBH và bên mua bảo hiểm. Về mặt lý thuyết, HĐBHNT là
một dạng của hợp đồng bảo hiểm.
Trong pháp luật Việt Nam quy định về khái niệm hợp đồng bảo hiểm như

7


sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, DNBH phải trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy

ra sự kiện bảo hiểm” (Khoản 1 Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên pháp
luật Việt Nam lại không đưa ra một khái niệm riêng cụ thể về HĐBHNT, do đó để
có thể đưa ra khái niệm về HĐBHNT ta cần xem xét những đặc trưng cơ bản của
loại hợp đồng này:
Thứ nhất, HĐBHNT có đối tượng là tuổi thọ của con người. Đặc điểm này
rất quan trọng và chi phối các đặc điểm khác. Tuổi thọ của con người thể hiện ra bởi
quá trình từ khi sống cho đến khi chết của người đó. Trong hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ, nghĩa vụ khai báo đúng tuổi của người được bảo hiểm là rất quan trọng. Căn cứ
vào độ tuổi của người được bảo hiểm, bên bảo hiểm sẽ xác định người đó có thuộc
nhóm tuổi tham gia bảo hiểm hay khơng cũng như tính tốn mức phí bảo hiểm phù
hợp. Về mặt lý thuyết, mức độ rủi ro sẽ khác nhau nếu người được bảo hiểm có độ
tuổi khác nhau. Ngồi ra, tuổi thọ của con người cịn phụ thuộc rất nhiều vào các
yếu tố khác nhau như sức khỏe, bệnh tật, gen di truyền, nếp sống, sinh hoạt hằng
ngày…, do vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên, HĐBHNT thường
rất phức tạp, mà nguyên nhân chủ yếu là do tính phức tạp của đối tượng bảo hiểm
tạo ra. Bảo vệ cho tuổi thọ của con người trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có hai
dạng cơ bản: Dạng thứ nhất là bảo vệ cho người thân của người được bảo hiểm về
mặt kinh tế, tức là nếu như người được bảo hiểm qua đời hoặc không cịn khả năng
lao động thì gia đình có được một khoản tiền bảo hiểm để bù đắp một phần những
thiếu hụt tài chính vì người được bảo hiểm mất đi hoặc mất đi sức lao động. Dạng
thứ hai là bảo vệ cho chính người được bảo hiểm sau khi kết thúc hợp đồng bảo
hiểm, tức là người được bảo hiểm sẽ nhận được một khoản tiền sau khi kết thúc hợp
đồng và số tiền này được sử dụng để duy trì cuộc sống của họ hoặc để họ thực hiện
những mục tiêu nhất định.
Thứ hai, trong HĐBHNT, sự kiện bảo hiểm khơng hồn tồn gắn liền với rủi
ro. Trong các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ, trách nhiệm bồi thường hoặc trả tiền

