NHỮNG NẺO ĐƯỜNG TÂM THỨC TRONG
THOẠT KỲ THỦY CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
LÊ KHẮC BẢO LONG
Khoa Ngữ văn
Tóm tắt: Thoạt kỳ thủy – cái tên đọc lên nghe mờ ảo và huyền hoặc, tựa như
cõi khởi thủy của loài người. Qủa đúng như vậy, đến với tiểu thuyết Thoạt kỳ
thủy của Nguyễn Bình Phương, ta dường như trở lại với khung cảnh của một
Linh Sơn u ám và nguyên thủy. Dường như những nhân vật mà Nguyễn
Bình Phương xây dựng trong tác phẩm đều mang trong mình những bản
năng nguyên sơ hơn là sự thoát tục của tâm hồn, và họ đều thường trực
những tâm thức bản nguyên của nhân loại. Đi khám phá những nẻo đường
tâm thức trong Thoạt kỳ thủy cũng là đi giải mã tác phẩm qua con đường vô
thức thâm u của nhân vật, để rồi mở ra một ngã rẽ nhân bản mà tác giả muốn
gửi gắm đến bạn đọc.
Từ khóa: Thoạt kỳ thủy, Nguyễn Bình Phương, bản năng, tâm thức, tính
1. MỞ ĐẦU
Nguyễn Bình Phương là nhà văn Việt Nam hiện đại, tác giả của nhiều tiểu thuyết nổi
tiếng như Lam chướng, Những đứa trẻ chết già, Ngồi,... Ông là người mà theo Phạm
Xuân Thạch, “là một trong số nhiều nhà văn Việt Nam đương đại có ý thức trong việc
sáng tạo cấu trúc tiểu thuyết”. Tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy là một trong số đó, một tác
phẩm ngắn, chỉ chưa đầy 150 trang giấy nhưng ẩn chứa trong nó một cấu trúc hết sức
phức tạp, một sự mờ hịa văn bản hồn tồn.
Nhưng đọc Thoạt kỳ thủy, người ta không chỉ chú ý đến cấu trúc đặc biệt của tác phẩm
mà còn thấy rõ trong những trang giấy của Nguyễn Bình Phương, ơng đã giải phẫu
nhâm tâm của các nhân vật, lục tìm từ cõi vô thức bản nguyên sơ khai của con người để
khai sáng giá trị nhân bản trong mỗi sinh thể thâm u đó. Với Thoạt kỳ thủy, thế giới của
cõi vô thức như sự hiện tồn thường trực ở làng Linh Sơn kia, đời sống bản năng của con
người được khơi dậy đầy sự ám ảnh và u uất. Tất cả đều vẻ ra những ngả rẽ trên con
đường tâm thức của nhân vật.
Đi tìm kiếm những nẻo đường tâm thức nguyên sơ trong tác phẩm cũng là đi khám phá
đời sống đầy bản năng, cõi vô thức sâu thẳm trong từng bản thể nguyên vẹn, qua những
hành động phi lí trí, phi nhân tính để nghe được hồi chng cảnh tỉnh của tác giả về tình
người, về nguy cơ hủy diệt và giá trị của giáo dục đối với đời sống của mỗi con người.
2. BA NẺO ĐƯỜNG TÂM THỨC CỦA NHỮNG BẢN THỂ
2.1. Tâm thức tính dục và bản năng hủy diệt, bạo lực
Tác giả Phùng Gia Thế đã nhận định rằng: “Nguyễn Bình Phương có lẽ là nhà văn ở ta
sử dụng triệt để các yếu tố bản năng vơ thức và tính dục để giải phẩu cõi nhân tâm con
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2015-2016
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2015, tr: 166-172
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG TÂM THỨC TRONG THOẠT KỲ THỦY…
167
người. Tiểu thuyết của anh có rất nhiều ám ảnh, giấc mơ, mộng mị”. Với Thoạt kỳ thủy,
có thể dễ dàng nhận ra điều đó, nhân vật mà Nguyễn Bình Phương xây dựng trong tác
phẩm phần lớn mang trong mình những bản năng tính dục nguyên sơ và bản năng hủy
diệt. Thế giới nhân vật ấy hiện lên như những sinh thể thuần túy.
