Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Biểu tượng như một phương thức phản ánh của văn xuôi đương đại (qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 150 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HOÀI PHƢƠNG



BIỂU TƢỢNG NHƢ MỘT PHƢƠNG THỨC PHẢN ÁNH
CỦA VĂN XUÔI ĐƢƠNG ĐẠI
(Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương,
Hồ Anh Thái )







LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC









HÀ NỘI - 10/2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HOÀI PHƢƠNG



BIỂU TƢỢNG NHƢ MỘT PHƢƠNG THỨC PHẢN ÁNH
CỦA VĂN XUÔI ĐƢƠNG ĐẠI
(Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phƣơng,
Hồ Anh Thái)


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60.22.32



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG






HÀ NỘI - 10/2009

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề biểu tượng trong văn xuôi đương đại 4
2.2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến biểu tượng trong tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 17
4. Phương pháp nghiên cứu 17
5. Cấu trúc luận văn 18

Chương 1. Khái lược về Biểu tượng và hành trình sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương

1.1. Giới thuyết khái niệm Biểu tượng 19
1.1.1. Một số định nghĩa về Biểu tượng 19
1.1.2. Biểu tượng trong văn học nghệ thuật- một loại hình tượng đặc biệt 25
1.1.3. Biểu tượng và hành trình kiếm tìm phương thức biểu hiện của văn học Việt
Nam từ sau 1975 32
1.2. Biểu tượng và quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Bình Phương 36

1.2.1. Nguyễn Huy Thiệp – “ngọn gió lạ” thời kỳ Đổi Mới 36
1.2.2. Hồ Anh Thái với hành trình sáng tác bền bỉ 37
1.2.3. Con đường tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương 38

Chương 2: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái và Nguyễn Bình Phương

2.1. Thành thị và những huyền thoại của cuộc sống hiện đại 40
2.2. Biểu tượng nông thôn 48
2.3. Những cõi miền phi-thực-có-thực 57

2
2.4. Tự nhiên – nơi con người tìm về bản nguyên của mình 67
2.4.1. Thiên nhiên – Những quy luật vĩnh hằng của tạo hóa 68
2.4.2. Con người – hạt thiện nguyên khối 74
2.5. Giải huyền thoại – Những biểu tượng có tính gây hấn mạnh 79

Chương 3: Phương thức xây dựng biểu tượng – những cách tân trong nghệ
thuật tự sự

3.1. Hư cấu nghệ thuật 91
3.1.1. Sự gia tăng của các yếu tố kỳ ảo 93
3.1.2. Tạo dựng những tọa độ không-thời gian đặc biệt 102
3.2. Những cách tân trong nghệ thuật kết cấu 106
3. 2.1. Các kiểu kết cấu – mô hình mang ý nghĩa biểu trưng cao 107
3.2.2. Tạo dựng cái nhìn đa trị bằng việc tổ chức các điểm nhìn trần thuật 117
3.2.3. Các yếu tố ngoài cốt truyện 121
3.3. Những phương thức sử dụng ngôn ngữ 126
3.3.1. Lặp 127
3.3.1.1. Lặp ở cấp độ ngôn từ 127

3.3.1.2. Lặp ở cấp độ hình ảnh 131
3.3.2. Giễu nhại 136
KẾT LUẬN 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO 145










3







MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học đương đại tuy đã và đang vận động theo nhiều chiều hướng rất phức
tạp nhưng có thể nhận thấy những nét diện mạo riêng, một bầu không khí riêng
khác hẳn thời kỳ trước đã được định hình. Một trong những ấn tượng đặc biệt toát
lên từ bầu không khí văn học chung đó, nhất là ở những tác phẩm, tác giả xuất sắc,
đó là sức ám ảnh kỳ lạ, sự khuếch trương của tính đa nghĩa, mơ hồ, sự lôi cuốn khó
cưỡng toát ra từ những cảm thức lạ lùng đa chiều kích về đời sống… Sự vận động

nào từ bên trong, sự tác động nào từ bên ngoài, và những cơ sở, cội nguồn sâu xa
nào tạo nên điều đó?
Những câu hỏi đó gợi ý và thôi thúc chúng tôi tìm đến biểu tượng như một
“cách đọc” văn xuôi đương đại có nhiều hứa hẹn. Nghiên cứu biểu tượng là một
phương thức phù hợp để nghiên cứu sự vận động của văn xuôi đương đại, đặt trong
dòng mạch vận động chung của thể loại văn xuôi từ thời kỳ trước. Từ góc nhìn này
sẽ thấy được một cách tương đối tổng quan những đổi mới của nghệ thuật tự sự
trong văn xuôi đương đại, trong so sánh với thời kỳ trước, và trong sự tương thích
với những biến đổi trong đời sống, trong tâm thức con người hiện đại. Đồng thời, từ
đây cũng có thể đưa ra một cái nhìn đúng đắn về xu thế phát triển của văn xuôi Việt
Nam.
Tiếp cận văn xuôi đương đại từ góc độ biểu tượng còn xuất phát từ vấn đề
tiếp nhận văn học. Tiếp cận từ góc độ biểu tượng là một cách “đọc văn” rất coi
trọng vai trò “đồng sáng tạo”, phát huy trí tưởng tượng của người đọc, góp phần

4
nâng “tầm đón nhận” của người đọc lên một mức cao hơn. Đây là cách tiếp cận phù
hợp với văn xuôi đương đại.
Việc giải mã thế giới biểu tượng trong văn xuôi đương đại còn có một điểm
tựa sâu xa là mối quan hệ giữa văn học với các hình thái ý thức xã hội khác. Văn
học không phải là một hiện tượng tồn tại một cách biệt lập, khép kín, mà nó có mối
quan hệ mật thiết, khăng khít với các lĩnh vực phản ánh đời sống tinh thần con
người khác như văn hoá học, tâm lý học, tôn giáo, tín ngưỡng…
Chúng tôi chọn khảo sát tác phẩm của ba tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái và Nguyễn Bình Phương vì đây là ba đại diện nổi bật của văn xuôi Việt Nam
kể từ sau Đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề biểu tượng trong văn xuôi đương đại
Bức tranh văn học Việt Nam từ thời kỳ Đổi mới đến nay là một bằng chứng
thể hiện rõ mối quan hệ giữa thực tiễn văn học và lý luận phê bình. Qua hơn hai

thập kỷ kể từ những ngày đầu đổi mới, đến nay nền văn học Việt Nam đã định hình
cho mình một diện mạo riêng với những thành tựu không thể phủ nhận, nhưng cũng
với nhiều vấn đề mà đến nay đã bộc lộ ra ở sự chững lại của nó. Tương ứng với hiện
thực văn học đa dạng, phong phú đồng thời phức tạp và luôn trong trạng thái vận
động biến chuyển đó, lý luận phê bình văn học sau những bước loay hoay ban đầu
cũng đã kịp thời có những bước chuyển để có thể nắm bắt bằng sự quan sát, phân
tích, bằng việc tiếp thu và ứng dụng các lý thuyết mới, bằng việc vượt lên cải biến
sức ì của những cách nhìn đã cũ, những lối tiếp cận không còn phù hợp. Riêng đối
với văn xuôi đương đại, đến nay đã có nhiều công trình lớn nhỏ đề cập đến các
phương diện: sự chuyển biến từ bối cảnh xã hội thẩm mĩ đến quan niệm về hiện
thực đời sống, quan niệm về văn chương, hệ quả là sự thay đổi về hệ đề tài, hình
tượng, cảm hứng, đối tượng, và những cách tân về hình thức như kết cấu, nhân vật,
ngôn ngữ, giọng điệu… Quyển sách mới xuất bản gần đây (2006) Văn học Việt
Nam sau 1975: Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy tập hợp các bài viết về văn

