Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

CHỦ đề văn học dân GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.51 KB, 28 trang )

CHỦ ĐỀ VĂN HỌC DÂN GIAN

PHẦN 1/ Giá trị nội dung và nghệ thuật
của văn học dân gian
Nội dung:
I. Giá trị cơ bản của văn học dân gian.
1. Giá trị nợi dung.
2. Giá trị nghệ tḥt.
II. Vai trị của văn học dân gian.
1. Vai trò và tác dụng trong đời sống tinh thần của xã hợi.
2. Vai trị, tác dụng trong nền văn học dân tộc.
III. Một số lưu ý về phương pháp đọc – hiểu văn học dân gian.
IV. Ảnh hưởng của Văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam.


o
o

o
o



Giá trị nội dung và nghệ thuật của Văn học dân gian Việt
Nam.
I. Giá trị cơ bản của văn học dân gian.
1. Giá trị nội dung.


Phản ánh chân thực cuộc sống lao động, chiến đấu để dựng nước và giữ nước của dân tộc.




Thể hiện truyền thống dân chủ và tinh thần nhân văn của nhân dân.



Bộc lộ đời sống tâm hồn phong phú, tinh tế và sâu sắc của nhân dân (yêu đời, lạc quan, yêu
cái thiện, cái đẹp trong cuộc sống, căm ghét cái xấu, sự độc ác, sống tình nghĩa, thuỷ chung,
…).



Tổng kết những tri thức, kinh nghiệm của nhân dân về mọi lĩnh vực trong mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.

2. Giá trị nghệ thuật.


Xây dựng được những mẫu hình nhân vật đẹp, tiêu biểu cho truyền thống quí báu của dân
tộc.



Văn học dân gian là nơi hình thành nên những thể loại văn học cơ bản và tiêu biểu của dân
tộc do nhân dân lao động sáng tạo nên. Văn học dân gian còn là kho lưu giữ những thành
tựu nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc mà các thế hệ đời sau cần học tập và phát huy.

II. Vai trò của văn học dân gian.
1. Vai trò và tác dụng trong đời sống tinh thần của xã hội.
– Văn học dân gian nêu cao những bài học về phẩm chất tinh thần, đạo đức, truyền thống tốt đẹp

của dân tộc: tinh thần nhân đạo, lòng lạc quan, ý chí đấu tranh bền bỉ để giải phóng con người khỏi
bất công, ý chí độc lập, tự cường, niềm tin bất diệt vào cái thiện,…


– Văn học dân gian góp phần quan trọng bồi dưỡng cho con người những tình cảm tốt đẹp, cách
nghĩ, lối sống tích cực và lành mạnh.

2. Vai trò, tác dụng trong nền văn học dân tộc.
– Nhiều tác phẩm văn học dân gian đã trở thành những mẫu mực về nghệ thuật của thời đại đã qua
mà các nhà văn cần học tập để sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị.
– Văn học dân gian mãi mãi là ngọn nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết về các phương
diện đề tài, thể loại, văn liệu,…

III. Một số lưu ý về phương pháp đọc – hiểu văn học dân gian.
Để hiểu đúng, văn bản văn học dân gian, chúng ta cần chú ý một số vấn đề sau :
– Nắm vững đặc trưng của thể loại, bởi lẽ không một nét độc đáo nào của một tác phẩm văn học
dân gian cụ thể lại vượt ra khỏi những đặc trưng cơ bản của thể loại. Cần lấy những đặc trưng
chung Về thể loại làm căn cứ để đọc hiểu những tác phẩm cụ thể.
– Muốn đọc hiểu chính xác một tác phẩm văn học dân gian, cần đặt nó vào trong hệ thống những
văn bản tương quan, thích ứng (về đề tài, thể loại, cách diễn đạt)
– Trong quá trình hình thành, biến đổi, lưu truyền, tác phẩm văn học dân gian luôn gắn bó mật thiết
và phục vụ trực tiếp cho các hình thức sinh hoạt cộng đồng khác nhau (gia đình, xã hội, tôn giáo, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán, lao động, vui chơi, ca hát, lễ hội,…) của nhân dân. Bởi thế, để đọc
hiểu chính xác và sâu sắc ý nghĩa tác phẩm, cần đặt nó trong mối quan hệ với các hình thức sinh
hoạt cộng đồng.

IV. Ảnh hưởng của Văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam.
Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam, giáo trình
Văn học dân gian nhận định: “Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn
học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa

các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là
nguồn cảm hứng, là thi liệu, văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc
(Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Nguyễn Bính,
Hồ Chí Minh, Nguyễn Duy….) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác
phẩm văn chương ưu tú”.
Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian và
văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Văn học dân gian chính là
nền tảng của văn học viết và có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của văn học viết, là
nguồn cảm hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu và cảm hứng sáng tạo cho văn học viết.
– Về phương diện nội dung: Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại những
quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngồi ra, nó cịn cung cấp
những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng về sự hình thành nhân cách con
người. Nó bảo tồn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước,
tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương,… Biểu hiện rõ nhất là ở đề tài, nguồn