Theo Freud, tính dục là cốt lõi của vơ thức, tính dục khơng phụ thuộc vào những
phương thức biểu hiện mà người ta vốn quan niệm. Nhân vật trong Thoạt kỳ thủy là một
thế giới sinh thể đầy bản năng tính dục. Ơng Phước đã bao năm thèm rượu, khơng có
rượu chỉ biết gặm đít chén cho đỡ nhớ, từ khi Tính sinh ra, ơng cũng chẳng quan tâm gì
đến Liên – vợ mình, thế mà đến khi cưới Hiền cho Tính, ơng nhìn Hiền khỏa thân tự
ngắm mình thì người ơng “như can rượu khơng đậy nắp”. Ơng Phùng cũng tìm đến
Hiền để giải tỏa bản năng vơ thức trong mình khi bao nhiêu năm chỉ ở một mình làm
nghề viết văn, xem tướng, “Ơng Phùng lại nâng cằm Hiền lên soi mặt mình vào mặt
Hiền. Hiền run lên, nhắm lại. Ơng Phùng lần tay đến ngực, khơng thấy Hiền chống cự,
bèn dằn xuống...” [4, tr. 63], thế rồi, khi bị Hiền từ chối lại than vãn “tôi già rồi”.
Đến cả Nam, Hưng sau này cũng quấn quýt trong niềm say mê tính dục với Thương,
Hiền. “Đêm nào Hưng cũng mơ thấy Hiền cởi truồng ngồi lên mũi mình. Tỉnh dậy, hai
cánh mũi Hưng đau nhức, tẩy đỏ” [4, tr. 67]. Sự say mê dục tính (ertic passion) của các
nhân vật nam trong tác phẩm là biểu dương cho sự hiện hữu libido, “năng lượng gần
như cố định, có ở tất cả các cá nhân, liên hệ chủ yếu và căn bản với bản năng tính dục
của họ” [1, tr. 37]. Năng lực tính dục như chiếm đoạt phần hữu thức trong mỗi Nam,
Hưng, Phùng ở Linh Sơn kia. Họ sinh ra, mỗi người một thân phận, người từ chiến
trường ra, người chuẩn bị nhập ngũ, người làm nghề viết văn, xem tướng. Nhưng chung
quy, họ dường như thiếu vắng tình yêu của những người đàn bà ở đây. Thoạt kỳ thủy
như vẻ ra một khung cảnh u mê, ám muội đầy sinh khí bản năng của những con người
nơi Linh Sơn này.
Tâm thức tính dục hay bản năng tính dục cũng đã khiến những người đàn bà như Hiền,
Liên phải giải tỏa ân ức đã dồn nén bấy lâu nay trong mình. Bà Hiền khơng nhận được
quan tâm của ông Phước, đã bao đêm ông ta cũng chỉ càu nhàu, quay lưng ngủ tiếp, “bà
Hiền thở dài, vắt tay lên trán, răng nghiến lại nhìn trân trân mạng nhện góc nhà. Nhiều
đêm bà vùng dậy tắm. Ở bãi đá, bà Liên tranh mặt chú Mười. Nếu gặp, cũng làm mặt
cau có khó chịu”. Đời sống bản năng ở các nhân vật mà Nguyễn Bình Phương xây dựng
như một cõi trần tục và đầy ám ảnh. Những con người nơi đây luôn thường trực những
tâm thức bản năng, ở nơi Linh Sơn kia đã cách xa xã hội văn minh lồi người.