5
học đương đại với nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau cho ta một cái nhìn tương
đối bao quát.
Trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi đương đại, từ những cái nhìn
bao quát cho đến những nghiên cứu về các tác giả cụ thể, có thể nhận thấy các vấn
đề xung quanh biểu tượng được đề cập đến ngày càng nhiều cho thấy mức độ quan
trọng của vấn đề. Trong đó, các hình thức, dạng thức khác nhau của biểu tượng đã
được phân tích, kiến giải từ nhiều góc độ khác nhau, mang lại cho luận văn chúng
tôi rất nhiều gợi ý và đối thoại có giá trị.
Trong bài viết của mình Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam
từ cuối thập kỷ 80 đến nay, khi nêu ra, phân tích và minh họa cho xu hướng tiểu
thuyết “trò chơi”, tác giả Nguyễn Thị Bình đã đưa ra những luận điểm mà, từ góc
nhìn của chúng tôi, có liên quan hết sức sâu sắc với vấn đề biểu tượng của văn xuôi
đương đại. Những tiểu thuyết được tác giả xem là tiêu biểu cho “những nỗ lực thể
nghiệm có khi còn dang dở, hoặc lạ lẫm, hoặc khó đọc… nhưng ít nhất chúng đang

báo hiệu một ý thức mới về thể loại và việc trả lời câu hỏi “có thể viết tiểu thuyết
như thế nào” [26, tr. 213] chính là những tác phẩm và những tác giả mà chúng tôi
cho rằng việc sử dụng biểu tượng như một phương thức phản ánh rất nổi bật và tiêu
biểu. Những đặc điểm của tiếu thuyết trò chơi mà tác giả nêu ra là: Một hiện thực
không đáng tin cậy; những nhân vật dị biệt hoặc kỳ ảo; điểm nhìn trần thuật tạo nên
tính chủ quan của các câu chuyện và bút pháp nhại, bút pháp huyền thoại trào
lộng… Những cách tân nghệ thuật chi phối bởi quan niệm về “tính trò chơi” của
tiểu thuyết mà tác giả nêu trên, thuộc về những phương thức xây dựng biểu tượng
trong hệ thống của chúng tôi. Dù rằng không trực tiếp đề cập đến vấn đề biểu tượng,
nhưng ý tưởng cốt lõi cũng như nhiều luận điểm của bài viết trên rất gần gũi và có
nhiều gợi ý đối với cách tiếp cận của chúng tôi, trong đó điều chúng tôi tâm đắc
nhất là quan điểm “Rất cần một tiêu chí cho những tác phẩm có thể chưa hay nhưng
có ý nghĩa khơi mở, dự báo về một quan niệm, một mô hình, một bút pháp nghệ
thuật mới” [26, tr. 214].

6
Trong bài viết Liêu trai hiện đại Việt Nam, tác giả Trần Lê Bảo đã tìm hiểu
về các truyện ngắn hiện đại Việt Nam có màu sắc kỳ ảo như Liêu trai của Trung
Quốc đồng thời có những yếu tố cách tân theo yêu cầu mới của thời đại. Tác giả đã
lý giải hiện tượng truyện ngắn kỳ ảo trong văn học Việt Nam từ sau 1975 từ góc độ
những biến đổi của bối cảnh xã hội đòi hỏi nhà văn phải có những cách tân nhằm
kiếm tìm phương thức thể hiện mới, đồng thời, tác giả cũng đặt hiện tượng này
trong dòng mạch phát triển của truyền thống văn xuôi kỳ ảo thời kỳ trung đại và
xem đây là một cơ sở để các nhà văn hiện đại coi cái kỳ ảo là một phương tiện biểu
hiện của văn học. Phân tích bối cảnh hiện đại hóa của văn học, trong đó diễn ra sự
giao lưu với các nền văn hóa lớn trên thế giới, còn hiện thực đời sống đặt ra đầy rẫy
những vấn đề phức tạp và mới mẻ… tác giả đã đưa ra một nhận định xác đáng “Như
vậy, chất kỳ ảo, chất liêu trai trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam chẳng những là
phương tiện nghệ thuật mà còn là một phạm trù của tư duy nghệ thuật, có khả năng
đem lại những nhận thức mới và nhiều khoái cảm lâu dài cho độc giả” [26, tr. 309].

Tiếp đó, tác giả đã phân tích chất liêu trai được thể hiện như thế nào qua cách dựng
truyện, qua thế giới nhân vật và qua cái mà tác giả gọi là “các phương thức thể hiện
cái kỳ lạ”: dùng mộng ảo, dùng biểu tượng và kết cấu mở. Lưu ý rằng, khái niệm
biểu tượng tác giả sử dụng ở đây mang nghĩa hẹp, chỉ những hình ảnh biểu tượng
xuất hiện trong các truyện ngắn kỳ ảo. Bên cạnh những kiến giải xác đáng, có thể
nhận thấy rõ sự lúng túng của tác giả khi nêu lên các phương thức thể hiện chất liêu
trai; sự phân tách ba yếu tố có nhiều điểm chồng chéo lên nhau và kém phần rõ
ràng. Ngoài ra, trong khuôn khổ một bài viết, những gì tác giả chỉ ra mới mang tính
chất đặt vấn đề và là một bản phác họa giới hạn trong thể loại truyện ngắn.
Cũng là một cái nhìn từ góc độ thể loại truyện ngắn, trong bài viết đăng trên
tạp chí Nghiên cứu văn học số 5 năm 2008, Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975, thạc sĩ Phạm Thị Thanh Nga sau khi phân tích dòng chảy văn học
kỳ ảo trong tiến trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam từ thời kỳ trung đại, đã
đề cập đến yếu tố kỳ ảo như là yếu tố đóng vai trò “xây dựng tình huống kịch tính”
trong truyện ngắn hiện đại. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, khái niệm “cái kỳ ảo” mà tác