8



bảo hiểm của bên bảo hiểm chỉ phát sinh khi đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại. Trong
khi đó, trong HĐBHNT, ngoài trường hợp khi người được bảo hiểm gặp rủi ro được
bảo hiểm, trách nhiệm trả tiền của bên bảo hiểm còn phát sinh trong một số trường
hợp khác như hết thời hạn hợp đồng, hồn phí hay trả giá trị hoàn lại.
Thứ ba, HĐBHNT là loại hợp đồng dài hạn. Nếu thời hạn của các hợp đồng
bảo hiểm phi nhân thọ có thể là dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn tùy theo sự thỏa
thuận của các bên và tùy thuộc vào đối tượng của hợp đồng thì hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ là loại hợp đồng dài hạn. Tính dài hạn của HĐBHNT nhằm đảm bảo quyền
lợi cho các bên bảo hiểm trong hoạt động đầu tư đồng thời đáp ứng được mục đích
tiết kiệm của bên mua bảo hiểm. Mặt khác, thời hạn hợp đồng dài hạn sẽ giúp bên
mua bảo hiểm có khả năng nộp phí bảo hiểm
Thứ tư, HĐBHNT có tính tiết kiệm đối với bên mua bảo hiểm. Tính tiết kiệm
của HĐBHNT được thể hiện ở chỗ tham gia BHNT cũng giống như việc gửi tiết
kiệm, bên mua bảo hiểm dùng từng khoản tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm, khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra, người thụ hưởng có thể có được khoản tiền lớn hơn. Việc nộp
phí bảo hiểm là nghĩa vụ theo thỏa thuận, đồng thời bên mua bảo hiểm khơng thể
tùy tiên lấy lại các khoản phí đã nộp (điều này khác với việc gửi tiền tại ngân hàng),
chính vì vậy tiết kiệm cho bên mua bảo hiểm những khoản chi tiêu khơng thật sự
cần thiết. Chính vì HĐBHNT có tính dài hạn và tính tiết kiệm, nên để đảm bảo
quyền lợi cho các bên, HĐBHNT có nhiều điều khoản đặc trưng như thỏa thuận cho
vay của bên bảo hiểm, các quyền lợi của bên mua bảo hiểm để duy trì hợp đồng,
việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
Thứ năm, nội dung của HĐBHNT bao gồm các điều khoản mẫu. Trong
HĐBHNT, DNBH khơng hồn tồn ban hành tất cả nội dung hợp đồng. Một số nội
dung trong hợp đồng vẫn có sự tham gia quyết định của bên mua bảo hiểm như số
tiền bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, người thụ hưởng, các sản phẩm bảo hiểm bổ
trợ… Ngoài những nội dung trên, các nội dung còn lại trong HĐBHNT chi do
DNBH đưa ra nên gọi là điều khoản mẫu, bên mua bảo hiểm nếu chấp nhận giao kết
hợp đồng thì phải chấp nhận tồn bộ nội dung điều khoản mẫu. Điều khoản mẫu có


9


thể tạm chia thành hai loại là điều khoản mẫu theo luật và điều khoản mẫu theo ý
chí của người ban hành. Điều khoản mẫu theo pháp luật là điều khoản mẫu ghi nhận
những nội dung giống như quy định của pháp luật, trong trường hợp DNBH không
đưa ra điều khoản mẫu này thì quyền và nghĩa vụ các bên vẫn thực hiện theo quy
định của pháp luật. Điều khoản mẫu theo ý chí của người ban hành ghi nhận những
nội dung do chính ý chí người ban hành đưa ra mà pháp luật không quy định cụ thể
nhưng cũng không cấm. Nếu DNBH không đưa ra các điều khoản này thì khơng thể
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên tham gia hợp đồng.
Loại điều khoản mẫu thứ này có ý nghĩa lớn đối với các bên, với DNBH, nội dung
những điều khoản này tạo nên sự khác biệt giữa sản phẩm bảo hiểm của họ so với
các sản phẩm bảo hiểm tương tự của doanh nghiệp bảo hiểm khác, còn đối với bên
mua bảo hiểm, đây là cơ đội để lựa chọn sản phẩm phù hợp nhất với mình.
Từ những đặc trưng riêng có trong HĐBHNT, cùng với bản chất của một loại
hợp đồng bảo hiểm, có thể đưa ra khái niệm về HDBHNT như sau: Hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm về việc DNBH cam kết bảo hiểm cho tuổi thọ của người được bảo
hiểm với điều kiện người mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ và đúng
hạn, DNBH sẽ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng
nếu người được bảo hiểm sống hoặc chết trong thời gian thỏa thuận.
Một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường bao gồm những văn bản, giấy tờ sau:
- Giấy yêu cầu bảo hiểm là một loại đơn yêu cầu bảo hiểm bao gồm tất cả
các thông tin cơ bản về nhân thân (tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ, nghề nghiệp,
sức khỏe và một số thông tin khác) của người được bảo hiểm hoặc người mua bảo
hiểm có liên quan đến việc yêu cầu mua bảo hiểm do đích thân hoặc đại diện hợp
pháp của bên mua bảo hiểm cung cấp cho DNBH. Giấy yêu cầu bảo hiểm ghi nhận
sự chấp thuận giao kết hợp đồng của bên mua bảo hiểm thơng qua việc điền đẩy đủ
các thơng tin nói trên, ký và ghi rõ họ tên của mình và của người được bảo hiểm

