Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

MỞ đầu NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO HỌC SINH SINH VIÊN VỀ CHIẾN LƯỢC DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.7 KB, 62 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, sự chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch bằng
việc thực hiện chiến lược “diễn biễn hịa bình” (DBHB) đã và đang diễn ra
ngày càng phức tạp. Chúng thực hiện chiến lược “DBHB” với âm mưu, thủ
đoạn rất tinh vi, xảo quyệt để xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và
Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của chúng. Với âm
mưu xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, từ đó thiết lập một trật tự thế giới mới theo quan điểm dân chủ và
giá trị phương Tây luôn là mục tiêu chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch mà đứng đầu là đế quốc Mỹ. Để thực hiện âm
mưu đó, chúng đẩy mạnh chống phá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, tư tưởng - văn hóa, tơn giáo - dân tộc, quốc phịng an ninh và đối ngoại.
Đối với Việt Nam việc thực hiện “DBHB” trên lĩnh vực quốc phòng và an
ninh (QP&AN) là khâu then chốt trong âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch. Trong những năm qua, chúng tập trung xuyên
tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm QP&AN của Đảng, chủ trương chính
sách QP&AN của nhà nước ta. Chúng tìm mọi cách “phi chính trị hóa”
Qn đội và Cơng an, tun truyền chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, nhà
nước với Quân đội và Công an, gây mâu thuẫn trong nội bộ của lực lượng
vũ trang (LLVT). Trong khi nhân dân ta đang nỗ lực đẩy mạnh cơng cuộc
đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng cường QP&AN, đấu tranh
chống “DBHB” thì chúng lại tăng cường chống, phá bằng chiến lược
“DBHB”. Từ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng ta đã
xác định phương hướng và đưa ra các giải pháp phòng, chống chiến lược
“DBHB” trên tất cả các lĩnh vực để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng của nước ta, là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong việc thực hiện chiến lược mục
tiêu “ Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Đảng
và nhân dân ta vừa phải đấu tranh phòng, chống “DBHB” vừa phải ra sức
khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc


biệt là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đấu
tranh phịng, chống “DBHB” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính chất
sống cịn đối với chế độ XHCN và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của
nước ta. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh đó ta phải giành được thắng lợi hoàn
toàn để bảo vệ nền độc lập dân tộc. “Diễn biến hịa bình” nguy hiểm là vậy
nhưng vẫn còn rất nhiều người người dân Việt Nam và đặc biệt học sinh,
sinh viên Việt Nam rất mơ hồ, chưa thể hiểu hết về nó. Xuất phát từ lí do
1


trên, tơi quyết định lựa chọn đề tài: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên
trường Cao Đẳng Sư phạm Thái Bình về chiến lược “Diễn biến hịa bình”
để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Thơng qua q trình nghiên cứu để khái quát lên sự tác động nguy
hại của chiến lược “ Diễn biến hịa bình” đến đất nước Việt Nam.
- Đề ra một số giải pháp để học sinh, sinh viên phịng chống chiến
lược “ Diễn biến hịa bình” đạt kết quả cao.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Nhiệm vụ 2 : Chiến lược “Diễn biến hịa bình” chống phá các nước xã hội
chủ nghĩa
Nhiệm vụ 3:Thực trạng và một số giải pháp để giúp sinh viên trường CĐSP
Thái Bình nhận thức và phịng chống chiến lược “ Diễn biến hịa bình” đạt
kết quả cao.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp : duy vật lịch sử, phương pháp logic lịch
sử, phương pháp phân tích so sánh.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp kiến thức, khái

quát cụ thể lý thuyết những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp nghiên cứu, điều tra
- Phương pháp thống kê tư liệu: sử lý số liệu, phân tích tổng hợp
- Đối tượng nghiên cứu: Nhân thức của sinh viên trường Cao Đẳng Sư
phạm Thái Bình về chiến lược “Diễn biến hòa binh”
- Phạm vi nghiên cứu : Sinh viên khoa Giáo dục Mầm Non trường Cao
Đẳng Sư phạm Thái Bình
6. Đóng góp của đề tài
* Sản phẩm của đề tài
- Đóng góp 01 bản báo cáo khoa học
- Là tài liệu áp dụng vào công tác giảng dạy mơn Quốc phịng - an
ninh
2


* Phạm vi và địa chỉ ứng dụng của đề tài: sử dung cho giảng viên và
sinh viên trường CĐSPTB

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐÊ TÀI
1.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc
qua 30 năm đổi mới; đồng thời, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại, Đại hội XII
của Đảng kiên định và xác định những vấn đề cơ bản về bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, thể hiện sâu sắc tư duy mới về
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta.

Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu,
thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đại hội XII của Đảng
xác định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị,
trật tự, an tồn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và
Cơng an nhân dân là nòng cốt” 1. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo
cơ sở quan trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, tồn dân và tồn
qn ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an
ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ
“trọng yếu, thường xuyên”, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là phát
triển kinh tế, xây dựng đất nước. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh
tế, nhưng không coi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
là thứ yếu. Bởi, củng cố quốc phòng, an ninh là cơ sở trực tiếp tạo thuận lợi
cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; ngược lại, kinh tế phát triển, đất
nước mạnh lên sẽ là “phương thức hữu hiệu” để bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan
điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung, quan điểm của
Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là toàn diện, cả
phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống
nhất.
Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng,
an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế,
kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
4


nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế

độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc;
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an
tồn xã hội”. Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải bảo đảm
được lợi ích quốc gia, dân tộc khi nước ta tham gia hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; giữ vững mơi trường ổn
định, hịa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trên thế giới hợp tác với
Việt Nam. Các nội dung bảo vệ Tổ quốc quan hệ chặt chẽ biện chứng với
nhau trong chỉnh thể thống nhất; bảo vệ lĩnh vực này cũng có nghĩa là góp
phần bảo vệ lĩnh vực khác và ngược lại, khơng xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa
một lĩnh vực nào.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp; củng cố quốc phòng,
an ninh, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đồn kết tồn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng bảo vệ
Tổ quốc là toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang
nhân dân giữ vai trị nịng cốt. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: chính
trị, quân sự, kinh tế, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, đối ngoại; biểu hiện sức
mạnh vật chất, tinh thần của toàn bộ nhân dân trong nước và kiều bào Việt
Nam định cư ở nước ngồi ln hướng về Tổ quốc. Đó cịn là sự kết hợp chặt
chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Để phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, Đảng ta xác định:
tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, Cơng an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng,
binh chủng, lực lượng quan trọng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; phải “Tích cực, chủ

động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể,
khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống”. Quan điểm sức mạnh
tổng hợp và lực lượng toàn diện bảo vệ Tổ quốc, phản ánh sâu sắc tính chất
5


tồn dân, tồn diện của nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục khẳng định với nội
hàm sâu, rộng thêm.
Quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ, thống nhất trong mục tiêu
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, quốc phịng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; được thể hiện trong sự kết
hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận của nền quốc phịng tồn
dân với xây dựng lực lượng và thế trận của nền an ninh nhân dân. Đại hội XII
nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Mối quan hệ biện
chứng đó đặt trong tổng thể thống nhất và gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ đó phản ánh yêu cầu, nhiệm
vụ cơ bản của hai lĩnh vực hoạt động đặc thù nhằm mục tiêu bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Xây dựng thế trận và lực lượng của quốc phịng và an
ninh phải đảm bảo tồn diện, đồng bộ, quan hệ chặt chẽ, có chất lượng và
hiệu quả cao trên phạm vi toàn quốc, cũng như trong từng địa bàn, từng lĩnh
vực cụ thể.
Có kế sách phòng, chống các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ
xa; chủ động phòng ngừa, khắc phục các yếu tố tác động tiêu cực đến sự
nghiệp củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
trong tình hình mới.