7
giả sử dụng ở đây tương đương với thuật ngữ fantasticque trong tiếng Pháp, và gần
với các khái niệm cái huyễn tưởng, cái truyền kỳ trong tiếng Việt. Điều đó phần nào
giải thích cho việc cách tiếp cận của tác giả không có nhiều điểm chung so với cách
tiếp cận của luận văn, vì khái niệm biểu tượng chúng tôi dùng ở đây mang hàm
nghĩa rộng hơn cũng như với những tiêu chí đặc trưng khác.
Cũng đề cập đến yếu tố kỳ ảo, nhưng tác giả Phùng Hữu Hải trong bài viết
Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn VN hiện đại từ sau 1975 lại quan niệm rằng: “Ở tầm
vĩ mô, yếu tố kỳ ảo thể hiện một quan niệm mới của các nhà văn về thế giới, là sự
mở rộng và chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động. Còn ở tầm vi mô, yếu tố kỳ ảo
chính là các hình thức nghệ thuật cụ thể như: đối thoại tâm linh, cổ tích hóa, liêu
trai hóa, tôn giáo hóa, huyền thoại hóa ” [11]. Nhận định chung chung này được
triển khai trong bài viết thành các luận điểm: cái kỳ ảo là phương tiện để nhà văn
hiện đại (Việt Nam) sử dụng để chuyển tải được những mảng hiện thực mới khi mở

rộng đề tài phản ánh, cái kỳ ảo, cái kỳ ảo là kết quả của một ý thức và nỗ lực thay
đổi lối viết của các nhà văn hiện đại “bứt ra khỏi khuôn vàng thước ngọc một thời”,
yếu tố kỳ ảo thể hiện quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn, và là sự
“hữu hình hóa cái ác, giấc mơ về chân thiện mỹ”, là sự thể hiện cảm hứng nhận thức
lại và chất triết lý… Có thể nhận thấy, điểm bất cập rõ nhất trong bài viết là chưa có
một cái nhìn hệ thống đối với cái kỳ ảo, chưa chỉ ra được mối quan hệ nhân quả của
các luận điểm được nêu ra.
Xem văn học kỳ ảo là một dòng chảy phản ánh sự phức tạp và sinh động của
văn xuôi đương đại, tác giả Bùi Thanh Truyền, trong bài viết Sự hồi sinh của yếu tố
kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, đã phân tích các nguyên nhân xã hội, lịch
sử của “sự hồi sinh” này. Theo tác giả, đó là: (1) quá trình giao lưu với văn học
phương Tây kích thích, khơi gợi và mở ra những vùng cảm nhận mới, những hiểu
biết, cảm quan, giá trị mới; (2) sự mở rộng trong quan niệm về hiện thực và đối
tượng phản ánh của văn học “phá vỡ chủ nghĩa đề tài” trong nền văn học thời kỳ
trước đây; (3) sự mở rộng trong quan niệm về phương pháp sáng tác và tiếp cận
cuộc sống; và (4) truyền thống văn hóa, văn học dân tộc. Ở đây, khái niệm “yếu tố

8
kỳ ảo” đã được hiểu một cách tương đối rộng và mềm dẻo. Tuy nhiên, ngoài việc
các luận điểm còn mang tính liệt kê, bài viết của tác giả chưa đi sâu vào cắt nghĩa
“yếu tố kỳ ảo” từ góc độ bản thể luận tác phẩm văn học, chưa đi sâu vào cấu trúc,
cơ chế tạo nghĩa… của cái kỳ ảo.
Có thể thấy rằng, các bài viết, các nghiên cứu liên quan đến biểu tượng
không phải là ít, tuy nhiên bức tranh chung vẫn là một tình trạng manh mún, nhỏ lẻ,
cảm tính, thiếu một cái nhìn toàn cục và có tính hệ thống. Những phân tích và kiến
giải về cái kỳ ảo hầu hết đều nhìn từ góc độ xã hội – lịch sử, với các khái niệm quen
thuộc thường dùng là: sự thay đổi của hiện thực, sự thay đổi về quan niệm đời sống,
quan niệm nghệ thuật, mở rộng phạm vi phản ánh, sự kế thừa truyền thống và tiếp
thu phương Tây… Thiết nghĩ, tất cả những cách tiếp cận đó đều chứa đựng những
yếu tố hợp lý và mang đến một sự kiến giải có giá trị nhất định, tuy nhiên, cái thiếu

ở đây dường như là một cái nhìn sâu vào bản chất nội sinh của khái niệm, và đi từ
bản chất, cơ chế của nó để lý giải về xu hướng như một sự lựa chọn hợp lý và tất
yếu. Khi chúng tôi lựa chọn khải niệm biểu tượng thay vì cái kỳ ảo như rất nhiều
các công trình đã sử dụng, điều này hàm chứa cả sự khác biệt trong cách tiếp cận
vấn đề. Khái niệm biểu tượng chúng tôi sử dụng nghiên cứu trong luận văn này vừa
có cội nguồn văn hóa làm nền tảng cho sức tạo nghĩa không cùng của nó, vừa là
một yếu tố thuộc bản thể luận chứa đựng bản chất và quy luật vận động bên trong
của văn học.
2.2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến biểu tượng trong tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương
Dễ nhận thấy rằng, ba tác giả trên nằm trong số có tần suất xuất hiện nhiều
nhất trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi đương đại, cả những công trình
riêng về từng tác giả lẫn những nghiên cứu về văn xuôi nói chung. Trong đó, hầu
hết những nghiên cứu liên quan đến vấn đề biểu tượng đều nhắc đến Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương. Dưới đây là một số nét phác thảo cơ
bản nhất về tình hình nghiên cứu từng tác giả.

9
Người “trình làng” sớm nhất, và cũng là người chịu nhiều sóng gió nhất
trong ba tác giả chính là Nguyễn Huy Thiệp. Xuất hiện trong một bầu không khí hết
sức nhạy cảm, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc tranh luận sôi
nổi chưa từng thấy trên văn đàn văn học nước ta thời kỳ đầu đổi mới. Theo thống kê
của các tác giả Nguyễn Hải Hà và Nguyễn Thị Bình trong bài viết Xung quanh hiện
tượng Nguyễn Huy Thiệp, từ khoảng giữa năm 1987 đến giữa 1989 đã có trên 70 bài
viết về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, trong đó “sự đối lập giữa các ý kiến phải
nói là gay gắt, cực đoan nhất so với tất cả các cuộc tranh luận khác trong văn nghệ
kể từ 1975 trở đi”[23, tr. 517]. Năm 2001, tác giả Phạm Xuân Nguyên đã tập hợp
những bài viết tiêu biểu về Nguyễn Huy Thiệp, mà ông ước tính mới chỉ là 1/3 số
bài viết đã đăng trên các báo chí khắp nơi, thành cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp. Nhìn chung, giữa hai luồng khẳng định và phủ định, khen và chê, khuynh

hướng khẳng định những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp vẫn nổi trội, có sức
thuyết phục và ngày càng đông đảo hơn. Hầu hết các bài viết có giá trị đều nói đến
và cắt nghĩa cái “ma lực”, nỗi ám ảnh kỳ lạ mà truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gây
nên. Trong hành trình lý giải điều đó, nhiều tác giả đã đề cập và phân tích những
dạng thức khác nhau của biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Trong bài viết có tính chất khởi đầu Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi
giócủa Hoàng Ngọc Hiến, bên cạnh những phát hiện sắc sảo về cái “giọng” đặc biệt,
vừa tàn nhẫn, vừa xót xa “man mác cảm giác tê tái” của văn Nguyễn Huy Thiệp;
tác giả đã chỉ ra một điểm tựa quan trọng để ngòi bút đó có thể trụ vững: Nguyên
tắc tính nữ , hay Thiên tính nữ. Đó là biểu tượng của cái Đẹp, tinh thần vị tha, đức
hi sinh, hiện thân qua các nhân vật nữ trong truyện.
Nhà nghiên cứu văn học Nga T.N.Philimonova - người đã dành nhiều quan
tâm cho tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp - cũng đã có nhiều kiến giải đáng lưu ý.
Trong bài viết Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các
truyền thuyết văn học, tác giả đã chỉ ra vết tích các yếu tố dân gian trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp và đi sâu vào phân tích ảnh hưởng của truyền thuyết đối
với mười truyện trong Những ngọn gió Hua Tát. Trong luận văn này, chúng tôi xem