Cùng với bản năng tính dục, Thoạt kỳ thủy từ đầu tác phẩm đã khơi dậy trong thâm sâu
bản thể các nhân vật tâm thức về sự hủy diêt và bạo lực. Tính từ khi chưa được sinh ra
đã sống trong sự bạo hành của người cha trên thân xác người mẹ, “Liên hạ mâm, toan
quay lại nhặt mảnh vở, bị Phước đạp thốc vào bụng. Liên cắn răng ôm bụng ngồi bậc
cửa, đầu tùy lên cánh tay. Bụng Hiền to, vồng tròn” [4, tr. 11]. Thế cũng chưa đủ, bản
năng hủy diệt của ơng Phước cịn ghê sợ hơn khi nghe Liên nhắc nhở đạp chết con thì
sao, ơng tợp chén, cười và đáp “Chết thì đền... Thiếu đếch gì, cịn khối” . Có thể thấy,
từ khi sinh ra Tính đã sống trong bạo lực và nguy cơ hủy diệt. Không những sự hủy diệt
168
LÊ KHẮC BẢO LONG
từ trong bụng mẹ mà với Tính, vầng trăng là một nỗi ám ảnh từ khi hắn mới lọt lịng,
“vừa ra đời, Tính đã thấy trăng. Mặt trăng to bằng chiếc nong lừ lừ rọi qua vách liếp
tạo thành một quầng trong suốt. Tính co rúm lại, rồi thét lên mặc dù cơ đỡ quấn Tính
trong chiếc khăn to, áp vào ngực mình. Tính lạnh, mắt nhắm tịt lại” [4, tr. 14]. Nỗi ám
ảnh bởi hình ảnh Trăng đối với Tính là một sự xâm hại ghê gớm, tiềm tàng nguy cơ hủy
diệt cao độ. Tính sợ trăng đến nỗi, ân ức ấy đã đi vào giấc mơ từng đêm của Tính.
Tính từ khi sinh ra đã bị ám ảnh bởi Trăng, trăng đi vào giấc mơ, trăng rọi thẳng vào
tâm can của Tính. Trăng đã là nỗi sợ, nhưng cịn là trăng vàng, và hình ảnh mắt chó lập
đi lập lại liên tục đã tạo ra một mặc cảm lo sợ ghê gớm trong Tính, “Nó đấy. Lạnh. Mắt
chó vàng như trăng. Lại sáng...”. Hình ảnh “mắt chó vàng như trăng” lập đi lập lại
nhiều lần trong tác phẩm, cũng như trong giấc mơ của Tính, như là một sự giản nén bản
thể của Tính, Tính sợ để rồi tìm vào giấc mơ, trong mơ lại sợ, trở lại hiện thực. Cứ
quanh đi quẩn lại, nỗi sợ mãi ám ảnh một thằng điên như Tính. “Biểu tượng của giấc
mơ cố gắng bù lại sự mất mát quan trọng, và tiết lộ bản chất nguyên thủy của ta, bản
năng của ta và cách thức suy luận đặc biệt của cái bản năng ấy” [1, tr. 197]. Phải
chăng bản năng thực sự của Tính đã hiện rõ trong giấc mơ, bản năng hủy diệt của thú
vật, là hình ảnh mắt chó vàng như trăng – một sự thèm khát đầy chất bản năng.
Vào đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả Tính như hình hài một con thú: “tai dài, lưng dài,
chân ngắn. Lơng tay đỏ hồng, ngón khơng phân đốt. Lơng mày nhạt, hình vịng cung ơm
nửa mắt. Tai nhỏ, mồm rộng, răng cải mả. Tiếng nói đục. Đi như vượn, ngồi như gấu.
Không biết chữ” [4, tr. 8]. Rõ ràng, tác giả đã “thú hóa” nhân vật của mình, sự thú hóa ấy
thể hiện bản năng ngun thủy của lồi vật (Tính). Phải chăng từ sự tiếp nhận bạo lực lúc
vừa mới ra đời mà Tính đã dần trở thành một con thú thực sự của làng Linh Sơn này.