(nếu có). Thơng thường, các DNBH lưu lại bản gốc của Giấy yêu cầu bảo hiểm
trong bộ hồ sơ hợp đồng của mình và gửi bản sao cho khách hàng để có tài liệu đối

10


chiếu khi cần thiết.
Giấy yêu cầu bảo hiểm là một bộ phận khơng thể thiếu của HĐBHNT và có
giá trị vơ cùng quan trọng bởi nó chứa đựng các thơng tin quan trọng về người được
bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm mà DNBH dựa vào các thông tin đó để đánh
giá rủi ro và ra quyết định chấp nhận bảo hiểm (bao gồm chấp nhận bảo hiểm với
mức phí tiêu chuẩn, chấp nhận với điều kiện: tính thêm phí phụ trội, thay đổi điều
kiện hợp đồng…), trì hỗn chấp nhận bảo hiểm hay từ chối chấp nhận bảo hiểm.
Điều đáng lưu ý ở đây là HĐBHNT phải dựa trên nguyên tắc “trung thực tuyệt đối”,
DNBH hoàn toàn tin tưởng và căn cứ vào các thông tin mà người tham gia bảo
hiểm cung cấp, trong đó có thơng tin về tuổi và sức khỏe của người tham gia bảo
hiểm cung cấp để giao kết và thực hiện hợp đồng. Do vậy, khi mua bảo hiểm nếu
người tham gia bảo hiểm kê khai thông tin không đầy đủ hoặc kê khai không trung
thực về các thông tin mà DNBH đưa ra tại giấy u cầu bảo hiểm thì họ có thể sẽ
phải gánh chịu hậu quả bất lợi là hợp đồng bảo hiểm do họ đứng tên sẽ bị đình chỉ
thực hiện và DNBH có quyền khơng hồn trả lại số phí bảo hiểm mà họ đã nộp.
- Thơng báo chấp nhận bảo hiểm (cũng có thể được thể hiện dưới hình thức
Bìa hợp đồng): được phát hành sau khi doanh nghiệp bảo hiểm nhận được Giấy yêu
cầu bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, đánh giá rủi ro và chấp nhận bảo hiểm.
Thơng báo này thường có chữ ký của người đại diện hợp pháp của DNBH và con
đấu của doanh nghiệp, là cơ sở pháp lý ghi nhận giới hạn phạm vi trách nhiệm của
DNBH trong việc thực hiện các cam kết của hợp đồng.
- Điều khoản hợp đồng: đây là điều khoản mẫu được DNBH soạn sẵn và
được cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm (Bộ Tài chính) phê chuẩn và đã
được khách hàng chấp nhận. Nội dung của điều khoản mẫu sẽ không thay đổi

trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng (trừ khi có quy định của Nhà nước dẫn
đến sự thay đổi).
- Điều kiện bảo hiểm: Văn bản này xác định rõ các điều kiện bảo hiểm cụ
thể của tưng hợp đồng như người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm,
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, ngày hợp đồng bắt

11


đầu có hiệu lực, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, định kỳ đóng phí và các thơng
số, thơng tin có liên quan khác.
- Các phụ lục, giấy tờ khác kèm theo, các phụ lục này xác định rõ những
thông số về giá trị giao ước, số tiền bảo hiểm giảm, các loại trợ cấp theo hợp đồng
và các thay đổi trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, các điều khoản bổ sung…
1.1.1.2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Phân loại HĐBHNT có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định cơ chế điều chỉnh
pháp luật đối với HĐBHNT. HĐBHNT được phân loại theo nhiều cách khác nhau
và mỗi cách phân loại có ý nghĩa nhất định trong việc xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên trong HĐBHNT.
HĐBHNT có thể được phân loại theo tính chất của sự kiện bảo hiểm. Theo
tiêu chí này, HĐBHNT bao gồm: bảo hiểm tử kỳ, hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ và
hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp.
Hợp đồng bảo hiểm tử kỳ là loại HĐBHNT mà theo đó, nếu người được bảo
hiểm chết trong thời hạn thỏa thuận, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng.
Hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ là loại HĐBHNT mà theo đó, nếu người được
bảo hiểm sống đến hết thời hạn thỏa thuận, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng.
Hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp là HĐBHNT kết hợp cả bảo hiểm tử kỳ và bảo
hiểm sinh kỳ. Đây là loại sản phẩm chủ yếu trên thị trường bảo hiểm nhân thọ hiện