cảm hứng, tư tưởng nhân ái, tình cảm lạc quan, yêu đời, tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình yêu
con người,…
+ Đề tài tiêu biểu trong văn học dân gian: Số phận người phụ nữ, thân phận người lao động nói
chung, tình yêu đôi lứa, những kinh nghiệm sống quý báu, đặc biệt ngợi ca tình cảm gắn bó với quê
hương, đất nước,…
+ Nguồn cảm hứng : Văn học dân gian thường lấy nguồn cảm hứng từ thiên nhiên, cuộc sống xã
hội, lao động sản xuất,… Đặc biệt, ca dao Việt Nam đã đưa ra những tiêu chí về vẻ đẹp người con
gái truyền thống.
+ Tư tưởng nhân ái : Văn học dân gian đề cao tình cảm yêu thương con người nhất là thân phận
người phụ nữ, người lao động cùng khổ,…
– Về phương diện nghệ thuật: Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn một kho tàng các truyền
thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương pháp xây dựng nhân
vật, hình ảnh, cách nói, các biện pháp tu từ, thể loại, chất liệu dân gian,…
+ Ngôn ngữ : ngôn ngữ văn học dân gian mang đậm tính triết lí, giàu chất thơ song hình thức biểu

đạt lại gần gũi, dễ hiểu. Người dân lao động thường dùng những cách nói trong giao tiếp hàng ngày
để diễn đạt tư tưởng, tình cảm cũng như đúc kết kinh nghiệm sống.
VD : Truyền thống lấy lá trầu để làm ngôn ngữ bày tỏ tình cảm :
Anh thương em trầu hết lá lươn
Bắc thang lên hái ngọn trầu vàng
Trầu em cao số muộn màng anh thương
Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?
Cau xanh nhá với trầu vàng
,Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.”
→ Tiếp nối truyền thống ấy, Hồ Xuân Hương cũng sử dụng ngôn ngữ trầu cau để bày tỏ khát vọng
hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến :
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hơi” (Mời trầu)
Hình ảnh : Trong văn học dân gian phần lớn là cảnh thiên nhiên hay sinh hoạt rất quen thuộc với
người bình dân. Trong cuộc sống hàng ngày, người dân lao động rất thân thuộc với mái đình, cây
đa, bến nước,… vì vậy, trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ quê hương,… người lao động đã tái
hiện lại những không gian thân thuộc ấy trong lời ca của mình :
“Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ
Nhớ ai dãi nắng dầm sương// Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”.



dầm

tương


(Ca dao)
→ Rau muống, con thuyền,… cũng là những hình ảnh không thể thiếu trong thơ Nguyễn Trãi
“…Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then…”
(Thuật hứng 24 – Nguyễn Trãi)
+ Cách nói : Các hình thức lặp lại là đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu trong ca dao: lặp lại kết cấu, hình
ảnh, lặp lại dòng thơ mở đầu hoặc một từ, một cụm từ,…
Ví dụ :
Vì thuyền, vì bến, vì sông
Vì hoa nên bận cánh ong đi về.
Cịn non cịn nước cịn trời
Cịn cơ bán rượu còn người say sưa.
Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
(Ca dao)
Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) cũng có những câu thơ có kiểu dùng từ tương ứng:
“Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”
“Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay”.
Các biện pháp tu từ : Văn học dân gian thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ,
nhân hoá,… để giúp hình dung một cách cụ thể thông qua những hình ảnh quen thuộc như : hạt
mưa, tấm lụa đào, cái giếng, cây đa, bến nước, con thuyền, con đò,…
Trong ca dao :
“Thuyền về có nhớ bến chăng ?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
“Trúc dặn dò mai, bến dặn dò thuyền


Nghe ai quyến rũ bỏ lời nguyền của anh
Bến dặn dị thuyền, trúc dặn dị mai
Nghe ai quyến rũ, khơng vãng lai chốn này”.

“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình vào đâu”.
→ “Thuyền – bến” còn là nguồn cảm hứng của các nhà thơ giúp họ sáng tác nên những tác phẩm
mang đậm tính truyền thống như trong thơ Xuân Diệu :
“Tình giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt”.
Và thơ Hàn Mặc Tử :
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”.
Hay với sự cách tân của Chế Lan Viên “thuyền – bến” lại là :
“Buổi sáng em xa chi
Cho chiều, mùa thu đến
Để lòng anh ghé bến
Nghe thuyền em ra đi”.
+ Thể loại : Hơn 90% số bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Trong ca dao còn
có thể thơ khác, như : song thất lục bát, vãn bốn, vãn năm. Nguyễn Du đã rất thành công trong việc
sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc với tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngồi, cịn có một số tác phẩm văn
học viết cũng được sử dụng thể thơ dân tộc này : “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu), “Lỡ bước
sang ngang” (Nguyễn Bính),….
+ Chất liệu dân gian : Các nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian vào tác phẩm của
mình :
VD: Câu thơ :
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng


Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Nguyễn Trãi)
→ Gợi liên tưởng tới 2 câu tục ngữ : “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Miệng ăn núi lở”.
Câu thơ :
“Gần son thì đỏ, mực thì đen

Sáng, biết nhờ ơn thuở bóng đèn”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
→ làm chúng ta nhớ đến câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết luôn có mối quan
hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng
cho văn học viết tiếp thu. Trái lại, văn học viết có tác động trở lại làm văn học dân gian thêm phong
phú, đa dạng.

Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong ca dao
Nội dung:

o


o





o
o
o



A. Khi còn con gái.
1. Vẻ đẹp ở hình thức.
a. Vẻ đẹp nhan sắc:
b. Vẻ đẹp ở cách ăn mặc:

2. Vẻ đẹp trong tâm hồn.
a. Nết na, thùy mị:
b. Lòng hiếu hạnh đối với cha mẹ:
c. Tình cảm đối với đàn em:
d. Tình yêu nam nữ:
B. Khi đã lập gia đình.
1. Bổn phận đối với gia đình nhà chồng.
2. Bổn phận đối với con, thiên chức làm me..
3. Bổn phận đối với chồng, thiên chức làm vợ.
a. Nếu chồng nàng là con nhà nông, nàng vui vẻ cùng chàng
chia phần công tác,từ chuyện đồng áng:
b. Nếu chồng nàng là học trò.

Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong ca dao
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao có vẻ đẹp thanh tao, duyên dáng, một nét đẹp chân
thực và hết sức gần gũi. Vẻ đẹp đó được thể hiện rõ trên nhiều phương diện:

A. Khi còn con gái.
1. Vẻ đẹp ở hình thức.


a. Vẻ đẹp nhan sắc:
Khi còn con gái, người thiếu nữ Việt Nam sống êm đềm dưới gối cha mẹ để chờ ngày xuất giá vu
qui. Đây là thời (gian) kỳ thơ mộng nhất, nàng được cha mẹ yêu thương rất mực và dạy bảo,
khuyên răn đủ điều về nữ công, nữ hạnh để trở thành một người thiếu nữ hồn tồn: Phận gái tứ
đức vẹn tuyền / Cơng dung ngơn hạnh là tiên phàm trần! Lại nhờ có nhan sắc, nàng được
nhiều chàng thanh niên để ý săn đón, yêu thương :
Vì cam cho qt đèo bồng/Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương
Hay tiến xa hơn nữa :
Vào vườn hái quả cau non/Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.

Mỗi người thiếu nữ đều có một cái duyên, một sự hấp dẫn riêng để làm say đắm lòng người khác
pháị. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngồi những điều vừa được ca dao
truyền tụng: Có nàng đẹp nhờ mái tóc rậm dài bồng bềnh, và đơi chân mày cong vòng như viền
trăng non:
Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây gợn sóng đẹp duyên tơ hồng.
Hay có cặp lông mày thanh mướt như lá liễu và khuôn mắt thuôn dài như dáng lá rau răm :
Những người con mắt lá răm
Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
Có nàng đẹp nhờ hai con mắt to trịn đen láy, trông hiền lành, ngây thơ như mắt chim bồ câu:
Cổ tay em trắng như thể gương tàu
Đôi mắt bồ câu làm cho phải khổ.
Hay sáng ngời, lấp lánh như ánh sao khuya :
Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi
Mắt người lấp lánh như sao trên trời.
Có nàng lại đẹp nhờ hai má có hai lúm đồng tiền, mỗi khi nói nói, cười cười tạo nên một cái duyên
hấp dẫn là thường :
Hai má có hai đồng tiền


Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng.
Hay vì có nước da trắng nõn, đơi gị má đỏ au, đơi mơi hồng đào, khiến nét mặt trở nên tươi thắm
vô ngần, nhiều cậu vừa thoáng thấy vừa phải chú ý rồi đem lịng trộm dấu, thầm u:
Ai xui má đỏ ,mơi hồng
Để anh nhác thấy đem lòng thương yêụ.
và :
Nước trong ai chẳng rửa chân
Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.
Tuy nhiên nụ cười vẫn là vẻ đẹp quyến rũ nhất của người thiếu nữ, một nụ cười tươi gây nên bao
nỗi nhớ, niềm thương :

Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
,
Trăm quan mua lấy miệng cười
Nghìn quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
Sau hết phải kể tới vóc dáng. Người con gái đẹp là người có thân hình thỏn thả, thanh tú:
Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chng kêu khẽ đánh bên thành cũng kêụ.
Người thanh tất nhiên không phải là người béo, cũng khơng phải là người gầy, vì người đẹp phải là
người có da, có thịt, cổ tay phải trịn lẳn, mềm mại kia:
Gối chăn gối chiếc không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
Đã thế, người đẹp cịn phải có eo thon, tạo nên sự cân đối và làm nổi bật được những đường nét
yêu kiều cho vóc dáng:


Những người thắt đáy lưng on
Vừa khéo chiều chồng, lại khéo ni con.
Tóm lại, người thiếu nữ Việt Nam xưa được kể là đẹp phải thuộc vào hạng những người có nước
da trắng trẻo hồng hào, mái tóc rậm dài tha thướt, nét mặt tươi thắm hồn nhiên, dáng vóc thanh tú
cân đối mềm mạị. Người đẹp như thế thì đứng đâu cũng đẹp :
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Đã vậy, theo bản tính tự nhiên, người thiếu nữ Việt Nam xưa cũng biết cách làm tăng thêm vẻ đẹp
sẵn có của mình. Nàng được bác mẹ dạy “cái răng cái tóc, một góc con người” nên hằng cố gắng
trau chuốt. Nàng cịn biết “Đàn bà tốt tóc thì sang”, mà muốn :
Tốt tóc thì cỏ mần trầu
Sạch ghét sạch gầu bồ kết với chanh.
Nàng cũng biết giắt hoa trên đầu để ướp hương cho tóc và làm cho suối tóc thêm vẻ mỹ miều:
Tóc em dài em cài bơng hoa lý