Vật mà Tính tiếp nhận đầu tiên khi còn ấu thơ là con dao mổ lợn của ơng Điện, “Tính
nhìn dao, nuốt nước bọt”, “Tính thích cảnh chọc tiết lợn với vẻ ham muốn đáng nghi.
Mắt Tính càng lớn càng vằn lên”. Khi nghe Hưng nói về chuyện cắn cổ Mỹ, nói về
cảnh đốt trại tù bình, “Tính nghe, mồm há hốc... Tính nhìn Hưng chằm chằm”. Tính đã
dần dần trở thành thú vật khi bản năng hủy diệt, bạo lực trong hắn trổi dậy. Bản năng ấy
như con đường vơ thức lần mị tận thâm sâu con người Tính.
Bản năng hủy diệt của Tính bắt đầu từ những động vật bé nhỏ nhất, “Tính dành thời
gian giết công cống, bắt được con nào cũng trân trọng đặt lên bàn tay, rồi bất thần đập
tay kia xuống. Cơng cống chết nát bét. Tính cười mĩm, mặt rực lên” [4, tr. 20]. Mỗi lúc
hủy diệt được một sinh thể, mắt Tính lại sáng lên, như những con thú khát máu, “Tính
giết sạch một ổ kiến dưới gốc sung”. Sự hủy diệt trong Tính như một bản năng thú vật,
đặc biệt Tính thích cầm con dao để thọc sâu vảo cổ lớn, thấy máu, mắt Tính lại càng
sáng hơn, một nỗi thèm khát bản năng. Tính được tác giả thú hóa bản chất để trờ thành
một con thú hơn là một con người.
Tính hủy diệt và sát sinh khơng chỉ là con vật, mà đến cả người trong làng Linh Sơn
cũng chết dưới tay Tính. Tính giết ơng Điện bằng ngọn lửa bốc cao căm hờn, bốc từ
bẹn bốc lên... Tính dùng kéo thọc sâu vào cổ một thằng bé điên để được nhìn thấy máu,
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG TÂM THỨC TRONG THOẠT KỲ THỦY…
169
“thằng bé điên ôm yết hầu, máu phun thành tia. Đám người điên bu quanh reo hị ầm ĩ.
Tính chống tay vào hông, ngửa mặt cười ằng ặc”. Sau khi đã xử lý hàng loạt ruồi, muỗi,
kiến, cơng cống, lợn... Tính thử nghiệm trên những người khác, khi thành khi bại, cuối
cùng Tính thử nghiệm việc chọc tiết trên chính mình. Tính sinh ra trong nguy cơ hủy
diệt và bạo lực và chết đi cũng trong chính sự hủy diệt của bản thân. Người tạo ra bạo
lực, người dồn nhau trong bạo lực, người sống trong bạo lực [5]. Một vòng quy luật
của nhân quả. Tính mạng con người đơn giản và nhỏ bé chỉ bằng những công cống,
những kiến, những lợn mà Tính sát sinh. Có thể thấy tâm thức bạo lực và hủy diệt ẩn
tàng trong mỗi con người, nó hiện diện và có thể trổi dậy khi có thể, nếu mỗi người dễ
dàng để mình mất đi nhân tính trong thâm sâu bản thể.
Tâm thức hủy diệt và bạo lực trong Thoạt kỳ thủy không chỉ thấy được giữa người với
người mà còn đối với cả cỏ đá cũng bị bạo hành, hủy diệt : Núi Hột “bị khoét vẹt một
nửa, trông như cơ thể mất thịt, lộ ra màu trắng pha chút đỏ của máu”, “Khơng ai nói
chuyện, chỉ tiếng sắt va đá vang lên triền miên, ong ong”. “Tiếng đập tràn lan khắp
nơi. Khô khốc, lanh lảnh, triền miên bất tận”. Bản năng hủy diệt và xâm hại của con
người là bất tận, nhưng điều cốt lõi là sự hủy diệt mang niềm trực cảm vô thức thì đều
nguy hiểm và đáng sợ. Tính từ nhỏ khơng được học hành, chỉ tiếp xúc với bạo lực, lớn
lên trở thành một con thú khát máu thực sự. Đó cũng chính là bản chất của cuộc đời.