10
việc “nhại” cổ tích, truyền thuyết của Nguyễn Huy Thiệp là một phương thức tạo
dựng biểu tượng hoàn toàn có ý thức của tác giả. Trong bài Thơ trong văn Nguyễn
Huy Thiệp tác giả T.N.Philimonova nói đến thơ như một điểm nổi bật trong văn
xuôi Nguyễn Huy Thiệp, và tìm lời giải đáp cho câu hỏi: nhà văn sử dụng thơ như
thế nào, dưới dạng nào và với chức năng gì. Ông cho rằng đây là thủ pháp Nguyễn
Huy Thiệp chịu ảnh hưởng của văn xuôi cổ vùng Viễn Đông . Trong luận văn này,
chúng tôi xem thơ là một thủ pháp xây dựng biểu tượng của Nguyễn Huy Thiệp.
Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn đưa ra một cách “giải mã” các biểu tượng Pơriê, Gia
Long và Nguyễn Du trong bài viết Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp.
Tác giả Thái Hòa trong bài Có nghệ thuật Ba-rôc trong các truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp hay không đã phân tích những biểu hiện của cảm hứng Ba-rôc
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .Trong những vấn đề được nêu ra, chúng tôi
quan tâm đến ý kiến của tác giả vê sự rậm rạp của các chi tiết, sự chuyển hoá năng
động của các chi tiết từ thực đến ảo, vừa ảo vừa thực; cách phối trí thiếu cân đối
giữa các chi tiêt tạo nên những hình ảnh mang tính nghịch dị, những hình hài méo
mó dị dạng. Tác giả cũng nhận xét về một số biểu tượng: dòng sông, Ngô Thị Vinh
Hoa, Mẹ Cả, con trâu đen… Ông cho rằng đây là thủ pháp của nghệ thuật Ba-rốc và
chỉ ra nguồn gốc của nó ở những truyện cổ tích thần kỳ, những tranh tượng chùa,
đền Việt Nam, những gia phả, thần phả, chuyện linh cảm, mộng mị, bói toán, hoang
tưởng trong cuộc sống hằng ngày.
Ở bài viết Đọc Nguyễn Huy Thiệp, tác giả Văn Tâm nêu lên bốn nét đặc thù
của Nguyễn Huy Thiệp qua hơn 20 truyện ngắn trong tập Tướng về hưu.Trong đó,
ông nói đến cảm hứng huyền thoại mạnh: “bút pháp huyền thoại tạo nên những
giấc mơ ban ngày của nghệ sĩ, mặc nhiên hỗ trợ độc giả đọc ra một số tín hiệu
thuộc miền tinh thần tiềm ẩn, siêu thức thẳm sâu… đặng nhận diện họ thấu triệt
hơn” [23, tr. 289]. Ngoài ra, tác giả còn nói đến “tính nhiều tầng đa nghĩa cao”,
phong cách xây dựng nhân vật, cấu trúc tình tiết và sắp xếp bố cục không khép kín,

11
mang đặc trưng thơ là những thủ pháp làm nên cái ma lực, tính “nhiều chủ đề” hoặc
“không có chủ đề” của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp.
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh trong bài viết Nguyễn Huy
Thiệp: những chuyện huyền kỳ, núi, sông và nước… đã phân tích cách xử lý yếu tố
huyền thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Theo tác giả, Nguyễn Huy Thiệp
vừa hóa giải huyền thoại, vừa thực hiện huyền thoại hóa, cả hai đều là “nỗ lực vượt
thoát cái nhìn tập thể bình thường”, “vượt thoát thiên kiến áp đặt để kiêng húy”, là
cách nhà văn “phê phán những ảo tưởng, những huyền thoại dựng đứng một cách
nhân tạo, bá quyền” [23, tr. 372]. Nhà nghiên cứu cũng đã cắt nghĩa một số huyền
thoại và những yếu tố thiên nhiên: đất, núi, nước…Huyền thoại mà Nguyễn Vy
Khanh nói đến ở đây chính là một dạng thức của biểu tượng.

Ở một bài viết khác cũng rất đáng lưu ý Biển không có thuỷ thần, với một lối
viết giản dị nhưng cực kì tinh tế, giáo sư Đặng Anh Đào đã chỉ ra trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp sự đan cài “cái dị dạng – bình thường, cái bi đát và cái khôi
hài, lệch lạc mà cân đối tiềm tàng trong triết lý và nghệ thuật lành mạnh của dân
gian, như một khát vọng, hoài niệm về sự hài hoà không thể có ở thế giới trần tục”
[23, tr. 394] và điều lạ lùng là đằng sau đó, “ta cảm thấy màu sắc và tâm trạng của
thực tế hiện nay”.
Ngoài ra còn rất nhiều luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí, các trang
web trên mạng Internet… đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến việc xây dựng
biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp như: cái Tục, quan niệm con
người, thế giới nhân vật… trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Phải nói rằng, hầu
hết các bài viết cắt nghĩa sức cuốn hút khó cưỡng của truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp đều ít nhiều nói đến biểu tượng và cách nhà văn tạo dựng biểu tượng. Tuy
nhiên, trong giới hạn những bài viết riêng lẻ, những nhận định của các tác giả phần
nhiều còn tản mát, cảm tính, chưa lý giải một cách hệ thống thế giới biểu tượng
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng như chưa đặt hiện tượng này trong cả
tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ thời kì đổi mới đến nay để có được

12
một sự đánh giá công bằng về những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp đối với thể
loại truyện ngắn nói riêng và đối với văn học Việt Nam nói chung.
Sự xuất hiện của Hồ Anh Thái không chịu nhiều dông bão của dư luận như
Nguyễn Huy Thiệp, một phần vì những bước đi ban đầu của nhà văn này rất nhẹ
nhàng và bền bỉ, một phần vì khi những nét đặc trưng “gai góc” nhất của anh bắt
đầu nổi thì cũng là thời điểm bầu không khí văn học đã thông thoáng cởi mở hơn.
Từ những tác phẩm “có đẳng cấp” đầu tiên như Trong sương hồng hiện ra, Người
đàn bà trên đảo và Người và xe chạy dưới ánh trăng…, ngoài những lời khen ngợi
chung chung kiểu “quan sát tinh tế, suy nghĩ sâu sắc, nắm bắt tâm lý nhân vật giỏi,
tuổi đời còn trẻ nhưng giọng văn đã già dặn”… có nhiều ý kiến đã chỉ ra một cách
chuẩn xác những yếu tố tuy mới chỉ dạng tiềm năng nhưng sau này sẽ trở thành yếu

tố đặc trưng nhất của Hồ Anh Thái. Điều đáng nói là, tất cả những yếu tố cốt lõi đó
cũng là những phương thức xây dựng biểu tượng quan trọng trong tác phẩm của Hồ
Anh Thái mà chúng tôi đề cập đến.
Trong bài viết về tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng, nhà văn Lê
Minh Khuê đã nói đến “sắc thái lạ lùng”, “bất bình thường” dẫn đến “quái dị” và
chất “hài hước” như một thế mạnh của Hồ Anh Thái [416, Người và xe chạy dưới
ánh trăng], theo tác giả, đó là cách để nhà văn truyền đến cảm giác lo lắng, bất an
về cái ác, cái xấu. Còn tác giả Wayne Karlin, trong lời giới thiệu cho bản dịch tiếng
Anh hai tác phẩm Trong sương hồng hiện ra và Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh
Thái đã chỉ ra một cách tinh tế và chuẩn xác: “Việc sử dụng những nhân vật rất
thực trong những tình huống giả tưởng kỳ ảo, nhằm lay động nhận thức mà gạn lọc
lấy sự thật, thường in dấu trong nhiều tác phẩm của Hồ Anh Thái”. Tác giả Philip
Gambone cũng nói đến “chất châm biếm, chất siêu thực và ngụ ngôn tràn đầy trong
nhiều cuốn sách được cấu trúc một cách tao nhã” [45, tr. 436]. Tuy nhiên, phải đến
sau này, với sự xuất hiện của các tác phẩm như Cõi người rung chuông tận thế,
Mười lẻ một đêm, Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười…, những yếu tố nói trên
mới được đề cập và phân tích sâu hơn.