nay vì nó kết hợp được nhiều lợi ích dành cho bên mua bảo hiểm.
HĐBHNT cịn có thể được phân loại theo thời hạn hợp đồng, theo đó, HĐBHNT
có hai loại là HĐBHNT có thời hạn và HĐBHNT khơng xác định thời hạn.
HĐBHNT có thời hạn là loại HĐBHNT mà các bên thỏa thuận trước thời
hạn của hợp đồng. Trong thời hạn đó hoặc khi kết thúc thời hạn, doanh nghiệp bảo
hiểm phải có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm.
HĐBHNT không xác định thời hạn là loại HĐBHNT mà trách nhiệm bảo
hiểm của DNBH chỉ kết thúc khi người bảo hiểm chết hoặc người thụ hưởng đã

12


nhận hết quyền lợi bảo hiểm. Các nghiệp vụ bảo hiểm áp dụng hợp đồng dạng này
là bảo hiểm trọn đời và bảo hiểm trả tiền định kỳ.
Hợp đồng bảo hiểm trọn đời là HĐBHNT mà DNBH có trách nhiệm trả tiền
cho người thụ hưởng nếu người được bảo hiểm chết vào bất cứ thời điểm nào.
Hợp đồng bảo hiểm trả tiền định kỳ là loại HĐBHNT mà doanh nghiệp bảo
hiểm có trách nhiệm trả tiền định kỳ cho người thụ hưởng nếu người được bảo
hiểm sống hết thời gian đã thỏa thuận. Việc trả tiền định kỳ này chỉ kết thúc khi
người được bảo hiểm chết hoặc người thụ hưởng đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm.
Đây là nghiệp vụ bảo hiểm có một số nội dung tương tự như chế độ hưu trí trong
bảo hiểm xã hội.
1.1.2. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
HĐBHNT là một loại hợp đồng bảo hiểm trong đó DNBH cam kết chi trả
một khoản tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng nếu chẳng may người được bảo hiểm
gặp phải các rủi ro liên quan đến sức khỏe, thân thể, tính mạng với điều kiện bên
mua bảo hiểm đóng phí định kỳ đầy đủ theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Mục đích chính của BHNT là bảo vệ con người trước những rủi ro bất ngờ, nhưng
bên cạnh đó bảo hiểm nhân thọ còn kết hợp yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
BHNT đóng vai trị như tấm lá chắn của khách hàng trước mọi rủi ro bất ngờ

trong cuộc sống. Sở hữu một HĐBHNT sẽ giúp mỗi người có tinh thần thoải mái,
gạt bỏ những lo lắng để hoàn thành và chinh phục những mục tiêu và kế hoạch đã
đặt ra. Bởi lẽ, khi có biến cố xảy ra, BHNT sẽ cùng chúng ta khắc phục những rủi ro
đó. Trong cuộc sống, rủi ro là một điều không thể tránh khỏi, mỗi người cần trở
thành trụ cột tài chính để vượt qua những khó khăn, thử thách để chủ động đối phó
với các tình huống xấu và tiếp tục thực hiện các kế hoạch trong tương lai. Tham gia
HĐBHNT là một cách đang thể hiện trách nhiệm với chính thân thể, sinh mạng của
mình. Bên cạnh đó, nếu một người biết cách tự chăm sóc bản thân cũng như lo cho
tương lai sau này của mình thì có lẽ người đó cũng sẽ làm tốt trách nhiệm của mình
với người thân trong gia đình. Điều này thể hiện rất rõ khi tham gia HĐBHNT cho
người trụ cột, nếu chẳng may rủi ro xảy ra, các DNBH sẽ thay mặt người trụ cột làm
tốt trách nhiệm với gia đình để các thành viên cịn lại sớm ổn định cuộc sống. Ngồi