Miệng em cười có ý anh thương.
Cịn đây là nụ cười, ai cũng biết nụ cười, khóe mắt la hai yếu tố tạo nên vẻ linh động, duyên dáng
nhất trên khuôn mặt người đàn bà. Và nụ cười chính là lợi khí đầu tiên của người thiếu nữ để chinh
phục tha nhân. Thế nên, ngay khi vừa mới dậy thì, người thiếu nữ vừa sớm biết tạo cho mình một
cái duyên bằng nụ cười :
Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng
Thương ai chúm chím cười dun một mình.
Và lạ chưa, vừa nhìn qua nụ cười, người ta vừa đoán ngay nàng là gái chưa chồng :
Răng đen nhưng nhức hạt dưa
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng.
Vì ý thức được rằng, người chung quanh sẽ đánh giá sự giáo dục gia đình, và đốn biết được tình ý
của mình qua nụ cười nên nàng rất giữ ý tứ. Người con gái có ý tứ không được cười toét miệng hay


cười thành tiếng, mà chỉ cười nụ, chúm chím đầu mơi như nụ hoa ngâu nhỏ xíu, khum khum hàm
tiếu :
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Và cuối cùng là con mắt, người đông phương chúng ta không nên phải đọc sách Tây phương mới
biết “con mắt là cửa sổ của linh hồn”. Chẳng thế, các cụ ta xưa vừa biết nhìn vào mắt nhau để đốn
biết tình ý. Sau giây phút thăm dị “Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa”, khi vừa chịu ai rồi thì từ
đấy người con trai mới bắt đầu mơ mộng, thơi thì thương ai từ cái tóc thương đi:
Một
thương
tóc
bỏ
Hai
thương
ăn
nói

mặn
Ba
thương

lúm
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua….



đi

đồng


dun
tiền

Chàng thương hơn nữa vì nàng cịn sống độc thân, chàng mới được phép ước ao, hy vọng. Nhưng
còn một điểm tối hậu, quyết định cả số mệnh cuộc tình của

b. Vẻ đẹp ở cách ăn mặc:
Bên cạnh sắc đẹp về thể chất, y trang cũng giúp nàng thêm phần lộng lẫỵ Trong bộ y phục của
người phụ nữ Việt Nam xưa, cái yếm che ngực lại được để ý hơn cả. Nó được để lộ ra sau lớp áo
cánh xẻ nách, có cổ thìa mổ trễ xuống gần lũng ngực và tấm áo dài không gài nút. Cả hai đều màu
nhã, do đó, nàng thường cố tình chọn màu yếm cho thật nổi:Khi thì yếm trắng tinh :
Hỡi cơ yếm trắng lịa lịa
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu.
Nàng cịn biết vấn khéo vành khăn, cố tình để lộ đi tóc dài như đi gà ,vắt vẻo trên đầu, lại phất
phơ, đong đưa theo bước đi, trông rất gợi cảm. Lối bỏ tóc đi gà này cũng vừa tạo nên cái mốt một
thời; “Một thương tóc bỏ đi gà” là vậy. Trời lạnh, trên đầu nàng chít khăn, khăn chít khum khum,

ôm lấy khuôn mặt trẻ trung mơn mởn, khác nào như cánh hoa sen :
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Ra đường, nàng đội thêm chiếc nón xứ Nghệ, có nơi cịn gọi là nón ba tầm hay nón thượng quai
thao, để làm duyên hơn là để che mưa nắng; chẳng thế mà khi đi xem hội ban đêm nàng cũng đội :
Chẻ tre đán nón – Kìa nón ba tầm
Anh cho em đội xem hội cái đêm hôm rằm,là rằm tháng giêng.


Tóm lại,quan niệm về dung nhan người đẹp xưa qua những câu ca dao như vừa trình bày, chúng ta
thấy không khác ngày nay bao nhiêu.Tuy nhiên,thời đại này, người ta thích răng trắng và chuộng
những nàng có vóc dáng cao lớn hơn. Đặc biệt về trang phục, quả vừa có nhiều đổi thaỵ. Nhưng
tựu trung, thời (gian) nào người phụ nữ cũng KẾT điểm trang và có ý ăn mặc diêm dúa đôi chút cho
tôn thêm cái nhan sắc của mình.