13
Trong bài viết Giọng tiểu thuyết đa thanh [50, tr. 268]. Nhà phê bình Nguyễn
Thị Minh Thái đã chỉ ra cấu trúc đặc sắc đậm chất triết lý cũng như giọng điệu đa
thanh trong Cõi người rung chuông tận thế. Theo chúng tôi, đây chính là một trong
những thủ pháp đặc sắc để Hồ Anh Thái gây dựng một bầu không khí đậm đặc cảm
giác đương đại, ở những khía cạnh báo động đáng sợ của nó, nói cách khác, là một
cách tạo dựng biểu tượng về thành thị, về cuộc sống hiện đại… Trong một bài viết
khác về tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ phía sau, nhà phê bình
Nguyễn Thị Minh Thái tiếp tục phân tích cấu trúc điểm nhìn, giọng kể vai kể ngầm
ẩn trong cấu trúc tác phẩm, cái tới và chưa tới của nó, và cho rằng thử nghiệm mới
này có dụng ý muốn mang đến một “cách nhìn thế giới khác lạ trên những sự kiện
xác thực”. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đặt ra vấn đề về cách đọc văn, một khi

cung cách viết tiểu thuyết đã “lạ hóa” thể hiện sự đổi mới trong tư duy người viết
tiểu thuyết, thì sự thay đổi trong cách đọc là cần thiết và đương nhiên. Đây cũng
chính là vấn đề đặt ra khi nói đến biểu tượng như một phương thức phản ánh của
văn xuôi đương đại. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Hồ Anh Thái, người
mê chơi cấu trúc xem bề sâu cấu trúc trong tác phẩm của Hồ Anh Thái chính là
“khả năng chiếm lĩnh hiện thực ở tầng sâu” [50, tr. 346], nhà nghiên cứu đưa ra
một nhận xét xác đáng: “Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một thế giới vừa giống
thực bằng những chi tiết ngỡ nhặt được từ đời sống ồn tạp, vừa tạo nên một thế giới
ngập đầy những biểu tượng. Thông điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát
lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy chất ảo” [50, tr. 346],. Tác giả Phạm
Chí Dũng trong bài Ám ảnh và dự cảm lại nói đến thủ pháp “kỳ dị hóa với đôi chút
ma quái”, vừa nói đến việc “công khai” việc dùng thủ pháp đó. Thực ra, bản thân
cái hành động công khai thủ pháp ấy không phải là chuyện người viết không có
dụng ý “tung hỏa mù” với người đọc, mà bản thân nó cũng là một thủ pháp mà hiệu
ứng của nó có tác dụng tạo dựng một loại biểu tượng mà chúng tôi sẽ đi sâu phân
tích trong luận văn.
Tác giả Hoài Nam, vận dụng quan điểm về tư duy tiểu thuyết của Bakhtin
khi nói về Chất hài hước, nghịch dị trong Mười lẻ một đêm [49, tr. 299], đã phân

14
tích cách xây dựng tình huống nghịch dị, kiểu nhân vật nghịch dị của Hồ Anh Thái,
xem tiếng cười “suồng sã, lộn trái” ở đây là biểu hiện của một tâm thế tiếp cận đời
sống mới mẻ so với sự nghiêm túc (chất sử thi) trong văn xuôi thời kỳ trước.
Nhìn chung, các nghiên cứu xung quanh Hồ Anh Thái xoay quanh các vấn
đề như: kiểu cấu trúc, chất quái dị và hài hước, giọng điệu giễu nhại, sự biến hóa
trong phong cách… Dù tiếp cận theo hướng nào, tính kỳ ảo, tính biểu tượng là một
mẫu số chung mà hầu hết đều có nhắc đến. Tuy nhiên, cũng như với Nguyễn Huy
Thiệp, những yếu tố này chưa được nhìn nhận một cách hệ thống như những biểu
hiện riêng của một xu hướng chung.
Về sáng tác của Nguyễn Bình Phương, ngược lại với sự hờ hững và xa cách

của phần đông độc giả, giới phê bình lại nhắc đến rất nhiều như một hiện tượng của
văn xuôi đương đại. Phần đông đều thống nhất rằng, đây là một cây bút “lạ”, ngay
từ vài cuốn tiểu thuyết đầu tiên đã định hình được chất riêng của mình, và từ đó đến
nay vẫn đi những bước đều đặn, mỗi tiểu thuyết vừa là một thử nghiệm mới, vừa là
một phần thống nhất trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương. Từ những
góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau, hầu hết những nghiên cứu về tác phẩm của nhà
văn này đều tập trung kiến giải yếu tố kỳ ảo, huyền hoặc, bầu không khí “liêu trai”
linh ảo. Trong đó có rất nhiều kiến giải có giá trị, chỉ ra được đặc trưng thế giới
nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương, cũng như phân tích, lý giải một cách sâu sắc
cách thức và cơ chế xây dựng nên thế giới đó của nhà văn.
Tác giả Thụy Khuê, trên Sóng Từ trường II, trong loạt bài viết về các cuốn
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, đã nhìn nhận yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm của
nhà văn này từ góc độ “khuynh hướng hiện thực kỳ ảo”, đặt trong sự đối sánh với
truyền thống hiện thực kỳ ảo trong văn học phương Tây. Quan niệm thực tại huyền
ảo chính là thực tại thứ nhất được nhìn qua kích thước mộng mơ, trong bài Khuynh
hướng hiện thực kỳ ảo trong tiểu thuyết “Những đứa trẻ chết già” [17], Thụy Khuê
cho rằng tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già là tiểu thuyết thuộc khuynh hướng này
với hai tuyến hiện thực tồn tại song song trong tác phẩm: hiện thực người sống và
hiện thực người chết. Khi phân tích chiều sâu hiện thực trong đó, tác giả Thụy Khuê