Đừng bao giờ khơng khỏi đề phịng trước bản tính con người, hãy dành cho nhau những
đồng cảm và sẽ chia để bản năng mãi chỉ là tầng ngầm êm dịu trong mỗi người.
2.2. Tâm thức cộng đồng, bầy đàn
Thế giới Thoạt kỳ thủy là thế giới của một cộng đồng nhiều thân phận người đầy thâm u
và nguyên sơ trong bản tính của họ. Trong thế giới ấy, làn sóng tâm thức cộng đồng dồn
nén và tràn qua những con chữ của Nguyễn Bình Phương.
Đi kèm với hình ảnh của cú, của bạo lực xuất hiện đầu tác phẩm là hình ảnh của người
điên, “Linh Sơn nhiều người điên, họ hay tụ tập ở cột số múa hát í a. Đợt máy bay
đánh, chết mất một phần ba. Sau, lại có người ở các nơi lân cận đến nhập, thành ra
càng đông hơn” [4, tr. 16]. Đám người điên trong tác phẩm là sự biểu dương cho tâm
thức cộng đồng những bản thể nhiễu tâm (hystérie), trong đó Tính nổi lên như là bản thể
điển hình của cộng đồng đó, “Tính khơng quấn bố mẹ như những đứa trẻ khác. Tính
thích lê la một mình, bạ gì cũng cầm, bạ gì cũng liếm, cũng cho vào mồm” [4, tr. 15].
Hình ảnh đám người điên và Tính xuất hiện như là một thế giới vơ thức thứ hai sau tâm
thức bản năng tính dục, bạo lực ở nơi đây. Để rồi tạo ra một Linh Sơn với đời sống đầy
bản năng u ám và sơ khai.
Tính sinh ra đã điên loạn, nơi có thể chấp nhận anh là thế giới của những người điên
kia. Trong thế giới ấy, có đủ thứ để Tính thỏa mãn bản thể nhiễu tâm của mình. Tính
chơi với người điên, ngủ ngoài đường với người điên. Khi đã hòa nhập vào làm một, thế
giới điên loạn ấy như sống lại với chính bản năng của họ, “Tính nhập vào cánh điên,
nhìn sát vào mặt từng người, cười nói hỉ hả. Cánh điên thích lắm, cứ sấn lại, vỗ lưng,
chồng vai Tính... Tính nằm ra đường, ngủ giữa những người điên, giấc ngủ mỏng
170
LÊ KHẮC BẢO LONG
manh, nhè nhẹ. Đám điên ngồi quanh Tính, trợn mắt nhìn nhau, và cũng ngáy”. Khi
một người điên chết, “Tính cầm hương lẽo đẽo ra tận bãi tha ma”, tối về ngủ, tự dưng
vùng dây ôm mặt “khóc bạn”. Chỉ có người đồng loại mới thấu hiểu nhau, đâu đó trong
đám người điên vẫn có tình thương lẫn nhau.
Hình ảnh người điên xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, đi kèm với đó là sự hiện hữu
của Tính mỗi lúc có người điên. Bản năng hủy diệt và cơn khát máu của Tính mỗi khi
chưa được thực hiện lại dồn én vào tầng vô thức trong thâm tâm của hắn, để rồi tìm đến
cổ đứa bé điên mà thọc sâu chiếc kéo vào. Chính bản năng thú tính đã dẫn Tính đến con
đường hủy diệt đồng loại, tâm thức bầy đàn và sự đoàn kết cộng đồng tưởng chừng như
rạn nứt nhưng với những kẻ tâm thần như Tính và người điên thì điều đó lại như là một
trị chơi. Một sự thỏa mãn thú tính tràn ngập, lấp đầy bản ngã hữu thức của bọn họ. Sự
xuất hiện của cộng đồng những người điên với lối sống bầy đàn trong tác phẩm như đã
phủ lên một lớp sơn nhuốm màu điên loạn hoàn toàn trong bản tính của những con
người nơi đây.