Đây là kinh nghiệm quý, một phương thức giữ nước đặc sắc của dân
tộc, được Đảng ta kế thừa và phát huy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, quốc phịng và an ninh phải có
đủ sức mạnh để “ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa;
chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là
các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”, để đất nước “không bị động, bất
ngờ”; giữ vững môi trường hịa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho
bạn bè quốc tế trong hợp tác với Việt Nam. Đại hội XII chỉ rõ: phải “Chủ
động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi
các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an
ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an tồn thơng tin, an
6


ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo,
vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hịa bình, ổn định để
phát triển bền vững đất nước”6.
Quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn.
Đây là quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có tầm quan trọng
đặc biệt, là quan hệ cơ bản, chi phối, thẩm thấu vào các mối quan hệ khác;
được giải quyết trong sự gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ:
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển
văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, xây dựng, củng cố quốc phịng,
giữ vững an ninh quốc gia phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng Đảng và phát triển văn hóa. Trong xây dựng Đảng, phải đạt đến

mục đích là giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ
quốc phòng và an ninh. Trong phát triển văn hóa phải chú ý gia tăng sức
mạnh quốc phịng, an ninh, phục vụ cho xây dựng và phát huy các tiềm lực
quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực chính trị tinh thần. Mối quan hệ tác
động lẫn nhau đó cần phải được nhận thức thấu đáo và xử lý đúng trong thực
tiễn trên tất cả các lĩnh vực. Phải “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh
và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”. Việc giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải được thể hiện cụ thể
ở sự kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển; trong đó, chú trọng phát triển kinh tế, gắn với bảo đảm quốc
phòng - an ninh ở các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển,
đảo.
Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Để thực hiện thắng lợi mục
tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. Trong nhận thức lý luận cũng như trong tổ chức thực
tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin,
7


tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình, u cầu nhiệm vụ của cách mạng để
tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là cơ sở chắc chắn
nhất bảo đảm cho Tổ quốc được bảo vệ vững chắc trong bối cảnh có nhiều
biến động phức tạp. Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch, với âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang hịng làm cho
Qn đội và Cơng an mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng

chiến đấu, thì vấn đề tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc càng trở nên quan trọng, cấp bách hơn. Đây không chỉ là sự
trung thành với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng lực lượng vũ
trang kiểu mới của giai cấp công nhân, mà cịn là địi hỏi bức thiết từ tình
hình, nhiệm vụ của cách mạng nước ta thời kỳ mới. Để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trên, vấn đề then chốt là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, khơng ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta khẳng định trong Đại hội
XII là sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong điều kiện mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết
thực tiễn của Đảng, nhất là 30 năm đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vừa
qua. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.
1.1.2. Quan điểm của Đảng về chống “diễn biến hịa bình” qua các
kỳ đại hội
Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để nhận thức rõ âm mưu và
hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Điều này thể hiện rất rõ
trong các văn kiện đại hội của Đảng. Qua đó, xác định nhiệm vụ đấu tranh chống
“diễn biến hịa bình”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối
của Đảng là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu.
Năm 1994, hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ khóa VII lần đầu tiên xác
định “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch là một trong 4 nguy cơ của
Đảng. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “Phê phán và bác bỏ
những quan điểm sai trái, thù địch”, “uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những
quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào
8



chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng”. Đại hội IX của Đảng xác định phải
“Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch”.
Văn kiện Đại hội X của Đảng đặt nhiệm vụ trên với tinh thần quyết liệt
hơn khi xác định phải “Chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai
trái, bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan
“diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”. Tiếp tục tinh thần
của Đại hội X, Đại hội XI của Đảng một lần nữa khẳng định “Kiên quyết đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động “diễn biến hịa bình” của các thế lực
thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”.
Gần đây nhất, năm 2016, Đại hội XII yêu cầu “Tăng cường đấu tranh làm
thất bại mọi hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, chủ động
ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”. Cuối
năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó xác định sự suy thối về chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống là bước chuyển trực tiếp đến “diễn biến hịa bình”, làm
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Việc chỉ ra 27 biểu hiện suy
thối chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” giúp
cán bộ, đảng viên và nhân dân dễ dàng tự soi và soi rọi vào người khác. Qua đó
góp phần đấu tranh, phịng chống đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tránh
chung chung, nói sao cũng đúng nhưng cụ thể thì khơng chỉ ra được. Hệ quả là
thành tích của cá nhân, cịn khuyết điểm là của tập thể. Đây là một thực trạng
khiến sự vi phạm của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi, ảnh hưởng đến lịng tin của người dân vào đội ngũ cơng bộc của mình.
Đây cũng là điểm cơ bản mà các thế lực thù địch dựa vào để bơi nhọ, nói xấu chế

độ ta.
Bên cạnh đó, cịn khơng ít cấp ủy chính quyền, đồn thể, cán bộ, đảng viên
và nhân dân chưa nhận thức đúng tính chất nguy hiểm của âm mưu, hoạt động
“diễn biến hịa bình”. Cơng tác giáo dục lý tưởng cách mạng còn sáo mòn, kém
hiệu quả, dẫn đến khơng ít cán bộ, đảng viên chưa tích cực, chủ động tham gia
đấu tranh trên mặt trận này.
9


Thấm nhuần quan điểm của Đảng về chống “diễn biến hịa bình”, nhất là
trên tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII: Nhìn thẳng vào sự thật,
nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là
nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách
làm vũ khí lý luận sắc bén, qua hoạt động thực tiễn của bản thân trong công tác
và cuộc sống hằng ngày, góp phần làm thất bại âm mưu chống phá Đảng, Nhà
nước, chống phá chế độ, chống phá thành quả cách mạng là trách nhiệm hàng
đầu của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam
CHƯƠNG 2
CHIẾN LƯỢC DIỄN BIẾN CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ
CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. Khái niệm về chiến lược “Diễn biến hịa Bình”
Khái niệm về “ Diễn biến hịa bình” được thể hiện qua rất nhiều cụm
từ như: “chuyển hóa hịa bình” (peaceful change); “ Biến đổi hịa bình”
(peaccful transformaton); “ Cách mạng hịa bình” (pcaceful revolution),
“Cạnh tranh hịa bình” (peaccful competitison); “ Phương pháp hịa bình”
(peacegul means). Thậm chí, các thế lực thù địch cịn đưa ra khái niệm “ Bom
F”, chữ cái của chữ Food, tức là “ Thức ăn” trong tiếng Anh. Khi nói về “
Bom F”, Kitxinh giơ đã nói: “ Con đường bằng phẳng nhất để đi vào các nước
đang phát triển là đi qua cái dạ dày của họ”. mặc dù được gọi dưới nhiều tên
khắc nhau nhưng thuật ngữ “ DBHB” vẫn được sử dụng phổ biến nhất