15
đã phân tích một số thủ pháp cũng như những biểu tượng đã tham gia tạo nghĩa, tạo
hiệu ứng cảm nhận ở người đọc. Bài Chất hiện thực linh ảo âm dương trong
“Người đi vắng” lại chỉ ra được căn nguyên tạo nên „chất linh ảo âm dương” nằm
trong điểm nhìn mà tác giả kiến tạo nên trong tác phẩm: cuốn tiểu thuyết là một sự
phóng chiếu những điểm nhìn, là hợp âm những giọng của đất, của nước, của cây,
của ký ức không gian, của ký ức thời gian, của cơn mưa rào, của sấm, của những
linh hồn trôi lạc ra khỏi đời thực, của những bãi tha ma… Đó là cái cơ chế chi phối
“giọng” của Người đi vắng. Những phân tích của tác giả Thụy Khuê về Trí nhớ suy
tàn nhằm chứng minh những yếu tố của tiểu thuyết mới thể hiện trong đó [trong bài

viết Những yếu tố của tiểu thuyết mới trong “Trí nhớ suy tàn”], thực ra không nằm
ngoài ý tưởng về “hiện thực huyền ảo” mà tác giả nói trong hai bài viết trên. Tuy
nhiên, việc đưa ra những đặc trưng của tiểu thuyết mới có trong tác phẩm này nhằm
đối lập với quan niệm tiểu thuyết “hiện thực chụp ảnh” một thời, đây cũng là một
góc nhìn cho phép ta có một sự so sánh theo chiều lịch đại để thấy được những
bước vận động của văn xuôi Việt Nam qua hai thời kỳ.
Nhà phê bình Đoàn Cầm Thi, trong Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên (Đọc
Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương) xem Nguyễn Bình Phương là “nhà văn
Việt Nam đương đại đã đẩy cuộc thăm dò về vô thức đi xa nhất ” [52]. Phân tích
ngôn ngữ của người điên trong Thoạt kỳ thủy, tác giả bài viết xem đây là phương
tiện, và cũng là kết quả cuộc phiêu lưu của sáng tạo văn học, đi chông chênh giữa
mơ và điên, mà ở đó, điên không còn được mô tả bằng ngôn ngữ bên ngoài, và vì
thế, không phải như một chứng bệnh, mà “điên” tự thể hiện mình bằng ngôn ngữ,
điên tự mô tả như một trạng thái hiện sinh của một cõi miền lạ lùng nhưng tồn tại
thực trong cuộc sống này. Đó cũng là chiều sâu của lòng thương xót trong văn
Nguyễn Bình Phương, tiềm ẩn phía sau giọng văn hững hờ lạnh nhạt.
Báo cáo nghiên cứu khoa học năm 2007 của tác giả Đoàn Ánh Dương có tên
Nguyễn Bình Phương, lục đầu giang tiểu thuyết là một cái nhìn tổng quan về thế
giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương. Hành trình sáng tác của nhà văn qua 6
tiểu thuyết, được tác giả Đoàn Ánh Dương mô tả như hành trình của một “Lục đầu

16
giang”, trong đó mỗi cuốn tiểu thuyết là một chặng, một khúc, một “chi” của dòng
sông lớn đó. Tác giả nêu rõ quan niệm của mình về phương pháp tiếp cận là: “tìm
hiểu từng chi lưu, rồi phân dòng khi hợp lưu, sẽ là khả dĩ cho việc giải mã thế giới
nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương”. Nếu phần “Chi lưu” tác giả đi qua
từng tiểu thuyết đặt trong tương quan với nhau, giống như những dòng chảy kế tiếp,
vừa liên quan, vừa kế thừa, vừa khác biệt, thì phần hợp lưu đi vào cái mạch nguồn
xuyên suốt những dòng chảy đó. Mạch nguồn xuyên suốt đó, theo tác giả chính là
Phương thức huyền thoại và thi pháp kết cấu. Nhìn chung, bài viết đã dưa ra rất

nhiều kiến giải giá trị, sâu sắc từ những ám ảnh nghệ thuật mà thế giới đó gợi nên,
cho đến những thủ pháp, phương thức biểu hiện mà Nguyễn Bình Phương sử
dụng… Tuy nhiên, trong hệ thống của tác giả, cái gọi là “phương thức huyền thoại”
vẫn rất gần với cái mà nhiều nhà nghiên cứu về văn xuôi đương đại gọi là “cái kỳ
ảo”, “yếu tố kỳ ảo”, và như chúng tôi đã nói ở phần trên, khái niệm này khác với
thuật ngữ biểu tượng mà chúng tôi sử dụng. Cái tác giả gọi là thi pháp kết cấu đặc
trưng của Nguyễn Bình Phương, và tách biệt nó với phương thức huyền thoại, thì
chúng tôi cho đó là một trong những phương thức xây dựng biểu tượng được
Nguyễn Bình Phương xử lý theo cách riêng của mình.
Nhìn chung, là những nhà văn nổi bật làm nên diện mạo của văn xuôi đương
đại, ba tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương đều đã được
nghiên cứu rất nhiều trong các công trình riêng cũng như các côôtng trình về văn
xuôi nói chung. Điểm đặc biệt là, hầu hết các công trình có giá trị đề cập đến những
thành tựu của văn xuôi đương đại đều nói đến vấn đề liên quan đến biểu tượng, và
đều nói đến ba tác giả trên như những dẫn chứng tiêu biểu. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào tiếp cận một cách hệ thống ba tác giả với tư cách là những hiện
tượng tiêu biểu cho một xu hướng lớn nổi bật, đã có những thành tựu và còn tiến xa
trong tương lai: xu hướng sử dụng biểu tượng như một phương thức phản ánh của
văn xuôi đương đại. Góc nhìn này vừa cho ta thấy mối liên hệ đầy chiều sâu giữa
khả năng tạo nghĩa không cùng của văn chương với nền tảng sống động và đầy tiềm
năng của nền văn hóa, đồng thời cho chúng ta một cái nhìn về quy luật vận động nội

17
tại, sự thay đổi phương thức, phương tiện biểu hiện của văn xuôi đặt trong sự kế tục
dòng chảy văn xuôi thời kỳ trước. Đó chính là điều mà luận văn hướng tới từ hướng
tiếp cận của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn của chúng tôi hướng tới những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đưa ra một cách hiểu, một ý niệm rõ ràng nhất có thể về khái niệm
biểu tượng làm công cụ cho quá trình nghiên cứu.

Thứ hai, tiến hành khảo sát thế giới biểu tượng trong truyện ngắn ba tác giả
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương ở các phương diện: mô tả,
giải mã những biểu tượng nổi bật; tìm hiểu, phân tích các thủ pháp, các phương
thức xây dựng biểu tượng, hướng tới lý giải sức hấp dẫn và những cách tân về nghệ
thuật tự sự của các nhà văn trên.
Thứ ba, trong quá trình đó, luận văn bước đầu cắt nghĩa vì sao biểu tượng lại
là hình thức phản ánh được lựa chọn như một khuynh hướng lớn trong dòng mạch
văn học Việt Nam đương đại.
Phạm vi khảo sát của luận văn bao gồm toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp, một số truyện ngắn và tiểu thuyết của Hồ Anh Thái thiên về sử dụng
biểu tượng và toàn bộ tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Cũng xin lưu ý rằng,
không phải tất cả các tác phẩm của ba tác giả này, nhất là ở Hồ Anh Thái, đều sử
dụng biểu tượng, tuy nhiên, thành công của họ tập trung ở những tác phẩm sử dụng
phương thức biểu tượng. Đó sẽ là đối tượng khảo sát của chúng tôi. Ngoài ra, luận
văn còn mở rộng, đối chiếu với những tác giả khác nổi bật trong việc sử dụng biểu
tượng của văn xuôi đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà luận văn sử dụng là: Thống kê - phân
loại, phân tích – tổng hợp, so sánh.

18
5. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn bao gồm các phần

Mở đầu
Chương 1. Khái lược về Biểu tượng và hành trình sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương
1.1. Giới thuyết khái niệm Biểu tượng
1.1.1. Một số định nghĩa về Biểu tượng:
1.1.2. Biểu tượng trong văn học nghệ thuật- một loại hình tượng đặc biệt

1.1.3. Biểu tượng và hành trình kiếm tìm phương thức biểu hiện của văn học
Việt Nam từ sau 1975
1.2. Biểu tượng và quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Bình Phương
1.2.1. Nguyễn Huy Thiệp – “ngọn gió lạ” thời kỳ Đổi Mới
1.2.2. Hồ Anh Thái với hành trình sáng tác bền bỉ
1.2.3. Con đường tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
Chương 2: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái và Nguyễn Bình Phương
2.1. Thành thị và những huyền thoại của cuộc sống hiện đại
2.2. Biểu tượng nông thôn
2.3. Những cõi miền phi-thực-có-thực
2.4. Tự nhiên – nơi con người tìm về bản nguyên của mình
2.4.1. Thiên nhiên – Những quy luật vĩnh hằng của tạo hóa
2.4.2. Con người – hạt thiện nguyên khối
2.5. Giải huyền thoại – Những biểu tượng có tính gây hấn mạnh
Chương 3: Phương thức xây dựng biểu tượng – những cách tân trong nghệ
thuật tự sự
3.1. Hư cấu nghệ thuật
3.1.1. Sự gia tăng của các yếu tố kỳ ảo

19
3.1.2. Tạo dựng những tọa độ không-thời gian đặc biệt
3.2. Những cách tân trong nghệ thuật kết cấu
3.2.1. Các kiểu kết cấu – mô hình mang ý nghĩa biểu trưng cao
3.2.2. Tạo dựng cái nhìn đa trị bằng việc tổ chức các điểm nhìn trần thuật
3.2.3. Các yếu tố ngoài cốt truyện
3.3. Những phương thức sử dụng ngôn ngữ
3.3.1. Lặp
3.3.1.1. Lặp ở cấp độ ngôn từ

3.3.1.2. Lặp ở cấp độ hình ảnh
3.3.2. Giễu nhại
Kết luận
Chương 1: Khái lược về Biểu tượng và hành trình sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương

1.1. Giới thuyết khái niệm Biểu tượng
1.1.1. Một số định nghĩa về Biểu tượng
Thuật ngữ Biểu tượng trong tiếng Việt có xuất xứ từ thuật ngữ Symbole trong
tiếng Pháp. Thuật ngữ này được dịch sang tiếng Việt thành Biểu tượng hoặc Tượng
trưng. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, khái niệm Tượng trưng không nằm cùng bình
diện với Biểu tượng. Cách dịch thành Biểu tượng được chấp thuận rộng rãi hơn.
Biểu tượng là một khái niệm rất quen thuộc trong đời sống thường ngày cũng
như trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Tuy vậy, đây lại là một khái niệm vào
loại rất phức tạp và chưa có sự đồng thuận trong cách hiểu cũng như cách sử dụng.
Ngày nay, trong xu thế phát triển vừa chuyên sâu vừa liên thông với nhau, các
ngành khoa học gặp gỡ nhau ở sự phát hiện và khẳng định vai trò của biểu tượng
trong đời sống con người, và cùng hợp lực trong hành trình tiếp cận bản chất biểu
tượng. Từ những góc độ của các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, người ta đã khám
phá ở biểu tượng nhiều khía cạnh, chúng vừa bổ sung lẫn nhau, vừa có thể trái

20
ngược nhau, cho ta hình dung về tính năng động và sự đa diện của khái niệm này.
Sau đây, chúng tôi xin nêu lên một số định nghĩa, kiến giải tiêu biểu về biểu tượng.
Trong Từ điển tiếng Việt, trên cơ sở khảo sát cách dùng thuật ngữ biểu tượng
trong đời sống hàng ngày, các soạn giả đã nêu lên ba nét nghĩa của biểu tượng. Ở
đây, chúng tôi chỉ nêu lên hai nét nghĩa có liên quan dến cách hiểu biểu tượng của
luận văn:
1. Hình ảnh tượng trưng.
2. Hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn

giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt.
Ở định nghĩa này, cần lưu ý: Ở nét nghĩa thứ nhất, hình ảnh tượng trưng
được hiểu là một sự vật cụ thể có hình thức hoặc tính chất thích hợp để gợi ra sự
liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó. Còn nét nghĩa thứ hai được rút ra từ tâm
lý học Macxit.
Ngày nay, trong các ngành PR, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, xây dựng
thương hiệu, và cả trong kỹ thuật tuyên truyền chính trị… người ta sử dụng biểu
tượng như một hình thức tín hiệu đầy tiềm năng thông tin và có khả năng tác động
mạnh mẽ. Trong cuốn Biểu trưng, tác giả Nguyễn Duy Lẫm, trên cơ sở tìm hiểu, so
sánh, đối chiếu biểu tượng với các dạng thức tín hiệu như biểu trưng, phù hiệu, huy
hiệu, kí hiệu, huy chương, huân chương… đã kết luận: Biểu tượng là hình thức tín
hiệu có nội hàm phong phú hơn cả. Tác giả cho rằng: “Biểu tượng là những hình
tượng ẩn dụ, mang sức mạnh của tâm thức, thường được bảo tồn lâu bền trong kí
ức con người” [18].
Hầu hết các ngành khoa học, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội và nhân
văn như lịch sử các nền văn minh, các tôn giáo, ngôn ngữ học, tâm lý học, y học …
đều quan tâm và có những kiến giải riêng về biểu tượng. Trong lịch sử phát triển
của mỗi ngành, ở các trường phái, khuynh hướng, trào lưu với những gốc rễ tư
tưởng triết học khác nhau, quan niệm về biểu tượng dĩ nhiên không thuần nhất.
Giữa một sự ngổn ngang như vậy của những cách hiểu khác nhau, các soạn
giả công trình Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới phải có một sự nỗ lực rất lớn để

21
có thể tổng thuật những thông tin cơ bản, tiêu biểu về biểu tượng xoay quanh trục
văn hoá, và có một sự tiếp cận hợp lý về mặt thuật ngữ mà không làm khái niệm trở
nên chết cứng. Sau khi so sánh biểu tượng với các dạng dấu hiệu, ký hiệu; các soạn
giả đã phân tích bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng các chức năng
của biểu tượng và điểm qua những cách phân loại biểu tượng nổi bật. Tất nhiên ở
một mức độ nào đó, những ý kiến được lựa chọn nêu ra ở đây là phù hợp với quan
niệm các soạn giả.

Lần theo lịch sử biểu tượng, khi nói đến những sự vật có thể mang giá trị
biểu tượng, các soạn giả đã dẫn ra ý kiến của Pierre Emmanuel: “Vật ở đây không
chỉ là một sinh thể hay một sự vật thực mà cả một khuynh hướng, một hình ảnh ám
ảnh, một giấc mơ, một hệ thống định đề được ưu tiên, một hệ thuật ngữ quen
dùng… tất cả những gì cố định năng lượng tâm thần hay huy động năng lượng ấy vì
lợi ích riêng của mình …” [4, tr. 24]. Như vậy, vật mang giá trị biểu tượng có thể là
một vật cụ thể hoặc vật trừu tượng.
Chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi phần lớn các ý kiến được trích dẫn là
của các nhà phân tâm học - những nhà tiên phong vĩ đại trong việc phát giác và
khảo sát lĩnh vực vô thức của con người. Với những khám phá táo bạo của mình, họ
đã làm sáng tỏ cấu trúc chiều sâu của đời sống tâm linh con người với sức mạnh, vai
trò của vô thức. Họ cũng đưa ra những lý giải thú vị và sâu sắc những hiện tượng
tâm linh bấy lâu vẫn chìm trong bóng tối. Biểu tượng được các nhà Phân tâm học
quan tâm một cách đặc biệt, thậm chí trở thành một trong những đối tượng khảo sát
chủ yếu, bởi rằng, theo họ, đây là những cầu nối hiếm hoi bắc từ ý thức qua vô thức;
là những tia sáng vừa phát lộ vừa che lấp phát ra từ miền nội tâm của con người.
Freud cho rằng: “Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít
nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết
thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa
tiềm ẩn của chúng” [4, tr. 24]. Như vậy, theo Freud, biểu tượng luôn là tiếng nói
của những ham muốn bị dồn nén, những xung đột chìm sâu trong vô thức con

22
người. Cũng cần lưu ý rằng, những ham muốn ở đây, theo Freud, là những ham
muốn tính dục.
C.G.Jung - môn đệ xuất sắc của Freud - với hướng đi riêng của mình, đã có
rất nhiều đóng góp có giá trị trong kiến giải biểu tượng. Từ lý thuyết về vô thức tập
thể, Jung cho rằng tất cả những biểu tượng của con người dù phong phú đa dạng
đến đâu, đi đến tận cùng, đều có cấu trúc là những Mẫu gốc. Mẫu gốc là những vết
tích tâm lý hình thành từ thời nguyên thuỷ, di truyền theo loài và tạo thành những

cấu trúc tâm thần phổ biến của loài người. Thực ra, đây là sự kết tinh của vô số
những kinh nhiệm, những tình huống cảm xúc của loài người. Biểu tượng mẫu gốc,
do đó, nối liền cái phổ quát với cái cá thể. Jung đã đưa ra định nghĩa trong đó nêu
bật được những đặc tính, những giá trị cơ bản của biểu tượng: “Biểu tượng là hình
ảnh thích hợp chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh…
biểu tượng không bó chặt gì hết, nó không cắt nghĩa, nó đưa ta ra bên ngoài chính
nó đến một ý nghĩa còn nằm ở tận phía xa kia, không thể nắm bắt; được dự cảm
một cách mơ hồ, và không có từ nào trong ngôn ngữ chúng ta có thể diễn đạt thoả
đáng” [4, tr. 24]. Nói đến tính chất sống động, khả năng đánh thức những sức mạnh
tâm linh con người của biểu tượng, Jung cho rằng, biểu tượng sống là “biểu hiện
tuyệt đỉnh của cái được dự cảm nhưng còn chưa nhận ra được”, và “nó giục gọi vô
thức tham gia, nó đẻ ra sự sống và kích thích sự sống”. Vì vậy, biểu tượng có thể
tạo nên những âm vang đồng vọng sâu xa trong con người, cuốn con người tham gia
cùng nó trong một quá trình sản sinh ý nghĩa.
Định nghĩa của R.de Becker đã nói đến tính chất này của biểu tượng: “Có
thể ví biểu tượng như một khôí tinh thể phục nguyên lại theo cách khác nhau nguồn
sáng tuỳ theo từng mặt tinh thể tiếp nhận ánh sáng. Và ta còn có thể nói nó là một
thể sống, một mẫu của con người ta đang chuyển động và biến đổi. Đến cứ nhìn
ngắm nó, nắm bắt nó như là đối tượng của suy ngẫm, thì cũng tức là ta đang nhìn
ngắm chính cái quỹ đạo ta sắp lần theo, ta nắm bắt cái hướng vận động đang lôi
kéo con người ta đi tới” [4, tr. 25]. Tuy nhiên, tính chất này của biểu tượng phụ
thuộc nhiều vào chủ thể tiếp nhận. Sự thụ cảm biểu tượng đòi hỏi ở con người một

23
thái độ nhập cuộc thực sự để tham gia vào biểu tượng bằng tất cả con người mình.
Mặt khác, mỗi biểu tượng có thể xem như một vũ trụ tinh thần thu nhỏ với quy luật
riêng, toạ độ riêng của nó. Do đó, để nắm bắt biểu tượng cần phải đặt nó vào “dung
môi” nuôi sống nó, tìm ra cái tọa độ mà nó tồn tại.
Trên đây là những lý giải về biểu tượng đã được các soạn giả Từ điển biểu
tượng văn hoá thế giới trích dẫn trong phần Mở đầu của công trình. Những kiến giải

đó phần nào làm sáng tỏ nguồn gốc, cấu trúc, tính chất của biểu tượng trong đời
sống văn hoá nhân loại. Cũng trong phần này, các soạn giả đã tiến hành sự trừu xuất
và phân tích các chức năng của biểu tượng. Tóm lại có các chức năng sau: 1- thăm
dò những vùng miền nằm bên lề ý thức; 2- là vật thay thế “cái không xác định của
dự cảm”; 3- trung gian: nối liền thực và mộng, ý thức và vô thức, vật chất và tinh
thần, tự nhiên và văn hoá; 4- là lực thống nhất - liên kết các chiều sâu nội tại với cái
siêu tại vô tận; 5- giáo dục và trị liệu; 6- xã hội hoá, nghĩa là đưa con người nhập
sâu vào hiên thực, tạo sự lưu thông sâu sắc với môi trường xã hội; 7- cộng hưởng:
tạo âm vang rung động trong ý thức cá nhân và tập thể; 8- chức năng siêu nghiệm:
kết nối, điều hoà những lực lượng đối kháng, mở đường cho sự tiến bộ của ý thức;
9- chức năng biến đổi năng lượng tâm thần.
Đây chỉ là một sự trừu xuất có ý nghĩa thao tác. Các tác giả cũng đã lưu ý
rằng, trên thực tế, những chức năng này được thực hiện đồng thời trong một mối
quan hệ tương hợp, chi phối lẫn nhau.
Trên đây, chúng tôi đã điểm qua một số định nghĩa về biểu tượng từ góc độ
văn hoá và tất yếu không thể tránh khỏi sự sơ lược và phiến diện so với thực tế đầy
đa dạng và phức tạp. Đây là một cái “phông” không thể thiếu để chúng ta đi vào
tiếp cận khái niệm từ góc độ mỹ học, lý luận văn học.
Xuất phát từ những nên tảng triết học khác nhau, các khuynh hướng, trường
phái nghiên cứu phê bình văn học có những cách lý giải không giống nhau về biểu
tượng. Trên cơ sở tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong những quan niệm đó, dưới
ánh sáng phản ánh luận Mac-Lênin, mỹ học, lý luận văn học Macxit đã lý giải một
cách thoả đáng vấn đề biểu tượng trong văn học nghệ thuật.

×