13


ra, việc đóng phí định kỳ sẽ giúp chúng ta hình thành thói quen chi tiêu tiết kiệm. Vì
khơng đóng phí đúng hạn, hợp đồng bảo hiểm sẽ bị chấm dứt, điều đó đồng nghĩa
với việc mọi quyền lợi bảo hiểm cũng khơng được duy trì. Nhận thức được điều đó,
bản thân chúng ta sẽ có trách nhiệm hơn với việc đóng phí đúng thời hạn cũng như
tiết kiệm cho tương lai. Hơn nữa, nếu gắn việc tham gia bảo hiểm nhân thọ với một
kế hoạch tài chính dài hạn, quan trọng như cho con đi du học, mua nhà, mua xe,
chuẩn bị cho cuộc sống sau khi về hưu… chúng ta sẽ có thêm động lực để duy trì
thói quen tiết kiệm. Vì vậy mà, ý nghĩa của HĐBHNT đối với cá nhân và gia đình là
rất quan trọng:
- Bảo vệ tài chính của gia đình: Tham gia HĐBHNT là cách tốt nhất để dự
phịng tài chính của gia đình trước những rủi ro như bệnh tật, tai nạn, tử vong… Thực
tế cho thấy, chi phí khắc phục các rủi ro là một con số không hề nhỏ, đặc biệt các rủi
ro liên quan đến bệnh tật, tại nạn… phải nằm viện điều trị dài ngày. Khi đó, BHNT sẽ
phát huy vai trị của mình, chi trả số tiền bảo hiểm kịp thời giúp người không may

mắn và gia đình bù đắp tổn thất và nhanh chóng vượt qua được khó khăn.
- Đảm bảo tài chính trong trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra: Lúc này,
BHNT sẽ lập tức biến thành trụ đỡ vững chắc thay thế khoản thu nhập bị mất đi của
người trụ cột.
- Tạo dựng quỹ tiết kiệm cho tương lai: Nếu khách hàng may mắn không
gặp bất cứ rủi ro nào trong thời hạn hợp đồng, sẽ nhận lại quyền lợi đáo hạn. Với
khoản tiền nhận được từ quyền lợi này, khách hàng sẽ có một quỹ tích lũy để thực
hiện các dự định trong tương lai như cho con đi du học, đầu tư, kinh doanh…
- Chuẩn bị tài chính cho hưu trí an nhàn: Sau những tháng ngày lao động
vất vả của tuổi trẻ, khi về già ai cũng mong muốn có những phút giây thư giãn đúng
nghĩa bên con cháu mà khơng vướng bận về các chi phí hàng ngày. BHNT sẽ giúp
bạn có những ngày áp nghỉ dưỡng an nhàn thông qua việc chi trả một khoản tiền
bảo hiểm vào mỗi tháng. Số tiền này có ý nghĩa rất lớn đối với độ tuổi nghỉ hưu
giúp họ tự do về tài chính, tâm lý thoải mái mà khơng cịn là gánh nặng của con
cháu khi về già.
Ngoài những ý nghĩa đối với cá nhân và gia đình thì HĐBHNT cịn có những

14


ý nghĩa đặc biệt đối với xã hội, cụ thể:
- Huy động nguồn vốn nhàn rỗi: BHNT đã phát huy khả năng huy động
một nguồn vốn nhàn rỗi lớn của người tham gia để đầu tư dài hạn góp phần đáp ứng
nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Với mô hình thu phí bảo hiểm trước và chi trả quyền
lợi bảo hiểm sau, một nguồn vốn lớn thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho các
DNBT đầu tư vào các lĩnh vực trái phiếu, cổ phiếu, bất động sản, tiền gửi, góp vốn
vào doanh nghiệp... . Khi nguồn vốn được sử dụng hiệu quả và tạo ra dòng luân
chuyển nhanh sẽ giúp thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Góp phần kiểm soát rủi ro, hạn chế tổn thất và đảm bảo an toàn cho
nền kinh tế: Tham gia HĐBHNT là quyền lợi của mọi công dân, BHNT làm cho