Cùng với sự biểu dương tâm thức cộng đồng, bầy đàn của những người điên. Sự xuất
hiện của những người đàn bà như Hiền, Liên, Thương cũng là sự biểu dương của tâm
thức cộng đồng, tâm thức bầy đàn của sự chịu trận. Bà Liên và Hiền là những phận đàn
bà thuộc tầng lớp dưới trong cái thế giới Linh Sơn kia, họ muốn yên thì phải kìm nén,
chịu nhục. Bà Hiền sống với người chồng bạo lực, nghiện ngập, muốn yên ổn qua ngày
cũng phải nhịn chồng. Cú đạp mạnh của Phước vào bụng bà khi mang thai là đòn bạo
lực đầu tiên mà bà phải kìm nén, “Liên trùm chiếc khăn xanh thẫm lên đầu, quấn một
vòng từ sau gáy chẹn qua sống mũi, chỉ hở hai con mắt. Hai con mắt đen láy, mênh
mông lướt qua mặt chồng” [4, tr. 12].
Bà dồn nén ẩn ức ấy để đồi tìm đến với nghề đạp đá ở núi Hột như là sự giải tỏa ẩn ức
của sự hủy diệt kia. “Khi đập, bà Liên lẩm bẩm: “Chết cha mày, chết cha mày. Thằng
già khốn kiếp!”. Đá vỡ đều hơn, chắc hơn”. Bà cũng than lên thành tiếng “chồng với
chả con. Sao tôi lại đâm đầu vào ơng cơ chứ”. Cịn Hiền từ khi sinh ra đã là đứa con gái
trong tầm ngắm của những trai làng, kể cả ông Phước, ông Bôi cũng muốn cưới về cho
con trai mình. Khi trở thành vợ của Tính, Hiền vẫn sống cuộc cam chịu, khơng nhận
được quan tâm đời sống vật chất, tinh thần từ chồng, sự u thương hay đời sống nhục
thể cũng khơng có, Hiền từ đó nhận được sự đồng cảm của bà Liên, hai mẹ con là hai
thân phận biểu dương tâm thức cộng đồng chịu tủi nhục, “mày khổ quá, con ạ!”, “ngày
lấy chồng, tao cũng buồn như thế”, số mẹ khổ từ bé. Tao lấy bố mày cũng vì tình vì
nghĩa giữa hai gia đình”. Hai mẹ con như nương tựa vào nhau để thốt khỏi những địn
đánh trực cảm của bạo lực, của tính dục.
Đời sống của Hiền, Liên và sự biểu dương tâm thức cộng đồng, tâm thức chịu trận, chịu
nhục cũng như chính sự chịu trận của núi Hột, bãi Nghiền Sàng. Cái âm thanh đập đá
càng làm cho cái hoang sơ, man dã, ma quái, trống trơ tình người tăng thêm. “Khơng
khí mù mịt, cuồn cuộn. Tiếng đập tràn lan khắp nơi. Khô khốc, lanh lảnh, triền miên bất
tận”. Một thế giới vô thức triền miên thiếu vắng tính người, một thế giới với những bản
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG TÂM THỨC TRONG THOẠT KỲ THỦY…
171
thể vô trách nhiệm. Đó là Linh Sơn, là tâm thức cộng đồng trổi dậy trong cái mù mịt
chướng khí của xung năng bản thể.