“DBHB” theo cách hiểu chung nhất đó là chiến lược tấn cơng trên quy
mơ lớn tồn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch do Mĩ khởi
xướng với những ý tưởng ban đầu là từ cuối những năm 40, nhằm thủ tiêu xã
hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế trong điều kiện không thể chiến
thắng bằng biện pháp quân sự. Chiến lược “DBHB” được thông qua sử dụng
các phương thức tổng hợp, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt với tính chất phạm vi
mức độ khác nhau, kể cả biện pháp răn đe quân sự, diễn ra trên mọi lĩnh vực
mà kinh tế chính trị tư tưởng và nội bộ là mặt trận nóng bỏng, dân tộc, tơn
giáo là “ngịi nổ”. Các hoạt động này chủ yếu làm xuất hiện ngay trong long
các nước xã hội chủ nghĩa những nhân tố phản cách mạng và hỗ trợ, tiếp sức
cho các nhân tố này mạnh dần lên trở thành lực lượng chính trị đối trọng với
Đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa, từng bước làm suy giảm tiến tới
xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản; làm suy yếu và làm mất dần bản
sắc của chế độ xã hội chủ nghĩa; kết hợp và tác động từ bên ngoài tạo ra sự
10


vận động từ bên trong một cách toàn diện theo hướng tư bản chủ nghĩa từng
bước chuyển hóa theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chiến lược này lợi dụng
các đặc điểm trong môi trường quan hệ quốc tế, như sự đan xen và tương tác
giữa hợp tác và cạnh tranh, xu hướng quốc tế hóa, khu vực và đồng thời với
xu hướng đề cao chủ nghĩa dân tộc. Chúng lợi dụng vấn đề “tự do”, “dân
chủ”, “nhân quyền” để kích động quần chúng gây rối loạn xã hội. Chúng triệt
để khai thác những sơ hở, thiếu sót, sự chưa hồn chỉnh của đường lối chính
sách trong cải tổ và đổi mới; khoét sâu vào sai lầm trong tổ chức lãnh đạo và
trong công tác quản lý xã hội. Quá trình “ DBHB” là quá trình đấu tranh giữa
hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa diễn ở các nước xã hội
chủ nghĩa đang cải tổ, cải cách đổi mới, tức là xã hội đang trong quá trình
biến động, đang chưa nhiều yến tố mất ổn định. Tùy thuộc vào tương quan lực
lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, việc giải quyết tình thế chính trị

này khơng nhất thiết diễn ra dưới dạng chuyển hóa “ hịa bình” mà có thể xả
ra hỗn loạn chính trị - xã hội, thậm chí bạo loạn cách mạng, lật đổ chính
quyền, khơng loại trừ khả năng can thiệp vũ trang từ bên trong.
Tóm lại, “Diễn biến hồ bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị – xã hội của các
nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước không tuân
theo sự lãnh đạo của chúng từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự. Nội
dung chính của chiến lược “diễn biến hồ bình” là kẻ thù sử dụng mọi thủ
đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh…, để phá
hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa.
2.2. Khái niệm về chủ nghĩa đế quốc
Đế quốc thông thường là chỉ các quốc gia lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng
quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn hoặc chi phối được
nhiều quốc gia.
Chủ nghĩa đế quốc là chính sách mà qua đó các quốc gia hay các dân
tộc hùng mạnh tìm cách mở rộng và duy trì quyền kiểm sốt hoặc ảnh hưởng
đối với các quốc gia hay dân tộc yếu hơn.
Chủ nghĩa đế quốc đã xuất hiện từ thời cổ đại, từng tồn tại trong xã hội
chiếm hữu nô lệ (như chủ nghĩa đế quốc La Mã) hay sau đó là trong xã hội
phong kiến (như Chủ nghĩa đế quốc Mông – Nguyên). Tuy nhiên chủ nghĩa
đế quốc phát triển mạnh mẽ nhất trong thời đại bùng nổ chủ nghĩa tư bản ở
Châu Âu từ thế kỷ 15. Trong giai đoạn này, các cường quốc Châu Âu tiêu
biểu như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và tiếp theo đó là Mỹ và
11


Nhật Bản, đã đi xâm chiếm và thiết lập các thuộc địa ở Mỹ Latinh, Châu Phi
và Châu Á. Các cường quốc có các động cơ khác nhau trong việc theo đuổi
chủ nghĩa đế quốc, bao gồm các lý do về kinh tế, chính trị, ý thức hệ, hay tâm
lý – xã hội. Về kinh tế, các nước đế quốc tìm cách thống trị các quốc gia khác

nhằm mở rộng nền kinh tế, chiếm đoạt tài nguyên, bóc lột lao động, hoặc tìm
cách xuất khẩu các hàng hóa và tư bản dư thừa. Chủ nghĩa Marx được kế thừa
và phát triển bởi V.I. Lênin là học thuyết kinh tế chính trị nổi bật nhất chỉ rõ
mối liên hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Lênin trong tác phẩm
“Chủ nghĩa đế quốc: Giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” đã cho rằng
chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản. Ơng
cũng giải thích rằng các quốc gia Châu Âu thời kỳ thế kỷ 19 tìm cách xâm
chiếm, mở rộng thuộc địa là một điều tất yếu không thể tránh khỏi xuất phát
từ nhu cầu của các quốc gia này trong việc xuất khẩu thặng dư tư bản và hàng
hóa dư thừa, nhằm tránh các cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước. Tương tự,
các nhà Mác-xít cũng cho rằng sự bành trướng của Mỹ vào các nước Thế giới
thứ ba sau này là cũng nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế mang tính đế quốc
chủ nghĩa của người Mỹ.
Mặt khác, nhiều cường quốc cũng theo đuổi chủ nghĩa đế quốc vì mục
tiêu chính trị. Theo đó các nước đế quốc xâm chiếm lãnh thổ nhằm thỏa mãn
khát vọng quyền lực, nâng cao vị thế, tăng cường an ninh và giành lợi thế về
mặt ngoại giao đối với các quốc gia khác. Tiêu biểu như vào thế kỷ 19, chủ
nghĩa đế quốc Pháp được cho là nhằm phục vụ một mục tiêu quan trọng là
phục hồi danh dự cho nước Pháp sau thất bại nhục nhã của nước này trong
cuộc Chiến tranh Pháp – Phổ. Ngoài ra, về mặt văn hóa và ý thức hệ, các
nhà nghiên cứu cũng cho rằng các niềm tin về tơn giáo, văn hóa và chính trị
cũng đóng một vai trị quan trọng trong việc các cường quốc theo đuổi chủ
nghĩa đế quốc. Nước Anh khi đi xâm chiếm thuộc địa đã rêu rao rằng người
da trắng có sứ mệnh khai hóa văn minh cho các dân tộc lạc hậu. Thực tế, đi
cùng với các đội quân xâm chiếm thuộc địa thường là các nhà truyền giáo Cơ
đốc đi quảng bá tơn giáo mình khắp các vùng đất từ Châu Á cho tới Châu
Phi.Việc nước Đức thực hiện chính sách bành trướng lãnh thổ dưới thời Adolf
Hitler cũng xuất phát từ tư tưởng phân biệt chủng tộc cho rằng nước Đức có
nền văn hóa ưu việt và xứng đáng là dân tộc thượng đẳng, có quyền đứng trên
các dân tộc khác. Trong Chiến tranh Lạnh, việc Mỹ can thiệp vào các quốc

gia khác phục vụ cam kết “bảo vệ thế giới tự do” cũng là một ví dụ minh họa
12


cho việc theo đuổi chủ nghĩa đế quốc dựa trên các biện minh mang tính đạo
đức hay ý thức hệ.
Cuối cùng, các học thuyết về tâm lý – xã hội gắn liền với các tư
tưởng của Joseph Schumpeter cho rằng các quốc gia theo đuổi chủ nghĩa đế
quốc bắt nguồn từ việc các nhà nước này có xu hướng bành trướng vô giới
hạn thông qua bạo lực. Xu hướng này là sản phẩm của một dạng hành vi nhận
thức được thể chế hóa bởi các “tầng lớp chiến binh,” hay giới quân sự, ở các
nước đế quốc. Mặc dù các nhà nước tạo ra “tầng lớp chiến binh” nhằm phục
vụ nhu cầu quốc phịng chính đáng, tuy nhiên chính “tầng lớp chiến binh” lại
tìm cách dựa vào và khuếch trương chủ nghĩa đế quốc để duy trì sự tồn tại và
nâng cao quyền lực, ảnh hưởng của mình.
Kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa thực dân, một
hình thức của chủ nghĩa đế quốc, đã dần thối lui do làn sóng phi thực dân
hóa dâng cao ở các nước thuộc địa Thế giới thứ ba. Các cường quốc, đứng
đầu là Mỹ và Liên Xô, cơ bản đều phản đối chủ nghĩa thực dân và tuyên bố
bảo vệ quyền tự quyết của các dân tộc. Chính vì vậy, nhiều xứ thuộc địa ở
Châu Á và Châu Phi đã giành được độc lập, hình thành một loạt các quốc gia
non trẻ, đặc biệt là trong giai đoạn những năm 1950-1960. Mặc dù vậy, nhiều
xứ thuộc địa vẫn mong muốn tiếp tục nằm dưới sự bảo trợ của các cường
quốc mà khơng muốn giành độc lập hồn tồn, chủ yếu là vì lý do kinh tế. Ví
dụ như cho đến ngày nay Bermuda ở khu vực Caribê vẫn là một vùng đất nằm
dưới sự quản lý của Anh. Mặc dù chủ nghĩa đế quốc dưới hình thức xâm
chiếm, quản lý trực tiếp các thuộc địa khơng cịn tồn tại phổ biến, chủ nghĩa
đế quốc mới, một hình thức kiểm sốt và chi phối các quốc gia khác thơng
qua con đường kinh tế mà không cần cai trị trực tiếp, vẫn tiếp tục là một đặc
điểm của nền kinh tế chính trị quốc tế đương đại. Ví dụ, Mỹ được cho là có

ảnh hưởng to lớn đối với nhiều quốc gia thuộc Thế giới thứ ba nhờ sức mạnh
kinh tế vượt trội cũng như khả năng chi phối các thể chế kinh tế quốc tế chủ
chốt như Ngân hàng Thế giới (WB) hay Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Tương
tự, các cường quốc Châu Âu tiếp tục duy trì ảnh hưởng đáng kể về kinh tế và
chính trị đối với các thuộc địa cũ trước đây, như ở Châu Phi hay khu vực
Caribê.
2.3. Sự hình thành và phát triển của chiến lược “Diễn biến hịa
bình”

13


Chiến lược “Diễn biến hồ bình” đã ra đời, phát triển cùng với sự điều
chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược "Diễn
biến hồ bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn từ 1945 – 1980: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn
mạnh của Liên Xô sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cách
mạng thế giới phát triển nhanh chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược
toàn cầu: Ngăn chặn" sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược này do
Tổng thống Mỹ Tru man khởi xướng ngày 12 tháng 3 năm 1947, trong đó coi
trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây, can thiệp vũ trang, cùng với tiến
hành chiến tranh để "ngăn chặn " ảnh hưởng của Liên Xơ và các nước xã hội chủ
nghĩa.
Trước đó ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ken-man đại diện lâm thời của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Liên Xơ trình nên chính phủ Mĩ một bức điện
8000 từ về kế hoạch chống Liên Xơ tồn diện hơn bao gồm: Bao vây qn sự,
phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; thậm chí dùng vũ lực can thiệp. Cũng trong
thời gian này, giám đốc CIA ( cơ quan tình báo Mĩ ) tuyên bố: Mục tiêu là

phải reo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và phải bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí
thay giá trị của Liên Xơ bằng đồ rởm và tìm mọi cách ủng hộ và nâng đỡ
đám gọi là “ nghệ sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy, chủ nghĩa vô liêm sỉ,
phản bội vào Liên Xô. Tóm lại, mọi thứ vơ đạo đức. Từ đó chiến tranh tâm lí
chống Liên Xơ được nâng lên hàng quốc sách ở Mĩ, gọi là chiến tranh tâm lí
tổng lực.
Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác
San, tăng viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các
đảng cộng sản để phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa
cộng sản ở Tây Âu, hướng họ phụ thuộc vào Mĩ. Kế hoạch
Marshall (Marshall Plan) là một kế hoạch trọng yếu của Hoa Kỳ nhằm tái
thiết và thiết lập một nền móng vững chắc hơn cho các quốc gia Tây Âu, đẩy
lùi chủ nghĩa cộng sản sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Mang tên chính thức
"Kế hoạch phục hưng châu Âu" (European Recovery Program - ERP), nhưng
Kế hoạch Marshall thường được gọi theo tên của Ngoại trưởng Mỹ George
Marshall, người đã khởi xướng và ban hành kế hoạch. Kế hoạch Marshall là

14


thành quả lao động của các quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó ghi
nhận sự đóng góp đặc biệt của William L. Clayton và George F. Kennan.
Kế hoạch tái thiết được phát triển tại cuộc họp mặt của các quốc
gia Châu Âu ngày 12 tháng 7 năm 1947. Kế hoạch Marshall đề ra việc viện
trợ tương đương cho Liên Xô và đồng minh của họ, nhưng không được chấp
nhận. Kế hoạch được thực thi trong vòng 4 năm, kể từ tháng 7 năm 1947.
Trong thời gian đó, có khoảng 17 tỷ đô la Mỹ viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ
thuật để giúp khôi phục các quốc gia châu Âu tham gia Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế - OECD.[1] Nhiều quốc gia châu Âu đã nhận được viện trợ
trước khi có Kế hoạch Marshall, kể từ năm 1945, cùng với các điều kiện

chính trị kèm theo.
Kế hoạch Marshall cũng là một phần trong kế hoạch chính trị của Mỹ
nhằm tăng cường ảnh hưởng đối với các nước Đồng minh Tây Âu và chống
lại Liên Xô, cũng như để tạo thuận lợi cho việc kinh doanh của các Tập đoàn
xuyên quốc gia Mỹ tại Tây Âu. Để phục vụ mục đích này, Mỹ đã viện trợ
kinh tế cho cả chính quyền phát xít Tây Ban Nha, cũng như viện trợ chiến phí
cho thực dân Pháp, thực dân Hà Lan quay trở lại xâm chiếm Đông Nam Á.
Cho tới khi kết thúc dự án, nền kinh tế của các quốc gia nằm trong Kế hoạch,
ngoại trừ Tây Đức, đã phát triển vượt mức trước chiến tranh.
Viện trợ từ Kế hoạch Marshall được phân bổ cho các nước đại thể tính
trên đầu người. Một phần lớn số viện trợ được dành cho các cường quốc công
nghiệp lớn, vì các ý kiến đều cho rằng sự phục hồi của họ là điều kiện thiết
yếu cho sự tồn vong của châu Âu nói chung. Các quốc gia châu Âu
trong Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai được nhiều viện trợ
trên đầu người hơn một chút, còn các quốc gia Trung lập hoặc trong Phe
Trục được ít hơn. Bảng sau cho số lượng tiền và năm từ cuốn The Marshall
Plan Fifty Years Later.Khơng có số liệu chính xác về số lượng tiền, vì các nhà
nghiên cứu khơng nhất trí được liệu những khoản viện trợ nào trong khoảng
thời gian đó là một phần của Kế hoạch Marshall.
Trong hai năm 1949 - 1950 Mĩ đã chi 50 triệu đơ la cho hoạt động
chiến tranh tâm lí chống Liên Xô . Năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban châu Âu tự do
có đài phát thanh riêng. Tháng 7 năm 1947, khi đã trở về Oa-sinh-tơn giữ
chức Phó giám đốc học viện quốc phòng, chuyên trách về đối ngoại, Ken- nan
lại trình bầy những biện pháp bổ xung cho chiến lược "ngăn chặn": bên cạnh

15


việc tăng cường vũ lực và sẵn sàng sử dụng vũ lực, cần tăng cường viện trợ
cho các nước xung quang Liên Xô.

Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Tru-man ý tưởng "diễn
biến hồ bình " đã được bổ xung cho chiến lược tiến công quân sự của Mĩ
chống Liên Xô.
Từ năm 1953, Ai-Xen-Hao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử
nhiệm kỳ II đến năm 1961, chính phú Mĩ đã đề ra chiến lược quân sự "trả đũa
ồ ạt" Ai-Xen-Hao dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện
"ngăn chặn" chủ nghĩa cộng sản. Mĩ đã đưa quân đi khắp thế giới, can thiệp
vào nội bộ chính trị các nước trong thế giới thứ ba. Trong đó chúng coi chiến
trường Việt Nam là mục tiêu chính để phá hoại CNXH và phong trào đáu
tranh giải phóng dân tộc (GPDT).
Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ
trang” của Ken-man được tán dương và hưởng ứng, bổ xung bởi các học giả
của tập đoàn thống trị Mĩ, xuất hiện ý tưởng “hồ bình giải phóng” của
AlenDalet. Như vậy, ý tưởng “diễn biến hồ bình” được bổ xung và trở thành
biện pháp của chiến lược “Ngăn chặn” của đế quốc Mĩ.
Đến tháng 01/1961 Ken-nơ-đi thay Aixenhao và đã đưa ra chiến lược
"phản ứng linh hoạt" cùng chiến lược "hồ bình", thực hiện chính sách "mũi
tên và cành Ơliu"..Từ đây, "diễn biến hồ bình" đã bước đầu trở thành chiến
lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự.
Tháng 12/1963 Kennơ đi bị ám sát, phó tổng thống Giơn xơn thay thế,
kiêm nhiệm tới năm 1969, Giôn xơn thúc đẩy chậy đưa vũ trang, triệt để dùng
sức mạnh quân sự đi kèm với những hoạt động phá hoại bằng chính trị mà
điển hình là: các vụ bạo loạn ở CHDC Đức (1953), Ba lan, Hungary (1956)
Tiệp khắc (1968). Do lực lượng các nước XHCN trong đó có Liên bang Xơ
viết lớn mạnh, chúng lấy chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược
“trả đũa ồ ạt” và tìm kiếm những biện pháp mới đi song song cùng các hoạt
động quân sự hòng chống phá hệ thống XHCN.
Từ năm 1961 Mĩ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục
bộ” chúng đã dưa 50.000 quân Mĩ vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh cho
thất bại thảm. hại. Tháng 3/1968 Giôn iXơn buộc phải tuyên bố ngừng ném

bon Miền Bắc Việt Nam, Phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Pari, “chiến
lược phản ứng linh hoạt” bị phá sản.

16


Từ năm 1968 đến năm 1972 Nic xơn trúng cử tổng thống trong bối
cảnh so sánh lực lượng Mĩ - Xô đã thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến
lược đang ở thế cân bằng, thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam.
Nicxơn thực hiện chiến lược quân sự “răn đe thực tế” mà mục đích cơ bản là
ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng
XHCN đang diễn ra trên toàn thế giới.
Cũng trong thời gian này Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao "cây gậy
và củ cà rốt " tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân nhưng đã chủ trương
tăng cường tiếp xúc, hồ hỗn với các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành thẩm
thấu tư tưởng văn hoá, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong... thúc đẩy
tiến trình, “diễn biến hồ bình" đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Chính
Nícxơn đã nêu ra chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa là dùng đối thoại thay cho đối đầu. Đàm phán trên thế mạnh
là thủ đoạn của Nícxơn để thực hiện "diễn biến hồ bình"
Đến tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố "Mĩ sẽ
giành thắng lợi bằng hồ bình" và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và
lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Giai đoạn từ năm 1980 đến nay: Bước vào thập kỷ 80, chủ nghĩa Tư
bản đạt được ổn định và có bước phát triển. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm
vào khủng hoảng, thực hiện đường lối cải tổ, cải cách sai lầm, càng dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc hồn chỉnh
chiến lược " diễn biến hồ bình " và ráo riết thực hiện. Nhằm làm sụp đổ Liên
Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Có thể lấy năm 1988, Ních-Xơn xuất bản cuốn sách "1999, chiến thắng khơng

cần chiến tranh" làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược "diễn biến hồ bình"
Thất bại trong chiến lược sử dụng lực lượng quân sự mà điển
hình là Việt Nam - Trong nhiệm kỳ 2 (giữa những năm 80) của tổng thống Ri
gân, bắt đầu điều chỉnh chiến lược toàn cầu từ “răn đe thực tế bằng quân sự”
sang “chiến lược DBHB” đối với các nước XHCN mà khởi nguồn là chính
sách ngoại giao của cựu ngoại trưởng Mĩ Hen - Kit - xin - giơ và cơng cuộc
cải tổ chính trị của nguyên Tổng bí thư ĐCSLX M. C. Gobachov mà kết quả
của nó là sự tan rã của các nước XHCN ở đơng Âu và Liên Xơ, sự thối trào
của CNXH.

17


Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược
"Diễn biến hồ bình" để thực hiện âm mưu xố bỏ các nước xã hội chủ nghĩa
cịn lại. Các thế lực thù địch cho rằng, phải làm xói mịn tư tưởng, đạo đức và
niềm tin cộng sản của thế hệ trẻ để "tự diễn biến", tự suy yếu, dẫn đến sụp đổ,
tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước còn lại.
2.4. Chiến lược “Diễn biến hịa bình” chống phá cách mạng Việt
Nam
2.3.1. Âm mưu của chiến lược"Diễn biến hồ bình"đối với Việt Nam
Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một
trọng điểm trong chiến lược "Diễn biến hồ bình" chống chủ nghĩa xã hội. Từ
đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để xâm
lược và muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối
cùng đã bị thất bại hồn tồn. Sau khi sử dụng những địn tấn công bằng quân
sự để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng đã chuyển sang chiến
lược mới như "bao vây cấm vận kinh tế", "cô lập về ngoại giao" kết hợp với
"diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam. Lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ
năm 1975 - 1994 do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy
mạnh “diễn biến hồ bình” đối với Việt Nam.
Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của cơng cuộc đổi
mới tồn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thù địch lại tiếp tục điều
chỉnh thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ
"cấm vận kinh tế" và bình thường hố quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ
đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập như : "dính líu", "ngầm", "sâu,
hiểm" nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong
sử dụng chiến lược "diễn biến hồ bình" đối với Việt Nam là thực hiện âm
mưu xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lái
nước ta đi theo con đường chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế
quốc,... Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch khơng từ bỏ bất kì thủ
đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực phi vũ trang, bạo lực vũ trang, kinh
tế, chính trị, văn hố, xã hội,...Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
18


chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tinh vi, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết.
2.3.2. Thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hịa bình” các thế lực thù
địch sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam.
a.Thủ đoạn về kinh tế.
Chúng muốn chuyển hoá nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, từng bước làm mất vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế,

đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để đặt ra các điều kiện và
gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hố Việt Nam theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Cụ thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên
lĩnh vực kinh tế, chúng ta bắt gặp khơng ít luận điểm tìm cách xuyên tạc,
chống phá thể hiện trên nhiều góc độ, nội dung trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào
khu vực và thế giới. Có thể khái quát một số nội dung, thủ đoạn mà các thế
lực thù địch chống phá cách mạng nước ta trên lĩnh vực kinh tế như sau:
Một là, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận những tư tưởng kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm
kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một trong những âm mưu, thủ
đoạn hết sức thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong
chiến lược “diễn biến hịa bình” đối với nước ta. Để thực hiện âm mưu đó
chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình
sách, báo, phim ảnh, đào tạo cán bộ, giảng dạy kinh tế ở các trường đại học
do chun gia nước ngồi thực hiện, chúng tìm cách xun tạc, phê phán, đòi
xem xét lại những quan điểm, tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng với mục đích xóa
bỏ nền tảng tư tưởng kinh tế ở Việt Nam, chuyển hóa nền kinh tế phát triển
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chẳng hạn, để phủ nhận học thuyết kinh tế
mác - xít, chúng tìm mọi cách xuyên tạc và xóa bỏ học thuyết giá trị thặng dư
- “viên đá tảng” trong học thuyết kinh tế chính trị của C.Mác, chúng cho rằng,
dưới chủ nghĩa xã hội sản xuất hàng hóa cũng bóc lột giá trị thặng dư. Trên cơ
sở đó chúng tập trung cơng kích và phê phán mơ hình kinh tế, xun tạc bản
chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà ta đang xây dựng
và phát triển; rằng công hữu nghĩa là vô chủ, là không của ai, không hiệu quả,
19


là ngun nhân dẫn đến sự trì trệ, khó khăn và nảy sinh các hiện tượng tiêu

cực trong xã hội.
Hai là, thông qua các hoạt động viện trợ, đầu tư, liên doanh, liên kết
làm biến đổi dần cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta, trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, đây lại là thời cơ để chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch lợi dụng “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực kinh
tế, nhằm làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cụ thể: thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp, gây áp lực kinh tế, chính trị
địi Việt Nam phải tư nhân hóa nền kinh tế, hạn chế vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước, bởi theo chúng, kinh tế nhà nước là ung nhọt, là sân sau của
những “nhóm lợi ích” cấp cao, là những tổ mối đục khoét của cải đất nước, để
từ đó thúc đẩy khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường, tự do hóa thị trường theo hướng kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa
tư bản. Bằng các hoạt động đầu tư, viện trợ, đào tạo… các thế lực thù địch cố
tình tạo sự phát triển chênh lệch giữa các vùng, miền, các ngành kinh tế, sự
mất cân đối của nền kinh tế quốc dân, đồng thời đặt ra những điều kiện ràng
buộc về mặt chính trị gắn với gây sức ép về chính trị để từng bước can thiệp
nội bộ và tạo sự chuyển hoá theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Ba là, thực hiện phá hoại nền kinh tế nước ta bằng nhiều hình thức,
biện pháp vừa tinh vi, vừa trắng trợn trên các lĩnh vực. Chúng dùng đồng
tiền, vật chất mua chuộc làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, tạo ra
tâm lý hưởng thụ, lối sống thực dụng, từ đó làm mất uy tín đội ngũ cán bộ,
đảng viên, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Gần
đây chúng cịn thổi phồng, bóp méo thơng tin về những khó khăn của nền
kinh tế nước ta nhằm làm rối loạn thị trường và xã hội, hạ thấp uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế bằng việc tung tin thất thiệt về các cán cân kinh tế vĩ
mơ, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường chứng khốn; Lợi dụng vào chính
sách mở cửa của ta, thơng qua các hình thức như đi du lịch, tham quan, hội
thảo tại Việt Nam chúng thâm nhập nắm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội,
quốc phịng, an ninh của ta. Đặc biệt, chúng rất quan tâm đến vấn đề dân tộc,

tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Chúng gặp các đối tượng bất mãn,
chống đối, đi vào sâu trong buôn làng để tuyên truyền tôn giáo, xây dựng nhà
thờ, mua chuộc các già làng, dụ dỗ thanh niên dân tộc chạy ra nước ngoài.
Ngoài các thủ đoạn trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch còn dùng
20


tiền bạc, hàng hóa mua chuộc, lơi kéo, kích động một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số chống đối chính quyền. Các tổ chức người Việt phản động ở nước
ngồi được nhiều tổ chức chống đối Việt Nam ni dưỡng tìm cách gửi tiền,
hàng hóa về cho thân nhân, gia đình đồng thời tuyên truyền về đời sống sung
sướng ở các nước phương Tây. Điều này làm cho một bộ phận dân cư trong
nước không quan tâm làm ăn mà chỉ trơng chờ tiền gửi về từ nước ngồi, một
số người hy vọng sang các nước phương Tây để được sung sướng và khi có
điều kiện họ sẵn sàng ra đi, kể cả vượt biên trái phép.
b. Thủ đoạn về chính trị.
Phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin - nền tảng tư tưởng của Đảng ta; xuyên
tạc, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, những thành tựu của cách mạng và chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta.
Xóa bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là mục tiêu hàng đầu của Mỹ và các thế lực thù địch, nhằm làm mất phương
hướng, giảm sút ý chí chiến đấu, xa rời mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và
CNXH trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Kẻ thù nhận thức rất rõ
rằng, sở dĩ cách mạng Việt Nam vẫn đứng vững và tiếp tục phát triển đi lên bất
chấp mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt do chính chúng gây ra là do chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng sâu sắc trong
nhiều thế hệ người Việt Nam. Một trong những nguyên nhân làm cho CNXH ở
Liên Xô và Đông Âu tan rã nhanh chóng là do kẻ thù của CNXH đã thành công
trong việc gạt bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các thế hệ sau

này. Chính ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xơ (trước đây) đã từ bỏ những
ngun lý có tính ngun tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các thế lực thù địch tập trung mọi cố gắng để chứng minh cho “Tính lỗi
thời của học thuyết Mác - Lênin”. Chúng cho rằng: “hầu hết các nước ngày nay
đều bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ còn một vài nước “ngoan cố” như Trung
Quốc, Việt Nam là tôn thờ”. Gần đây, chúng tung ra luận điệu: “Việt Nam đang
bế tắc không chỉ về kinh tế mà cịn về tinh thần. Khơng ai còn tin vào chủ nghĩa
Mác - Lênin, ngay cả Bộ Chính trị”. Bằng thực tế sụp đổ của mơ hình CNXH ở
Liên Xơ và Đơng Âu, chúng khẳng định: “mơ hình đổ, nghĩa là học thuyết đổ.
Thực chất chủ nghĩa Mác là một học thuyết hư vô, là sự biện hộ cho một khoa
học tàn phá xã hội”. Chúng còn lớn tiếng tuyên bố: “Cách mạng Tháng Mười
Nga là sự đẻ non; là sai lầm của lịch sử; CNXH hiện thực là quái thai, là sự phát
21


triển ngoài nền văn minh nhân loại”, v.v. và v.v.. Chúng tuyên truyền vu cáo
Đảng ta “đem tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin áp dụng vào Việt Nam là một sự
gán ghép, gượng gạo dẫn đến sai lầm”. Chúng phủ định con đường cách mạng
của Đảng và nhân dân ta từ năm 1930 đến nay. Chúng cho rằng, công cuộc đổi
mới của Việt Nam là trở lại con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Chúng phủ
nhận khả năng quá độ lên CNXH ở nước ta, vì theo chúng, “Việt Nam mất một
điều kiện tiên quyết là sự giúp đỡ quốc tế XHCN”. Những luận điệu đó đã tác
động tiêu cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm và lịng tin của một bộ
phận khơng nhỏ trong các tầng lớp nhân dân, gieo rắc sự hoang mang, dao
động, giảm lịng tin và sự hồi nghi về CNXH và cuộc cách mạng mà chúng ta
đang thực hiện. Những luận điệu này đã mở đường cho những ý tưởng nghi
ngờ, bi quan về CNXH của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chúng tập trung phủ định nguyên lý về hình thái kinh tế - xã hội, về học
thuyết giá trị thặng dư, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; nguyên lý về

vấn đề đấu tranh giai cấp, chun chính vơ sản, tập trung dân chủ và phủ định
toàn bộ học thuyết này. Chúng tìm các lý lẽ để đổ lỗi cho mọi sai lầm của
CNXH là do thực hiện chuyên chính vô sản. Mọi sai lầm của CNXH và cách
mạng Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra. Xã hội Việt Nam chỉ có
thể phát triển nếu như Việt Nam cùng thực hiện việc lật đổ chế độ XHCN như ở
Đông Âu và Liên Xô. Để làm việc này, trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam phải
từ bỏ các ngun tắc chun chính vơ sản và ngun tắc tập trung dân chủ.
Về lực lượng tiến công trên mặt trận chính trị, tư tưởng, chúng tranh thủ,
kích động và sử dụng bọn xét lại chống Đảng, bọn cơ hội chính trị trong nội bộ
Đảng ta là chủ yếu. Trong đó, chúng chú trọng tranh thủ, kích động, lơi kéo một
số cán bộ hưu trí; đặc biệt chú trọng tranh thủ, lơi kéo một số ít cán bộ đã bị mất
phương hướng, cơ hội chính trị, kém bản lĩnh, kết hợp với bọn phản động ở
trong và ngoài nước.
Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, chúng sử dụng nhiều đối tượng
tham gia, cả cũ và mới (Nhân văn giai phẩm cũ, bọn xét lại chống Đảng cũ và
mới); cả ngoài nước và trong nước; trên nhiều địa bàn (Bắc, Trung, Nam; trọng
điểm là ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh). Đặc biệt, chúng đã móc nối, sử
dụng lực lượng cơ hội chính trị trong Đảng; trong đó có cán bộ lão thành, có cả
cán bộ đương chức, có tướng lĩnh đã nghỉ hưu và thành phần chống đối trong trí
thức, văn nghệ sĩ để viết và tán phát tài liệu với luận điệu tự cho mình là cách
22


mạng chân chính, đưa ra quan điểm lừa mị, kích động, rằng: “đội ngũ lãnh đạo
hiện nay ở Việt Nam đang đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, do
đó, cựu chiến binh và những cán bộ lão thành “trung kiên” phải đấu tranh để
ngăn ngừa sự xuất hiện “Goócbachốp” ở Việt Nam”. Qua đó nhằm tập hợp lực
lượng chống lại bộ máy lãnh đạo hiện nay của Đảng và Nhà nước ta.
Về hình thức, chúng tăng cường các hoạt động hợp pháp, kết hợp nửa
hợp pháp và bất hợp pháp. Trong đó, nguy hiểm nhất là, chúng dùng hình thức

hợp pháp, như: thơng qua góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng các văn kiện,
nghị quyết, Hiến pháp, luật lệ, hội thảo khoa học, gửi thư cho Trung ương và
các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và yêu cầu lãnh đạo ta phải
trả lời, nhằm gián tiếp đối thoại với lãnh đạo cấp cao, vừa nhằm gây chia rẽ,
phân hóa nội bộ, vừa gây mất phương hướng, chuyển hóa từ trong Đảng. Sau
đó, biên soạn thành tài liệu phát tán rộng rãi ở trong và ngồi nước, cơng khai
hóa quan điểm chống đối.
Về đặc điểm hoạt động, chúng lấy hoạt động “ngầm”, “sâu”, chuyển hóa
từ bên trong là chính, kết hợp với những hoạt động gây biến động, bạo loạn
chính trị, tăng cường hoạt động “cơng khai hóa”. Lợi dụng vấn đề “dân chủ
hóa”, khai thác những sơ hở, thiếu sót của ta để đấu tranh trực diện, theo hướng
“cơng khai hóa”, “hợp pháp hóa” những hoạt động chống đối. Phối hợp, liên kết
giữa trong và ngồi nước mang tính chất “quốc tế hóa”. Chúng xác định “lấy hải
ngoại làm hậu phương, quốc nội là tiền tuyến. Giữ vững chiến tuyến chống cộng
hải ngoại và ra sức tiến công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”.
Về nội dung, chúng tập trung vào luận điểm dân chủ tư sản, “CNXH
dân chủ” dưới những hình thức, màu sắc khác nhau, núp dưới chiêu bài đổi
mới, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển triết
học phương Đông...
- Xuyên tạc, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là, sự thống nhất biện chứng
giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Song, chúng cố tình xuyên tạc tư
tưởng của Người, chúng cho rằng, tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh là tư tưởng
dân tộc, để qua đó chúng xuyên tạc, biến tướng tư tưởng của Người thành tư
tưởng dân tộc chủ nghĩa, tư tưởng dân tộc tư sản. Thực chất là tư tưởng phản
động, phản bội của chúng, nhưng nhân danh Bác. Chúng cịn cho rằng: “Hồ Chí
Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có tư
23



tưởng cao siêu. Đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm. Tư
tưởng “Khơng có gì q hơn độc lập tư do” là phi nhân tính”.
Tình báo Mỹ và các thế lực chống đối, thù địch ở bên ngoài đã viết nhiều
tài liệu và chỉ đạo, hỗ trợ cho bọn cơ hội chính trị, xét lại viết tài liệu dưới dạng
lợi dụng vấn đề dân tộc để xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng đã viết và
phát tán những tài liệu với chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân
tộc, khơng có ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lênin”. Và, “con đường Bác Hồ
đã chọn là con đường dân tộc, không phải CNXH”, “Đảng Cộng sản Việt Nam
thực hiện xây dựng CNXH ở Việt Nam là không đi theo con đường mà Bác Hồ
đã chọn”.
Mặt khác, chúng chỉ đạo viết những tài liệu xuyên tạc trắng trợn nhằm
thực hiện ý đồ “hạ thần tượng Hồ Chí Minh”. Gần đây, chúng viết tài liệu với
đầu đề dưới dạng văn học “Cười chóp bu”. Trong đó, chúng đã dựng chuyện, vu
cáo bỉ ổi, bôi nhọ Bác, kể cả về đời tư và sự nghiệp lãnh đạo cách mạng. Chúng
cho rằng, khi đã lợi dụng được tư tưởng Hồ Chí Minh để chuyển hóa quan điểm
lý luận thì sẽ xóa ln cả vai trị, vị trí lịch sử của Bác, để dựng ngọn cờ mới
dưới các chiêu bài chủ nghĩa xã hội dân chủ, CNXH nhân văn, CNXH nhân
bản, thực chất là xóa bỏ CNXH khoa học và học thuyết Mác - Lênin.
- Phủ nhận con đường đi lên của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chúng hết lời ca ngợi Gcbachốp, cơng khai đi theo con đường TBCN:
“Không nên cứ tôn thờ CNXH một cách lý thuyết sng mà khơng hịa nhập vào
thời đại, đi theo con đường TBCN. Tự giác thì sẽ đến đích nhanh hơn, khơng tự
giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích chậm chạp hơn,
đau đớn hơn”. Các thế lực thù địch ra sức tun truyền cho mơ hình “xã hội dân
chủ” và tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện âm mưu xóa bỏ chun chính vơ sản,
xóa bỏ ngun tắc tập trung dân chủ, phủ nhận đấu tranh giai cấp, gây mơ hồ về
địch, ta; đề cao chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân tư sản. Đưa ra quan
điểm về con đường “dân tộc” đi lên xây dựng xã hội văn minh do trí thức, sinh

viên thanh niên làm nịng cốt; nhằm tác động vào giới trẻ để khuyến khích họ
đấu tranh cho “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” và đẩy mạnh chiến tranh tâm lý
tác động vào xã hội những khuynh hướng mơ hồ, lệch lạc để lừa bịp quần chúng
nhân dân.
- Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam

24


Đây là một trong những nội dung chính của hoạt động “diễn biến hịa
bình”, của hoạt động tun truyền phá hoại của kẻ thù trong những năm qua. Mỹ
và các thế lực phản động tung ra nhiều luận điệu tuyên truyền nhằm kích động
quần chúng loại bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, như: chúng
phê phán Đảng ta khơng chịu đổi mới về chính trị, “khơng chịu thực hiện đa
nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo, hạn chế dân chủ”. Chúng cho rằng:
“độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện đại”.
Và, “Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, khơng nên và khơng thể lãnh
đạo toàn diện và tuyệt đối”. Chúng thống kê, tổng hợp lại tồn bộ những sai lầm,
thiếu sót cả về đường lối lẫn chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá khứ, đặc
biệt là ở lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội để chứng minh cho sự “chấm dứt vai
trò lịch sử của Đảng”, gạt Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển
của dân tộc. Chúng khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ
đạo và thực hiện đường lối, chính sách, những cán bộ, đảng viên tham nhũng,
tha hóa, tạo ra sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết
trong Đảng và giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Theo quan điểm của các thế
lực thù địch, muốn chiến thắng đối phương phải phá vỡ sự gắn bó trong tổ chức
Đảng Cộng sản và giữa Đảng với nhân dân. Chúng khuyến khích cải tổ, cải
cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để làm suy
yếu, đi đến phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Gần đây, chúng tung ra một số luận điệu vu khống, bôi nhọ các đồng chí

lãnh đạo cấp cao ở các thời kỳ nhằm đề cao người này, hạ thấp người kia để
chia rẽ nội bộ, làm mất lòng tin của đảng viên, cán bộ và nhân dân. Chúng phủ
định đường lối, chính sách của Đảng ta, với luận điệu: “kinh tế thị trường sẽ
từng bước làm thay đổi bản chất chế độ XHCN còn non trẻ, ốm yếu ở Việt
Nam... sẽ tới một ngày Chính phủ Việt Nam chỉ cịn là Cộng sản trên danh
nghĩa”.
- Đẩy mạnh hoạt động chống phá về tổ chức nhân sự, tập trung vào
lãnh đạo cấp cao chủ chốt; thực hiện chiến lược “đổi màu”, khoét sâu nội bộ;
xây dựng lực lượng ngầm và tổ chức đảng phái chính trị chống đối
Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động tấn công vào đường lối, quan điểm,
Mỹ và các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt về tổ chức nhân sự. Chúng đẩy
mạnh hoạt động chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước ta; ra sức kích động gây mất
đoàn kết (chia rẽ Bắc - Nam, già - trẻ, cũ - mới, ngành nghề, quân sự - dân sự,
kinh tế - chính trị...). Qua đó, thực hiện âm mưu phân hóa, làm suy yếu Đảng và
25


×