cuộc sống con người được bảo đảm và phát triển một cách có kế hoạch. Khi tham
gia HĐBHNT chúng ta sẽ có một cuộc sống thoải mái hơn vì đã có sự đảm bảo nhất
định của DNBH. Hơn nữa, bằng cách tham gia, khách hàng sẽ được tiếp cận với
điều kiện khám chữa bệnh tốt hơn, chuẩn bị tài chính để nghỉ hưu an nhàn, cũng
như chăm lo kế hoạch học vấn trong tương lai của các con. Khi mỗi người trong
cộng đồng ý thức hơn về sức khỏe và tài chính của mình thì xã hội được đảm bảo an
tồn về con người và nền kinh tế.
1.2. Cơ sở lý luận của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Pháp luật về HĐBHNT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng BHNT. Pháp luật về
HĐBHNT có bản chất của luật tư. Trong thị trường bảo hiểm, pháp lt vê HĐBHNT
đóng vai trị là cơng cụ chính đảm bảo cho những hoạt động mua bán các sản phẩm
BHNT được diễn ra trong trật tự. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật điều chỉnh các
quan hệ về HĐBHNT được quy định trong các văn bản pháp luật như: Luật kinh
doanh bảo hiểm, quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015, ... Trong hệ
thống các văn bản pháp luật về HĐBHNT, Bộ luật Dân sự chứa đựng những quy
định chung, áp dụng cho mọi quan hệ hợp đổng.
Pháp luật về HĐBHNT mang đặc điểm chung của Luật hợp đồng, bao gồm:

15


Thứ nhất, pháp luật về HĐBHNT mang tính chất luật tư điển hình: Pháp luật
về HĐBHNT thuộc lĩnh vực luật tư và mang tính điển hình bởi Nhà nước đặt ra
nhằm hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ cho các quyền lợi của tư nhân và chỉ giới hạn các
quyền lợi này khi có lý do thực sự chính đáng từ phía cộng đồng.
Thứ hai, pháp luật về HĐBHNT là một luật hỗ trợ. Khi giao kết HĐBHNT,
các bên thiết lập luật giữa họ với nhau, khi hợp đồng đã được thiết lập, các bên
trong quan hệ hợp đồng đó phải tuân thủ các quy tắc xử sự mà họ đã đặt ra với

nhau. Nếu vi phạm quy tắc xử sự đó, thì hợp đồng là nguồn đầu tiên để giải quyết
tranh chấp và tịa án có thể áp dụng chế tài đối với người vi phạm.
Thứ ba, pháp luật về HĐBHNT là một luật không đầy đủ. HĐBHNT được
lập nên bởi ý chí của các bên, nên phạm vi của hợp đồng là rất rộng lớn. Nhà làm
luật không thể dự liệu được tất cả các loại HĐBHNT.
Pháp luật về HĐBHNT điều tiết quan hệ giữa các bên trong HĐBHNT và
mang những chức năng, vai trò sau:
Thứ nhất, pháp luật về HĐBHNT trước hết có chức năng bảo vệ tự do lựa
chọn và tự định đoạt của con người. Góp phần ngăn cản sự can thiệp bất chính đáng
của chính quyền vào quan hệ hợp đồng của các tư nhân.
Thứ hai, pháp luật về HĐBHNT bảo đảm thực hiện các cam kết có trong HĐBHNT.
Thứ ba, pháp luật về HĐBHNT vơ hiệu hóa các thỏa thuận khơng đủ tiêu
chuẩn. Hợp đồng là nói tới tự do ý chí, tức là con người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí
của chính mình, tuy nhiên, sự tự do thái q của một các nhân chống lại hoặc làm
ảnh hưởng đến cộng đồng. Chức năng này góp phần quan trọng vào bảo vệ trật tự
chung của cộng đồng và sự hợp tác giữa các cá nhân với nhau.
Thứ tư, pháp luật về HĐBHNT cung cấp các giải pháp cho việc giải quyết
tranh nhấp bảo hiểm giữa các bên. Việc xung đột quyền lợi là một vấn đề không thể
tránh khỏi trong quan hệ hợp đồng và đôi khi diễn ra rất phức tạp và đa dạng vì vậy
nên pháp luật về HĐBHNT cung cấp các giải pháp cho các trường hợp tranh chấp
có thể xảy ra trong tương lai.
Thứ năm, pháp luật về HĐBHNT đảm bảo sự công bằng giữa các bên. Thông

16


qua HĐBHNT các bên tham gia trao đổi lợi ích vì vậy mà sự ngang bằng về lợi ích
là cái mà mọi người đều hướng tới.
Thứ sáu, pháp luật về HĐBHNT tạo điều kiện dễ dàng cho việc giao kết,
thực hiện HĐBHNT và giải quyết tranh chấp HĐBHNT [3].

1.2.2. Cấu trúc pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Mục tiêu của pháp luật về HĐBHNT là để bảo vệ người tiêu dung và đảm
bảo những cam kết bảo hiểm của DNBH phải được thực hiện. Do đó, các bộ phận
chính của pháp luật về HĐBHNT bao gồm các quy định về:
+ Chủ thể của HĐBHNT: Gồm bên mua bảo hiểm, DNBH và các chủ thể
liên quan (người được bảo hiểm và người thụ hưởng).
+ Hình thức của HĐBHNT: Hình thức phải lập dưới hình thức văn bản.
+ Nội dung của HĐBHNT: Quy định các điều khoản cơ bản phải có trong
HĐBHNT và các điều khoản khác tùy theo mục đích của từ sản phẩm bảo hiểm.
+ Hiệu lực của HĐBHNT: Pháp luật về HĐBHNT quy định rõ các trường
hợp HĐBHNT vô hiệu.
+ Giao kết HĐBHNT: Pháp luật về HĐBHNT quy định các nguyên tắc khi
giao kết HĐBHNT và quy trình giao kết với 3 bước (bên mua bảo hiểm thực hiện
kê khai thông tin, DNBH xác thực nội dung kê khai, DNBH ra quyết định có chấp
nhận bảo hiểm hay không)
+ Thực hiện HĐBHNT: Pháp luật về HĐBHNT quy định về các quyền và
nghĩa vụ của các bên khi HĐBHNT được xác lập và có hiệu lực.
+ Chấm dứt HĐBHNT: Pháp luật về HĐBHNT quy định về các trường hợp
chấm dứt hợp đồng.

Kết luận chương 1
Trong chương 1, người viết đã trình bày về những vấn đề lý luận về hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong đó, người viết tập trung vào 02 nội dung chính, đó
là Khái qt chung về HĐBHNT và Cơ sở lý luận của pháp luật về HĐBHNT. Nội

17


dung thứ nhất bao gồm các nội dung Khái niệm, đặc trưng, phân loại và ý nghĩa hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ; nội dung thứ hai bao gồm các nội dung về khái niệm pháp

luật HĐBHNT, đặc điểm, vai trò của pháp luật về HĐBHNT; ngồi ra luận văn cịn
đề cập đến cấu trúc pháp luật về HĐBHNT bao gồm các quy định về chủ thể, hình
thức, nội dung và hiệu lực của HĐBHNT, giao kết, thực hiện và chấm dứt HĐBHNT.
Nội dung chính của chương này đó là đưa ra những đặc điểm khác biệt của hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ với các loại hình bảo hiểm khác, phân loại các HĐBHNT và ý
nghĩa của HĐBHNT đối với cá nhân và xã hội. Bên cạnh đó, chương 1 cịn đưa ra
khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về HĐBHNT và cấu trúc pháp luật về
HĐBHNT. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả dựa vào và tiến hành phân tích
thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở
Việt Nam hiện nay.