Những Tính, những Hưng, những Nam… đều sống trong cộng đồng ấy, sống mà thiếu
vắng tình người, thiếu đi sự giáo dục, thiếu đi sự tiếp xúc bằng nhân cách và đạo đức của
nhân loại thì rồi cũng sẽ tự hủy diệt. Nguyễn Bình Phương như truyền đi thông điệp rằng
nguy cơ tự hủy diệt và bị hủy diệt trong nhân cách của con người là rất lớn, sự dốt nát và
thâm u chỉ có thể thủ tiêu bằng con đường giáo dục, để mỗi bản thể như là sự sơ khai ấy
trở về với bản ngã của chính nó với đầy đủ sự tự ý thức về cộng đồng và nhân loại.
2.3. Tâm thức vô thần, vô đạo
Trong con đường tâm thức thâm sâu của Thoat kỳ thủy, tâm thức vô thần, vô đạo như
một ngã rẽ khác mà Nguyễn Bình Phương đã để cho nhân vật mình tự thể hiện.
“Hình ảnh thượng đế trong những tơn giáo nhân bản là một biểu tượng của những
năng lực của chính con người” [2, tr. 253], niềm tin vào đấng tối cao là đức tin về tình
thương và tìm kiếm sự an ủi, phù trợ. Thiên chúa trong tâm thức của nhiều người là
hình ảnh của đấng tối cao, nhưng Hưng trong làng Linh Sơn này lại không xem như thế.
Hưng trong mắt mọi người là anh hùng trở về từ chiến trường B, trong con người hắn
không phải là một chiến sĩ thực thụ. Hưng nói lên tâm thức vô thần, vô đạo của những
người xung quanh khi ngồi với ông Phùng và tượng chúa Jesu trên ngực ông. “Hưng
chỉ vào hình Chúa Jesu đúc nổi trên chiếc thánh giá, hỏi ông Khoa: Thằng Mỹ nào mà
dạng chân dạng tay ra thế kia?”. Hình ảnh Thiên chúa đối với một số người trong Linh
Sơn chỉ là “người chết treo”, là “thằng Mỹ nằm dạng chân dạng tay”, là “một người
râu tóc màu vàng cởi trần, đóng khố”. Đời sống tâm linh, thoát tục dường như bị bại
hoại trong cái làng này. Dù có cũng chỉ được chấp nhận một cách miễn cưỡng, ông
Khoa bảo với Sung “chủ nhật phải đi lễ”, ông Sung cương quyết bắt đi làm, nếu không
sẽ cho dân quân rào cổng lại. Vợ ông Khoa run run “lạy chúa”. Ông Sung quát: “Chúa
cái con khỉ”. Một lối hành xử vô thần của những con người ở đây, trong tâm thức của
họ, đời sống bản thể thuần tùy còn tốt hơn là đời sống tâm linh.
Dù có sống trong cảm thức sùng đạo, hữu thần như ông Khoa nhưng với bản năng sát
sinh quá lớn của con người thì đến đức tin cũng khơng thể làm gì được, Chúa nơi chiếc
thánh giá lóe sáng ở cổ ơng Khoa cũng khơng thể giúp gì được cho ông – đứa con chiên
ngoan đạo hành nghề hoạn lợn của mình tránh được lưỡi dao sắc nhọn của tên điên khát
máu – Tính.
Đời sống thâm u, bản năng thuần túy như chiếm lĩnh hồn linh của những con người nơi
đây, đến cả cảm thức tâm linh, tín ngưỡng cũng bị tâm thức vô thần, vô đạo đạp đổ. Đi
xem chiếu bóng về, “qua bãi tha ma, Hưng vạch quần đái ngay lên mộ”, việc làm thất
đức như bà Sinh nói nhưng Hưng cũng chỉ xem là một điều phúc đức vì tổ quốc, “Tơi
đã từng hi sinh xương máu vì dân vì nước, đức ấy ai sánh được”. Cịn Tính, đến cả di
ảnh của bố mẹ vợ của mình trên bàn thờ cũng bảo vợ “vứt mẹ nó đi”, một trực cảm vơ
đạo hay nỗi sợ báo ốn, dù là gì thì đời sống u uất, tối tăm trong thâm sơn cùng cốc này
đã dựng xây nên vực thẳm vơ thức bao lấy những nhân hình nơi đây. Tâm thức vô thần,
LÊ KHẮC BẢO LONG
172
vô đạo qua những lời cổ súy của những bản thể thuần túy nơi đây thật đáng lưu tâm để
thấy rõ một đời sống sơ khai trong từng nhân hình đã mất đi cảm tính lẫn nhân tính.