2. Vẻ đẹp trong tâm hồn.
a. Nết na, thùy mị:
Ngồi vẻ đẹp vật chất, người thiếu nữ xưa cịn đẹp trong ngôn ngữ, cử chỉ, nết ăn ở… Điểm này
phần lớn nhờ sự giáo dục mà có. Với giọng nói thanh tao nhỏ nhẹ, nàng dễ gây cảm tình với người
xung quanh :
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghẹ.
Hơn nữa, lời nói mặn mà đơn hậu mới thực sự thấm sâu vào tình cảm của đối phương, khiến lời nói
qua rồi mà âm hưởng vẫn còn dư vang mãi :
Điểu đậu vườn thi, thỏ lụy vườn trâm
Thương ai tiếng nói trăm năm vẫn còn.
Trong bài “Mười thương”, nếu chúng ta để ý, chúng ta sẽ nhận thấy có hai lần nhắc đến giá trị lời
ăn, cách nói của người đẹp :
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh

Và trong bất cứ trường hợp nào, người thiếu nữ cũng tỏ ra lễ độ ơn hịa, khiến dù bị từ chối, đối
phương cũng khó lịng mà giận :
Thưa rằng bác mẹ tui răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu ngườị

b. Lịng hiếu hạnh đối với cha mẹ:
Nàng khơng những là người thiếu nữ nết na thùy mị khi iếp xúc với tất cả người xung quanh, mà
nhất là đối với gia đình, nàng là người con rất mực hiếu thảo :
Mẹ cha trượng quá ngọc vàng


Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn.
Nàng liên tưởng đến một ngày mai phải từ giã cha mẹ đi lấy chồng, ở nhà biết ai sớm hôm đỡ đần
hai thân :
Xiết bao bú mớm bù trì
Đến khi con lớn con đi lấy chồng
Có con đỡ gánh, đỡ gồng
Con đi lấy chồng vai gánh, tay mang.
Trong cảnh ấy, điều e sợ nhất của nàng là khi cha mẹ già yếu bệnh hoạn, lấy ai thay nàng chăm lo,
săn sóc. Thế nên bây giờ còn sống dưới gối cha mẹ, nàng hết lòng phụng dưỡng. Nàng e sợ từng
miếng ăn thức uống :
Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già.
Cả những công chuyện nhỏ nhặt nàng cũng cố ý làm vui lòng hai thân:
Cau non khéo bổ cũng dầy
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm.
Đôi khi nhà quá nghèo, không đủ ăn, nàng thường nhường cơm cho mẹ
Đói lịng ăn đọt chà là
Để cơm ni mẹ, mẹ già yếu răng.


c. Tình cảm đối với đàn em:
Đối với đàn em, nàng là một người chị hiền hòa, đầy lòng thương yêu đùm bọc. Nàng thay cha mẹ
chăm nom dạy dỗ các em:
Nàng ru em khi còn thơ dại:
Em tui khát sữa bú tay


Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.

d. Tình yêu nam nữ:
Ca dao chủ về tình cảm, mà trong đời sống tâm tình của con người thì cịn gì đẹp và thơ mộng hơn
tình yêu nam nữ ? Vì thế những bài nói về tình u vừa chiếm một số lượng rất lớn trong kho tàng
ca dao rất phong phú của dân tộc tạ Có thể nói, tình u vừa hiện hữu từ khi có sự hiện hữu của
lồi người trong trời đất bao la và miên trường nàỵ. Và ca dao vừa phản ảnh tâm hồn lãng mạn và
tình cảm yêu đương dào dạt, sâu đậm của những người tình đầu tiên, cũng là những người tình
mn thuở của dân tộc. Những câu ca dao ấy tưởng chừng mộc mạc đơn sơ, nhưng có biết đâu
vừa vơ tình chứa đựng cả một triết lý về tình yêu bất tuyệt cú của loài người :
Đố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng?
Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khun gió, gió đừng rung câỵ
Tình u dằng dặc như sông nước, cao rộng lớn như mây trời, mênh mông như đồng lúa và hằng
hà sa số như lá rừng rơi, thử hỏi giáo lý nào, quyền lực nào có thể hủy diệt được ? Đó chính là lý do
dù sống dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chịu ảnh hưởng nền giáo dục khe khắt của Nho giáo,
người tình nữ trong ca dao Việt Nam vẫn khơng thơi mơ mộng. Và tình u của các nàng tuy có e
ấp nhưng vẫn khơng giấu được vẻ nồng nàn tha thiết. Quả thế, người phụ nữ Việt Nam với bản tính
đa cảm và lãng mạn nên trong những ngày cịn con gái thơ mộng đó, bảo sao nàng không hằng mơ
ước tới cảnh sống nên thơ :
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách bên nàng quay tợ

Tuy vậy, tình cảm của nàng lúc này khơng sơi nổi bồng bột mà luôn luôn đắn đo cân nhắc. Nàng
nhớ lời cha mẹ thường dặn dò về chuyện chọn bạn trăm năm :
Dặn con con có nghe cho
Chọn người qn tử, đói no cũng đành.
Ngay cả những cơ gái sống trong gia đình cùng kiệt hèn, tầm thường cũng ước ao lấy được người
chồng có dăm ba chữ trong bụng, hơn là người giầu có vơ học:
Chẳng tham vựa lúa anh đầy


Tham dăm ba chữ cho tày thế gian.
Nhưng sống trong xã hội theo nho giáo phong kiến xưa, sự tự do luyến ái, tự do hôn nhân không
được chấp nhận, lại thêm bản tính của người con gái nhút nhát e thẹn nên dù trong lòng yêu ai:
Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết yêu chàng, cha mẹ nào haỵ.
Nàng vẫn phải giữ mình trong lễ giáo, chờ đợi cha mẹ quyết định cuộc hơn phối của mình. Thế nên,
nàng chỉ biết chiều chiều trong những lúc thư nhàn, âm thầm nhớ ai, cùng ôn lại những kỷ niệm
trong ngày tao ngộ :
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vaị
Trong khi làm việc, chợt nhớ đến chàng thì nàng khơng khỏi ngừng thơi mơ mộng:  Đêm khuya
dệt cửi tơ vàng. Và cũng vì sợ cha mẹ đốn biết tinh ý đơi bên nên chàng và nàng thỉnh thoảng
mới dám liếc nhau :
Yêu nhau con mắt liếc qua
Sợ chúng bạn biết, sợ cha mẹ ngờ.
Lúc chưa chọn được người yêu thì nàng băn khoăn, lo lắng; khi chọn được rồi thì tình yêu của nàng
rất mực lãng mạn, tha thiết. Nàng những ước mong được gặp ai ln :
Ước gì sơng hẹp một gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi
Trong những ngày tháng yêu đương thơ mộng đó, khi được dịp gần gũi bên người tình, nàng săn
sóc chàng một cách rất tình tứ :

Thương anh tha thiết, thiết tha
Áo em hai vạt trải ra anh ngồi.

B. Khi đã lập gia đình.
Khao khát là thế, chờ đợi là thế mà khi xuất giá vu qui, người thiếu nữ phải rời xa cha mẹ, rời xa
mái nhà thân yêu, vừa không khỏi ngậm ngùi lưu luyến :


Ra
đi
ngó
Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.

trước

ngó

sau

Nhưng :
Thuyền
phải
theo
lái,
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng the

gái

phải


theo

chồng

1. Bổn phận đối với gia đình nhà chồng.
Được vuốt ve tự ái, được khích lệ bởi tình yêu thương, người thiếu phụ nhất định sẽ đủ sức chịu
đựng mà vượt qua tất cả khó khăn trong cảnh làm dâu, thực hiện được trọn vẹn bổn phận của
người đàn bà,  “Có chồng phải gánh giang san nhà chồng”.
Ngoài bổn phận thay chồng phụng dưỡng cha mẹ chồng :
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Mẹ già là mẹ già anh
Em vơ bảo dưỡng cá canh cho thường.
Nàng cịn phải có ý tứ, giữ gìn từng lời ăn tiếng nói với tất cả người xung quanh :
Làm dâu khổ lắm ai ơi
Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.
Phải thức khuya dậy sớm coi sóc chuyện nhà :
Năm canh thì ngủ lấy ba
Hai canh coi sóc cửa nhà làm ăn.
Nếu may mắn được cha mẹ chồng là người hiền đức, biết điều, thấy nàng dâu đảm đang, nết na thì
cũng nể vì :
Hoa thơm ai chẳng muốn đeo
Người khơn ai nỡ nói nhau nặng lời.


Thì nàng sẽ được sống những ngày êm đềm, hạnh phúc trong gia đình nhà chồng. Trong trường
hợp này, ta sẽ khơng ngạc nhiên khi thấy nàng dâu vừa tìm thấy ở người mẹ chồng hiền đức bao
dung đó, một hương vị ngọt ngào đậm đà của tình mẫu tử :
Mẹ già như chuối ba hương
Như cơm nếp một như đường mía laụ

Chăm sóc hầu hạ cha mẹ chồng, nàng lại chạnh nghĩ đến cha mẹ mình:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Nhiều khi nhớ quá, nàng chẳng thiết ăn uống :
Gió đưa cây cửu lý hương
Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.
Từ ngày lấy chồng xa xứ, có muốn thăm hỏi cha mẹ cũng rất khó khăn. Nàng thương cha mẹ nàng
vừa khơng được hưởng cái hạnh phúc có con gái lấy chồng gần :

con

Có bát canh cần nó cũng đem cho

gả

chồng

gần

Để tỏ lịng báo đáp trong mn một, mỗi khi nghe tin ai sắp về quê mẹ , nàng vội vàng gửi gấm chút
q với tất cả tấm lịng hiếu kính ,xót xa :
Ai về tui gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầỵ

2. Bổn phận đối với con, thiên chức làm me..
Ngồi bổn phận đối với gia đình nhà chồng, người phụ nữ cịn có bổn phận đối với con, nói khác đi,
là bổn phận làm mẹ, một thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Từ khi con mới là thai nhi trong
bụng, cho đến lúc sinh ra đời, nàng vừa chịu bao nỗi vất vả :
Con mẹ có thương mẹ thay
Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau

Thuở con còn tấm bé, nàng phải thức khuya dậy sớm, chăm nom cho con từng miếng ăn, giấc ngủ :


Gió
mùa
thu
Năm canh chầy thức đủ năm canh.

mẹ

ru

con

ngủ

Nàng sung sướng theo dõi từng phát triển lớn khôn của con thơ :
Con ăn, con bú, con nơ
Con lẫy, con bị, con chững, con đi
Biết bao bú mớm bù trì…
Gặp cảnh nhà nghèo, mưa dột, nàng vội nhường chỗ khô ráo cho con : Bên ướt mẹ nằm, bên
ráo con lăn.. Nếu bị chồng phụ bạc, bỏ bê gia đình, nàng một mình vất vả nuôi con. Thân nàng
chẳng quản, chỉ thương cho con phải chịu thiếu thốn :
Nước non lận đận một mình
Thân cị lên thác xuống ghềnh bấy naỵ
Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn cho gầy cò con.
Người mẹ thương con đến thế, làm sao có thể bỏ con một mình mà bước đi bước nữa :
Trời mưa bong bóng bập bồng
Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai ?

Điều đó cho thấy, nàng khơng bước đi bước nữa, khơng phải vì cái danh hão “tiết hạnh khả phong”
mà chính vì lịng thương con vơ bờ, vơ bến của người me.. Lại những khi con đau ốm hay gặp hoạn
nạn thì lịng mẹ như nát, như tan :
Con chim trên rừng kêu thánh tha thánh thót
Mẹ thương con cắt ruột xẻ hai
Đối với con gái, nàng dậy dỗ rất kỹ về nữ công nữ hạnh, sửa soạn cho con trở thành người phụ nữ
hồn tồn sau này :
Gái thì giữ chuyện trong nhà


Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Ngoài ra ,con gái cũng nên phải biết :
Học buôn học bán cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười…
Đối với con trai, nàng khuyến khích con chăm chỉ học hành, mong có ngày tạo nên sự nghiệp:
Con ơi con học cho cần
Bút nghiên cha sắm, áo quần mẹ maỵ
Con ơi con học cho hay
Có cơng mài sắt có ngày nên kim
Và khơng qn nhắc nhở con, ăn ở sao cho ra người đạo nghĩa :
Ni con cho được vng trịn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối long.
Con ơi cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ kẻo luống cơng mẹ thầỵ
Tóm lại, trong bổn phận làm mẹ, vì quá thương con nàng vừa gánh chịu bao nỗi khổ cực, với niềm
mong ước duy nhất : con sẽ nên người !
Mẹ nuôi con bấy lâu rồi
Nuôi con cho đến ngày thành người mới nghẹ



Cơng trình ni con của các bậc làm cha làm mẹ to tát là thế. Song bởi lòng thương yêu con mà tự
nguyên hy sinh nên các người chẳng bao giờ kể lể công ơn
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngàỵ

3. Bổn phận đối với chồng, thiên chức làm vợ.
Ngay khi vừa bước chân về nhà chồng, cô dâu mới vừa tự nguyện đem tất cả thiện chí, tài đức của
mình để xây dựng hạnh phúc gia đình :
Nguyện với trăng già
Tơ hồng kết lại một nhà đầm ấm yên vuị
Việc đầu tiên, nàng bỏ bớt điểm trang, tỏ ra ta đây là gái vừa có chồng :
Có chồng bớt áo thay vai
Bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm.
Rồi sẵn sàng cùng chồng chia ngọt sẻ bùi, đồng lao cộng khổ :

a. Nếu chồng nàng là con nhà nông, nàng vui vẻ cùng chàng chia
phần công tác,từ chuyện đồng áng:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừạ
Đến chuyện bếp nước, quẩy cơm:
Trăng chưa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt, cho nàng quẩy cơm.

b. Nếu chồng nàng là học trò.
Sống trong một xã hội trọng văn học cử nghề như xã hội VN ta, nếu nàng lấy được người chồng là
học trò, đang theo đòi chuyện nghiên bút thì nàng vơ cùng hể hả; nàng quyết lịng ni chàng ăn
học cho đến thành tài :



Em thời (gian) canh cửi trong nhà
Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng.
Hiện tại, nàng đang được sống trong cảnh êm đềm, thơ mơng. Khi thì vợ chồng làm chuyện chung
bóng dưới đèn :

Em ngồi canh cửi trong khung
Anh đến ngồi học cùng chung một đèn.
Khi thì bên nhau dưới ánh trăng thanh :
Sáng trăng giải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ….
Qua những khúc ca dao ta có thể thấy được vẻ đẹp vẹn tồn và cuộc sống của người phụ nữ xưa.
Họ đã mượn ca dao để nói lên tiếng nói từ trong tâm khảm của mình. Bởi vậy hình ảnh của người
phụ nữ là hình ảnh đẹp nhất trong suy nghĩ của mỗi con người và mãi mãi về sau.

Tham khảo:
Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy dặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài
dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của lồi lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa,
điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vịi voi, cái nhìn dăm chiêu của mắt hươu, cái xúm
xít của đàn ơng, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến động của cơn gió, tính
nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, chất cứng rắn của ngọc kim cương,
vị ngọt ngào của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức trung trinh của chim uyên ương, đem
mọi thứ ấy hỗn hợp lại nặn thành người phụ nữ”.
Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống mn lồi. Hình tượng người phụ nữ là một trong những đề tài
lớn có sức hấp dẫn của Văn học thế giới. Trong Văn học Việt Nam, hình tượng người phụ nữ chứa
đựng nhiều vẻ đẹp kỳ diệu, đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trong ca dao Việt Nam. Có thể nói
rằng, ca dao đã làm trịn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những nỗi lịng của người phụ nữ bình
dân và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đau cũng như những vẻ đẹp tâm hồn
ngời sáng.
Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến lịng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với
bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người

con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song
thân:
“Công cha như núi Thái Sơn,


Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con”.
Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:
“Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trao mình”.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao hiện lên với nét đẹp thanh tao, duyên dáng, một nét
đẹp Á Đông đầy đức hạnh, chân thực, gần gũi. Hình ảnh đẹp ấy lẽ ra phải được nâng niu, trân
trọng, nhưng trái lại cuộc sống của người phụ nữ lúc bấy giờ trăm đắng, ngàn cay bởi chế độ phong
kiến thối nát.
Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong
kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ
mà họ phải gánh chịu. Khi cịn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công
của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:
“Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Phận cơ là gái được là bao nhiêu”
Hay:
“Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”
Đến khi trưởng thành họ là những thiếu nữ duyên dáng, đẹp cả hình thức bên ngồi lẫn tâm hồn
bên trong, nét đẹp của họ được ví như “hoa ngâu”, như “tấm lụa đào”:
“Nụ cười như thể hoa ngâu,



Cái khen đội đầu như thể hoa sen”.
Hay :
“Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh, em đứng một mình cũng xinh”
Họ ln phải rèn luyện để có những phẩm chất tốt đẹp, làm nên giá trị của con người. Đặc biệt quan
trọng với người phụ nữ là phải đạt đến “tứ đức”
“Phận gái tứ đức vẹn tuyền
Công, dung, ngôn, hạnh, giữ gìn chớ sai”.
Họ đẹp gần như tồn vẹn nhưng họ khơng có quyền bình đẳng, quyền lựa chọn hạnh phúc trăm
năm cho mình, cũng như quyền làm một con người đúng nghĩa. Khi đến tuổi cập kê thì hơn nhân
của họ là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, giá trị người con gái bị đem lên bàn cân vật chất:
“Mẹ em tham gạo, tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang”.
Hay:
“Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp, vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”.
Số phận của người phụ nữ trong xã hội còn bọt bèo, lênh đênh, vô định, họ không biết số phận của
mình rồi sẽ ra sao, đi đâu, về đâu khi mang theo mình một địa vị thấp bé, hèn mọn trong xã hội:
“Thân em như tấm lụa đào


Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”,
“Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”,
Hay:

“Thân em như chổi sau hè
Phịng khi mưa gió đi về chùi chân”.
Người phụ nữ suốt đời mang theo ba chữ “tòng”, hạnh phúc đối với họ thật quá mong manh, theo
chồng thì chết cũng làm ma nhà chồng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Tuy
cuộc sống bất công “Trai năm thê, bảy thiếp. Gái chính chun chỉ có một chồng” nhưng người phụ
nữ ln son sắt, thủy chung, một lòng một dạ yêu thương chồng.
“Trăng trịn chỉ một đêm rằm
Tình dun chỉ hẹn một lần mà thôi”,
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm, xơng hương mặc người”,
Hay:
“Có xấu cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người”
Họ luôn đồng cam, cộng khổ cùng chồng, luôn làm một người vợ hiền, chung thủy, dù chân trời, góc
bể, khó khăn cũng khơng sờn lịng:
“Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cũng cam”.
Biết bao người vợ không quản gian nan “ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương”, nuôi chồng ăn
học, công thành danh toại:
“Em thời canh cửi trong nhà


Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bỏ công đèn sách, lưu phương đời đời”,
Trong cuộc sống vợ chồng cũng có những lúc “cơm khơng lành, canh khơng ngọt” thì người phụ nữ
cũng ln biết cách ứng xử khôn khéo để cửa nhà yên vui:
“Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở hỏi anh giận gì
Thưa anh anh giận em chi

Muốn cưới vợ bé, em thì cưới cho”
Thái độ thật vui vẻ, hài hước, biết tự kiềm chế bản thân để giữ hịa khí trong gia đình ấy thật đáng
khâm phục:
“Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sơi nhỏ lửa, một đời khơng khê”.
Tình u đối với chồng thì son sắt như thế, cịn đối với đứa con yêu quý của mình thì tình mẫu tử
thật thiêng liêng, dành trọn những gì tốt đẹp nhất cho con:
“Nuôi con chẳng quản chi thân
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”.
Người phụ nữ là người mẹ, người vợ tuyệt vời với bao nhiêu tình yêu thương, sự hy sinh là thế
nhưng xã hội bất cơng có bao giờ thấu hết được nỗi lòng người phụ nữ. Họ khơng những chịu vất
vả về thể xác mà cịn bị tổn thương về tinh thần khi mà “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chun chỉ
có một chồng”, thân phận thấp bé, khơng có tiếng nói trong xã hội, bị chồng ruồng bỏ.
“Ngày nào anh bủng anh beo
Tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh


Bây giờ anh khỏe anh lành
Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tơi”,
Hay:
“Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ”.
Dưới chế độ phong kiến hủ tục lạc hậu người phụ nữ phải chịu cảnh làm vợ lẻ, chịu sự thiệt thịi,
khơng có quyền hưởng hạnh phúc, hạnh phúc đơn thuần đáng có được của một người vợ và cịn
chịu sự đối xử bất cơng của vợ lớn:
“Lấy chồng làm lẻ khổ thay
Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm khơng chuồng bị
Mong chồng chồng chẳng xuống cho

Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn”
Hay:
“Thân em làm lẻ chẳng nề
Có như chính thất ngồi lê giữa đường”.
Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý
mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:
“Đói lịng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”
“Chồng con là cái nợ nần


×