18


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
2.1. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thực hiện hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ
2.1.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Chủ thể của HĐBHNT bao gồm hai bên là bên bảo hiểm và bên mua bảo
hiểm. Ngoài ra, trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có các chủ thể liên quan
như người được bảo hiểm và người thụ hưởng.
a. Bên bảo hiểm
Bên bảo hiểm là chủ thể chấp nhận rủi ro của chủ thể khác trên cơ sở được
nhận phí bảo hiểm. Bên bảo hiểm trong HĐBHNT là DNBH kinh doanh trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ. Theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ không được đồng thời kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm phi nhân
thọ, ngoại trừ các sản phẩm bổ trợ cho hoạt động kinh doanh chính (khoản 2 Điều
50 Luật kinh doanh bảo hiểm). Quy định này nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt

động kinh doanh bảo hiểm.
DNBH khi ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải thỏa mãn các điều kiện
sau đây:
Thứ nhất, DNBH phải được thành lập và hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.
Điều kiện này xác định tư cách chủ thể của DNBH. Doanh nghiệp phải được Bộ tài
chính cấp giấy phép thành lập, hoạt động và giấy phép đó hiện cịn có hiệu lực tại
thời điểm giao kết hợp đồng.
Thứ hai, người đại diện của DNBH phải có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ và có thẩm quyền đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm. Người đại diện của
doanh nghiệp bảo hiểm thường có hai dạng là người đại diện giao dịch và người
đại diện ký kết.
Người đại diện giao dịch là người cùng với bên mua bảo hiểm hoàn tất cả
thủ tục để ký kết hợp đồng. Chủ thể này có thể là nhân viên của doanh nghiệp bảo

19


hiểm hoặc đại lý bảo hiểm. Về nguyên tắc, người đại diện giao dịch phải được đào
tạo về chuyên môn và có sự ủy quyền từ DNBH.
Người đại diện ký kết là người có thẩm quyền ký vào văn bản hợp đồng để
xác nhận tính ràng buộc của hợp đồng đối với DNBH. Chính vì vậy, người đại diện
ký kết thường là người đại diện đương nhiên của DNBH theo pháp luật (giám đốc
hoặc tổng giám đốc) hoặc người được sự ủy quyền của người đại diện.
b. Bên mua bảo hiểm
Bên mua bảo hiểm (hay còn được gọi là bên tham gia bảo hiểm) là chủ thể
đứng tên trong HĐBHNT, đồng thời có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm. Bên mua bảo
hiểm thường là cá nhân nhưng cũng không ngoại lệ bên mua bảo hiểm là tổ chức,
nếu thỏa thuận các điều kiện đối với bên mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Các điều kiện này bao gồm:
Thứ nhất, bên mua bảo hiểm phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Điều

kiện này đảm bảo rằng bên mua bảo hiểm phải là người thực sự có thể kiểm soát
được hành vi giao kết và thực hiện hợp đồng. Được coi là có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ khi bên mua bảo hiểm từ đủ mười tám tuổi trở lên, không mắc các bệnh
làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức. Tuy nhiên, pháp luật một số quốc gia
cho phép người chưa thành niên ở độ tuổi nhất định được mua bảo hiểm nhưng phải
có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp, nếu như người này chứng
minh được mình có khả năng tài chính để thực hiện việc này [1].
Thứ hai, bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm (hay
bên mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm). Quyền lợi có thể được bảo hiểm được
hiểu là những lợi ích của bên mua bảo hiểm về vật chất hoặc tinh thần đối với đối
tượng được bảo hiểm. Nếu đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại, thì đó được coi là tổn
thất thực sự của bên mua bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm phải thỏa mãn
các điều kiện sau đây:
Đầu tiên, quyền lợi có thể được bảo hiểm phải thực sự tồn tại tại thời điểm
giao kết hợp đồng. Những quyền lợi đã chấm dứt không được coi là quyền lợi có
thể được bảo hiểm vì khi đó, bên mua bảo hiểm khơng thể có thiệt hại gì. Ví dụ: Vợ

20


×