3. KẾT LUẬN
Linh Sơn là cả một thế giới tâm thức bản năng âm u, tối tăm, những giá trị cơ bản của
đời sống thượng tầng dường như còn rơi rụng ở một vài bản thể những cũng khơng tồn
vẹn. Tính với đời sống điên loạn, thức dậy trong mình con người của sự thèm khát bản
năng những vẫn khóc khi người ta chết; Hiền, Liên với bản năng tính dục chưa được
quan tâm của những người đàn ông cũng thấy được thân phận mình, co rúm và than thở
về cuộc sống với chồng, con. Ơng Phùng, ơng Khoa hay Hưng, Nam đều mang trong
mình lối sống bản năng tính dục u ám, túng thiếu nhưng cũng sẵn sàng đi chiến trường
giết giặc, cịn có người sống với đời sống văn chương, phải trở về trong vinh quang khi
nhận giải. Nhưng có thể thấy, phần đời sống bản năng và trực cảm vô thức dường như
phủ lấp khắp tác phẩm, đó cũng là ý đồ của tác giả. Và ở đây yếu tố vô thức đã được
triệt để khai thác nhằm thể hiện q trình tiệm thối của cuộc sống [3].
Đời sống bản năng trong những nẻo đường tâm thức của các nhân vật tựu chung lại
cũng là đời sống vơ thức tập thể, đó là sự hội ngộ chân thực nhất của những “kẻ di trú
vĩnh cửu” với thế giới tâm hồn lắm đa đoan của con người [3]. Nguyễn Bình Phương
khai thác phần thâm u sâu thẳm đó của con người để tha thiết rung lên hồi chuông cảnh
tỉnh về những giá trị có nguy cơ bị hủy diệt, những lối sống bản năng trổi dậy có lúc
cũng sẽ đánh mất đi phần nhân tính của mỗi con người. Sự u mê, ảm đạm trong tâm
thức của mỗi bản thể chỉ có thể được tẩy rửa bởi tình thương, sự chia sẻ và đồng cảm
của cộng đồng. Và hơn hết, q trình tiệm thối ấy sẽ ngược dịng để hòa nhập với văn
minh nhân loại khi mỗi một con người biết và hiểu được giá trị giáo dục. Để Thoạt kỳ
thủy không phải là từ thuở sơ khai của đời sống bản năng thường trực trổi dậy mà là lúc
bắt đầu để thức tỉnh và tôn tạo những giá trị Người tốt đẹp. Hãy bắt đầu để thức tỉnh
trước khi quá muộn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
Đỗ Lai Thúy (2003). Phân tâm học và Tình u, NXB Văn hóa Thơng tin, Hà Nội
Đỗ Lai Thúy (2002). Phân tâm học và Văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thơng tin,
Hà Nội.
Hồng Đăng Khoa (2013). Cõi nhân sinh nhàu nát trong Thoạt kỳ thủy, 27.04.2015,
nhavantphcm.com.vn
Nguyễn Bình Phương (2014). Thoạt kỳ thủy, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
Thụy Khuê (2004). Thoạt kỳ thủy trong vùng đất Cậm Cam hoang vu của Nguyễn
Bình Phương, 27.04.2015, thuykhue.free.fr.
LÊ KHẮC BẢO LONG
SV lớp Văn 4D, khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
ĐT: 0982 989 481, Email: