ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA VƯỜN
TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH TRƯỚC 1945
NGUYỄN THỊ NGA
Khoa Ngữ văn
Tóm tắt: Trên cơ sở phân chia các tiểu trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ
Nguyễn Bính trƣớc 1945, trong bài báo này, chúng tơi đi sâu phân tích các
đặc điểm ngữ pháp của chúng, bao gồm đặc điểm từ loại, chức năng cú pháp
(ở cấp độ ngữ đoạn và cấp độ câu), từ đó đƣa ra những khám phá mới về
phong cách ngơn ngữ thơ Nguyễn Bính.
Từ khóa: trƣờng nghĩa, vƣờn, thơ Nguyễn Bính
1. DẪN NHẬP
Trong tiếng Việt, việc tập hợp các từ trong vốn từ vựng lại với nhau theo quan hệ cùng
trƣờng tạo điều kiện cho việc nghiên cứu sự phong phú về vốn từ trong một ngôn ngữ,
đồng thời còn cho thấy đặc trƣng tƣ duy của con ngƣời trong q trình sử dụng. Trong
hệ thống ngơn ngữ , có hai dạng quan hệ chung nhất là: quan hệ trực tuyến (quan hệ
dọc) và quan hệ tuyến tính (quan hệ ngang). Căn cứ vào các dạng quan hệ đó, có thể
phân loại các trƣờng nghĩa thành: trƣờng nghĩa biểu vật và trƣờng nghĩa biểu niệm
(trƣờng nghĩa dọc), trƣờng nghĩa tuyến tính (trƣờng nghĩa ngang). Ngồi ra, có thể kể
đến trƣờng liên tƣởng vừa có tính chất trƣờng nghĩa dọc vừa có tính chất trƣờng nghĩa
ngang do tính chất liên hội. Khảo sát các đặc điểm ngữ pháp của lớp từ thuộc một
trƣờng từ vựng – ngữ nghĩa trong một phong cách ngôn ngữ cụ thể là việc làm cần thiết,
góp phần xây dựng bức tranh hồn chỉnh về lớp từ đó trong thực tế sử dụng. Với việc
vận dụng quan điểm Ngôn ngữ học chức năng của Cao Xuân Hạo, chúng tơi đã thực
hiện việc tìm hiểu các đặc điểm ngữ pháp của lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong
thơ Nguyễn Bính trƣớc năm 1945. Có thể thấy rằng, nghiên cứu ngơn ngữ văn chƣơng
dƣới góc nhìn ngơn ngữ học là cách làm đang đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và
là hƣớng đi khả dụng cho những tìm tòi mới.
Trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, Nguyễn Bính là một tên tuổi tiêu biểu cho phong
cách thơ “chân quê”. Trong thơ ông, trƣờng từ vựng – ngữ nghĩa về “vƣờn” là một bộ
phận khá phong phú và mang đƣợc những đặc sắc riêng của ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính,
đặc biệt là bộ phận thơ trƣớc năm 1945. Nghiên cứu về trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ
Nguyễn Bính trƣớc năm 1945 trên bình diện Ngữ pháp là cách tiếp cận mới đối với một
phong cách ngôn ngữ thơ ca tƣởng đã quen thuộc này.
2. CÁC TIỂU TRƢỜNG NGHĨA “VƢỜN” TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH TRƢỚC 1945
2.1. Tiêu chí phân lập các tiểu trường
Theo Hoàng Phê trong “Từ điển Tiếng Việt” thì “vƣờn” đƣợc định nghĩa “là khu đất
thƣờng ở sát cạnh nhà, đƣợc rào kín xung quanh để trồng rau, hoa hay cây ăn quả” [5,
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2015-2016
Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học Huế, tháng 12/2015, tr: 173-181
174
NGUYỄN THỊ NGA
tr. 1.446]. Nhìn chung, khái niệm “vƣờn” đƣợc hiểu với tƣ cách là một bộ phận của ngôi
nhà và bản thân “vƣờn” cũng là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố tạo thành. Tính hệ
thống của khái niệm “vƣờn” là một điều kiện và cũng là tiêu chí cho sự phân lập các
tiểu trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính. Dựa trên cở sở lý thuyết về trƣờng từ
vựng – ngữ nghĩa, căn cứ vào nét nghĩa chung lớn nhất là “vƣờn” cùng với sự gặp gỡ
của các nét nghĩa riêng của các từ mà Nguyễn Bính sử dụng trong thơ, có thể phân chia
trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính thành các tiểu trƣờng theo các tiêu chí sau:
Theo mối quan hệ ngang (tuyến tính), có thể thấy khả năng kết hợp với từ “vƣờn” để tạo
thành tiểu trƣờng chỉ tên gọi của “vƣờn” của các từ trong thơ Nguyễn Bính.
Căn cứ vào sự tƣơng đồng trong nét nghĩa biểu vật của từ để phân lập thành các tiểu
trƣờng chỉ đặc điểm của “vƣờn” và chỉ bộ phận của “vƣờn”.
Dựa trên cấu trúc biểu niệm (hoạt động) (của ngƣời) (có cách thức) (tiến hành trong
vƣờn) để phân lập tiểu trƣờng chỉ hoạt động của con ngƣời trong “vƣờn”.
2.2. Hệ thống các tiểu trường
Bảng 1. Bảng thống kê các tiểu trường nghĩa “vườn” trong thơ Nguyễn Bính trước 1945
Tiểu trường
Tên gọi của “vƣờn”
Số lượng
Tỉ lệ (%)
37
41,6
Đặc điểm của “vƣờn”
6
6,7
Bộ phận của “vƣờn”
34
38,2
Hoạt động của con ngƣời trong “vƣờn”
12
13,5
Qua khảo sát, có thể thấy tiểu trƣờng chỉ tên gọi của “vườn” trong thơ Nguyễn Bính rất
phong phú, bao gồm 37 đơn vị khác nhau. Trong cơng trình Trường nghĩa “vườn”
trong thơ ca Việt Nam và sự tri nhận về ý niệm “vườn”, Nguyễn Thị Huyền đã khảo sát
đƣợc 16 đơn vị chứa tên gọi của “vƣờn”. Có thể thấy, con số mà Nguyễn Bính đem lại
cho tên gọi “vƣờn” đã thể hiện phần nào tài năng và sự sáng tạo của nhà thơ. Tiểu
trƣờng nghĩa chỉ tên gọi của “vƣờn” là một tiểu trƣờng nghĩa tuyến tính, do đó, có thể
dựa trên mơ hình của Nguyễn Thị Huyền để phân tích các yếu tố trong tiểu trƣờng này
nhƣ sau:
1- Tên gọi = yếu tố đơn vị (có hoặc khơng) + yếu tố chỉ loại: đây là mơ hình tạo ra tên
gọi khái quát mà trong thơ Nguyễn Bính, ta bắt gặp 2 đơn vị: mảnh vườn (1 lần), vườn
(11 lần).
2- Tên gọi = yếu tố chỉ loại + yếu tố chỉ đặc điểm riêng: đây là mơ hình tên gọi cụ thể
của “vƣờn”. Trong thơ Nguyễn Bính, ta có thể chia nhóm tên gọi này thành các nhóm
nhỏ. 1/ yếu tố chỉ loại + bộ phận của vƣờn:14 đơn vị. Đây là nhóm phong phú nhất, bao
gồm: vườn dâu (7 lần), vườn chè (3 lần), vườn hồng (3 lần), vườn cải (3 lần), vườn đào
(3 lần), vườn cam (2 lần), vườn lê (2 lần), vườn hoa nở (1 lần), vườn mía (3 lần), vườn
hoa cúc (1 lần), vườn cúc (1 lần), vườn cây (1 lần), vườn đất (2 lần), vườn mai (1 lần).
2/ yếu tố chỉ loại + chủ thể của vƣờn: 5 đơn vị: vườn tôi (2 lần), vườn ai (1 lần), vườn
ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƢỜNG NGHĨA VƯỜN…
175
nhà (1 lần), vườn anh (1 lần), vườn tiên giới (1 lần). 3/ yếu tố chỉ loại + tính chất của
vƣờn: 8 đơn vị: vườn hoang (4 lần), vườn tiên (2 lần), vườn trần (1 lần), vườn cũ (3
lần), vườn vắng (1 lần), vườn ngự (1 lần), vườn hoa nở (1 lần), vườn suông (1 lần). 4/
yếu tố chỉ loại + tên riêng: 4 đơn vị: vườn Thanh (5 lần), vườn Thượng uyển (1 lần),
vườn Ngự uyển (1 lần), vườn Nam (1 lần). 5/ yếu tố chỉ loại + thời gian: 3 đơn vị: vườn
xuân (1 lần), vườn chiều (1 lần), vườn khuya (1 lần). 6/ yếu tố chỉ loại + từ chỉ xuất: 1
đơn vị: vườn này (1 lần).
Tiểu trường chỉ đặc điểm của “vườn” trong thơ Nguyễn Bính là tiểu trƣờng nhỏ nhất
với ít thành phần nhất. Trong tiểu trƣờng này, chúng tôi khảo sát đƣợc 6 đơn vị: xác xơ
(1 lần), xa vắng (1 lần), xiêu (1 lần), vắng (1 lần), hoang (4 lần), mới (1 lần).
Tiểu trường chỉ bộ phận của “vườn” là một trƣờng nghĩa biểu vật, bao gồm những từ
có sự đồng nhất về ý nghĩa biểu vật chỉ bộ phận của khu vƣờn. Ở đây, chúng tôi khảo
sát những bộ phận vô sinh và hữu sinh tồn tại trong một khu vƣờn. Tiểu trƣờng này gồm
34 đơn vị: giậu (5 lần), giàn (6 lần), bờ (3 lần), dây (2 lần), đất (1 lần), cây (11 lần),
hoa (47 lần), lá (17 lần), bông (2 lần), cành/nhành (5 lần), chồi (1 lần), cúc (4 lần), cau
(1 lần), trầu/giầu (3 lần), mồng tơi (1 lần), dâu (7 lần), bưởi (2 lần), cải (1 lần), cam (4
lần), đào (1 lần), cần (2 lần), xoan đào (1 lần), cỏ (5 lần), xương rồng (1 lần), rau (2
lần), quả/trái (2 lần), hoa màu (1 lần), chuối (1 lần), cùi dừa (1 lần), bướm (22 lần),
chim (3 lần), mẫu đơn (1 lần), hồng(2 lần), đào (1 lần) . Do hiện tƣợng nhiều nghĩa biểu
vật nên các từ chỉ cây cối trong khu vƣờn còn thuộc các trƣờng nghĩa biểu vật khác dựa
trên nét nghĩa thực vật. Do vậy, trong thơ Nguyễn Bính, ta có thể bắt gặp rất nhiều các
từ chỉ thực vật nhƣ hoa, lá, cành, mai, cúc,…xuất hiện trong ngữ cảnh cho phép ta xác
định nó thuộc trƣờng nghĩa thực vật chung: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan
lớp lớp rụng vơi đầy; Bỗng một ngày hè hoa phượng thắm/ Nở đầy trong lá phượng
xanh tươi hoặc thuộc các trƣờng nghĩa khác: Lá rơi theo gió lá bay/ Bên hồ ta đứng
đắm say ta nhìn; Lữ hành bắc gặp quán cơm/ Bầy ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng;…
Khi khảo sát những từ chỉ sinh vật trong vƣờn, chúng tôi chỉ xét những trƣờng hợp xuất
hiện trong ngữ cảnh cho phép xác định nó là bộ phận của “vƣờn”. Trong tiểu trƣờng chỉ
bộ phận của “vƣờn”, có thể thấy có những từ đƣợc sử dụng nhiều lần nhƣ hoa (47 lần),
bướm (22 lần), lá (17 lần).
Tiểu trường chỉ hoạt động của con người trong “vườn”không phải là một tiểu trƣờng
đa dạng nhƣng lại có những giá trị quan trọng khi phân tích ngơn ngữ thơ Nguyễn Bính.
Có 12 đơn vị thuộc tiểu trƣờng này: hái (10 lần), nhặt (5 lần), đốn (2 lần), trồng/giồng
(9 lần), chặt (1 lần), xem (2 lần), đuổi (1 lần), bắt (2 lần), ngắt (1 lần), hôn hoa (1 lần),
trẩy (1 lần),thăm (2 lần).Qua lớp từ tìm thấy trong tiểu trƣờng này, có thể thấy rằng,
Nguyễn Bính nói về vƣờn nhƣng khơng phải là quan tâm tới những lao động trong khu
vƣờn mà để thể hiện những tâm hồn quê nhẹ nhàng, lắm lúc mơ mộng. Theo cấu trúc
biểu niệm (hoạt động) (của ngƣời) (có cách thức) (tiến hành trong vƣờn) thì tiểu trƣờng
chỉ hoạt động của con ngƣời trong “vƣờn” không còn đơn thuần là những từ chỉ hoạt
động tác động vật lý của con ngƣời đến khu vƣờn mà nó bao hàm cả những hoạt động
176
NGUYỄN THỊ NGA
tâm lý diễn ra khi con ngƣời ở trong vƣờn, có liên quan đến vƣờn. Đặc điểm này tạo ra
một khả năng chuyển nghĩa cao trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính.
3. ĐẶC ĐIỂM TỪ LOẠI CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƢỜNG NGHĨA “VƢỜN”
TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH TRƢỚC NĂM 1945
“Từ loại – đó là sự phân định vốn từ của một ngôn ngữ cụ thể thành những loại, những
lớp hạng dựa vào những đặc trƣng ngữ pháp” [6, tr. 8]. Sự phân định từ loại “chính là
dựa vào mối quan hệ giữa tƣ duy với phạm trù từ loại; mỗi từ đƣợc coi là một đơn vị
hoàn chỉnh về nghĩa và ngữ pháp, thể hiện sự thống nhất giữa cái biểu hiện và cái đƣợc
biểu hiện” [6, tr. 13] Theo quan điểm của Ngôn ngữ học chức năng, Cao Xuân Hạo đƣa
ra hệ thống từ loại tiếng Việt bao gồm: danh từ, đại từ, vị từ, lƣợng từ, tình thái từ, liên
từ, giới từ.
Có thể phân định từ loại cho lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính
nhƣ sau:
Số lượng
Từ loại
Danh từ
Vị từ
Danh từ đơn vị
Danh từ khối
Vị từ trạng thái không
thƣờng tồn
VTHĐ chuyển vị
VTHĐ chuyển thái
Vị từ
VTHĐ tạo tác
hành động
VTHĐ tri giác
Tiểu trường
4
Bộ phận của “vƣờn”
29
6 Đặc điểm của “vƣờn”
3
4 Hoạt động của con ngƣời
1 trong “vƣờn”
3
Tiểu trƣờng chỉ bộ phận của “vƣờn” là những danh từ nhƣng lại đƣợc phân chia khá
phức tạp do tính chất thành phần của nó. Nhóm các từ chỉ bộ phận thuộc về kết cấu của
“vƣờn” (vô sinh) gồm những danh từ đơn vị: mảnh vườn, giàn, giậu, bờ. Nhóm từ chỉ
sinh vật và đất đai trong “vƣờn” bao gồm những danh từ khối: đất, hoa, lá, cúc, cau,
trầu/giầu, mồng tơi, dâu, bưởi, cải, cam, cần, xoan đào, đào, cỏ, xương rồng , rau, hoa
màu, chuối, cùi dừa, bướm, chim, chồi, dây, quả/trái. Một số từ trong nhóm này là
những danh từ khối chỉ chủng loại, đƣợc chuyển loại thành các danh từ đơn vị: cây,
giàn, giậu.
Tiểu trƣờng chỉ đặc điểm của khu vƣờn bao gồm những từ thuộc nhóm vị từ trạng thái
không thƣờng tồn (vật trạng). Những vị từ này biểu thị tính chất và tình trạng của khu
vƣờn: xác xơ, xa vắng, xiêu, vắng, hoang, mới. Tuy nhiên, khi đi vào thơ Nguyễn Bính,
một số từ thuộc nhóm này đã có sự chuyển loại từ một vị từ trạng thái không thƣờng tồn
sang một vị từ trạng thái thƣờng tồn: Một bông cúc nở trong vườn vắng; Một thửa vườn
hoang bên cạnh am. Có thể thấy, vắng, hoang vốn khơng phải là một trạng thái thuộc về
tính chất thƣờng tồn của khái niệm “vƣờn”. Nhƣng ở đây, Nguyễn Bính đã dùng các từ
này để gọi tên, định danh cho “vƣờn” nhƣ là một trạng thái thuộc về bản chất, thƣờng
tồn của “vƣờn”. Sự chuyển loại này mang tính chất tạm thời và thuộc về sáng tạo nghệ
thuật của Nguyễn Bính.
ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƢỜNG NGHĨA VƯỜN…
177
Tiểu trƣờng chỉ hoạt động của con ngƣời trong “vƣờn” bao gồm những vị từ hành động,
đƣợc phân chia cụ thể nhƣ sau: Vị từ hành động chuyển vị: đuổi, bắt, nhặt; vị từ hành
động chuyển thái: hái, chặt, ngắt, trẩy; vị từ hành động tạo tác: trồng/giồng; vị từ hành
động tri giác: xem, hôn, ngắm.
Sự phân định từ loại của lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” nhƣ trên cho thấy, Nguyễn
Bính sử dụng một vốn từ khá phong phú về “vƣờn”. Việc tạo ra những sắc thái biểu
cảm, những khả năng kết hợp mới cho lớp từ thuộc trƣờng nghĩa này đã tạo nên màu sắc
riêng cho thơ ông.
4. CHỨC NĂNG CÚ PHÁP CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƢỜNG NGHĨA “VƢỜN”
TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH TRƢỚC 1945
4.1. Ở cấp độ ngữ đoạn
4.1.1. Chức năng làm thành tố trung tâm
Kết quả phân chia từ loại đã cho thấy, lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ
Nguyễn Bính trƣớc năm 1945 bao gồm danh từ và vị từ. Đặc điểm về từ loại này quy
định chức năng cú pháp của chúng ở cấp độ ngữ đoạn: lớp từ này có khả năng làm thành
tố trung tâm của các ngữ danh từ và ngữ vị từ. Qua khảo sát 58 bài thơ có xuất hiện lớp
từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn”, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Bính đã tạo ra một hệ thống
các ngữ đoạn khá phong phú.
Phân loại ngữ
Ngữ danh từ
Ngữ vị từ
Ngữ đoạn
Số lượng
144
25
Tỉ lệ (%)
85,2
14, 8
Thành tố trung tâm do lớp từ thuộc
trường nghĩa “vườn” đảm nhận
Số lượng
Tỉ lệ (%)
24
64,9
13
35,1
Dựa trên chất liệu các tiểu trƣờng tên gọi, bộ phận, đặc điểm của “vƣờn”, Nguyễn Bính
đã tạo nên 144 ngữ danh từ với 24 thành tố trung tâm do lớp từ thuộc trƣờng nghĩa
“vƣờn” đảm nhận, trong đó, có thể kể đến một số ngữ cơ bản nhƣ:
Ngữ gọi tên “vườn” với thành tố trung tâm là “vƣờn”. Trong nhóm này có đến 40 ngữ
đƣợc tạo ra. Với yếu tố “vƣờn”, nhà thơ đã kết hợp cho nó những định ngữ chỉ loại nhƣ:
hoa, cây, đào, cúc, lê, mía,…; những định ngữ hạn định nhƣ: Thanh, Ngự Uyển, Nam,
tôi, nhà, anh, chiều, khuya,…; những định ngữ miêu tả nhƣ: vắng, hoang,... Nhìn chung,
thành tố trung tâm vườn là một thành tố có nhiều khả năng kết hợp để tạo thành ngữ
danh từ. Các ngữ danh từ đƣợc tạo ra bởi thành tố trung tâm chỉ loại vườn này chính là
tiểu trƣờng chỉ tên gọi của vƣờn trong hệ thống các tiểu trƣờng thuộc trƣờng nghĩa
“vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính.
Ngữ danh từ chỉ các bộ phận trong khu vườn với thành tố trung tâm là các danh từ
trong lớp từ thuộc tiểu trƣờng chỉ bộ phận của “vƣờn” nhƣ: hoa (20 ngữ đoạn), bướm (4
ngữ đoạn), lá (9 ngữ đoạn), cây (5 ngữ đoạn), cành (4 ngữ đoạn), giậu (5 ngữ đoạn),…
Trung tâm hoa là thành tố trung tâm có nhiều khả năng kết hợp nhất trong thơ Nguyễn
Bính với các định ngữ chỉ loại nhƣ: cam, cúc, lê, đào,…; định ngữ hạn định nhƣ: vườn
178
NGUYỄN THỊ NGA
Thượng Uyển; các định ngữ miêu tả nhƣ: tươi, non, trắng, vàng,… Qua thống kê, có thể
thấy rằng hầu nhƣ tất cả các danh từ thuộc tiểu trƣờng bộ phận của “vƣờn” đều trở
thành trung tâm trong các ngữ danh từ chỉ bộ phận của “vƣờn”.
Các ngữ vị từ trong thơ Nguyễn Bính đƣợc tạo nên bởi các trung tâm thuộc hai tiểu
trƣờng chỉ đặc điểm của “vƣờn” và hoạt động con ngƣời trong “vƣờn”. Có tất cả 25 ngữ
vị từ chứa các trung tâm này, có thể kể đến nhƣ: hái (6 ngữ đoạn), nhặt (4 ngữ đoạn),
trồng (4 ngữ đoạn), xem (2 ngữ đoan), chặt (1 ngữ đoạn),… Các trung tâm của ngữ vị
từ này, khi là những vị từ hành động thì đƣợc kết hợp với các bổ ngữ trực tiếp chỉ đối
tƣợng của hành động đó, tức là các danh từ chỉ bộ phận khu vƣờn: hoa, cây,…; hay kết
hợp với bổ ngữ gián tiếp thông qua chuyển tố cho (hái cho giàn giầu) hoặc tự mình làm
thành ngữ đoạn nhƣ: hái, đốn, hơn… Khi là vị từ trạng thái, tự nó sẽ làm thành một ngữ
đoạn nhƣ xiêu.
4.1.2. Chức năng làm thành tố phụ
Bên cạnh việc đảm nhiệm chức năng làm thành tố trung tâm, các từ trong lớp từ thuộc
trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính cịn giữ chức năng làm thành tố phụ định
ngữ. Ở đây, các danh từ giữ chức năng làm định ngữ chỉ loại và hạn định, các vị từ
trạng thái làm định ngữ miêu tả.
Các danh từ làm định ngữ chỉ loại chủ yếu là danh từ thuộc tiểu trƣờng bộ phận của
“vƣờn”. Ngoài ra, từ vườn trong tiểu trƣờng chỉ tên gọi của “vƣờn” cũng tham gia đảm
nhiệm chức năng này (một thửa vườn hoang, cây vườn). Có 19 đơn vị làm định ngữ chỉ
loại, bao gồm: cây, hoa, lá, cau, giầu, mồng tơi, dâu, cam, cần, xoan đào, mai, bướm,
cải, đào, đất, bưởi, cần, cỏ, cau, trong đó nhiều nhất là hai định ngữ hoa và bướm. Một
số danh từ cũng tham gia đảm nhiệm chức năng làm định ngữ hạn định nhƣ: cúc trong
vườn hoa cúc, cau trong một hàng cau. Các định ngữ miêu tả trong ngữ danh từ do các
vị từ chỉ đặc điểm của “vƣờn” đảm nhận, bao gồm: vắng (vườn vắng), xưa (vườn Thanh
xưa), xác xơ (một mảnh vườn xác xơ), mới (vườn đất mới), xa vắng (vườn dâu xa vắng).
Trong các ngữ vị từ liên quan đến trƣờng nghĩa “vƣờn”, các bổ ngữ do các danh từ, ngữ
danh từ chỉ bộ phận của “vƣờn” đảm nhiệm, gồm 7 đơn vị: hoa, đào, dâu, cải, cam, cúc,
cây. Trong số đó chỉ có giàn giầu là bổ ngữ gián tiếp (hái cho giàn giầu). Các bổ ngữ
trong các ngữ vị từ bổ sung ý nghĩa đối tƣợng của hoạt động con ngƣời, cũng là cơ sở
để tập hợp tiểu trƣờng các hoạt động của con ngƣời trong “vƣờn”.
4.2. Ở cấp độ câu
Nguyễn Bính sáng tác chủ yếu bằng thể lục bát và thất ngôn. Đặc điểm nổi bật của câu
thơ Nguyễn Bính là mỗi câu thơ thƣờng là một cấu trúc Đ – T lớn đƣợc tạo ra bởi nhiều
cấu trúc Đ – T nhỏ hơn trong các dịng thơ: Tơi ra đứng ở đầu làng/Ngùi trông theo chị
khuất ngàn dâu thưa; Tháng ngày qua cửa buồng the/ Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối
mùa… Nhƣ vậy, để hiểu đƣợc ý thơ Nguyễn Bính, ta phải đặt câu thơ trong một sự liên
kết về ngữ pháp với các câu thơ khác. Tuy nhiên, với nhiệm vụ làm rõ chức năng của
các ngữ đoạn trong việc làm thành phần câu, chúng tôi sẽ tách các dịng thơ ra và coi
nhƣ đó là một câu độc lập. Trong trƣờng hợp này, sẽ có nhiều câu rơi vào dạng cấu trúc
ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƢỜNG NGHĨA VƯỜN…
179
một phần (tỉnh lƣợc), chúng tôi cũng sẽ chỉ tập trung làm rõ chức năng của các ngữ
đoạn chứa lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính. Chúng tôi xét
chức năng cú pháp của lớp từ này ở cấp độ câu trên cơ sở chức năng của các ngữ đoạn
mà chúng là trung tâm ngữ. Có thể thống kê các chức năng cú pháp ở cấp độ câu của
các ngữ đoạn đó theo bảng sau:
ĐỀ
Thành phần câu
Ngoại Đề
Khung Đề
Nội Đề
Chủ Đề
THUYẾT
TRẠNG NGỮ
Số lượng
6
9
70
18
4
4.2.1. Chức năng làm Đề
“Đề là thành phần trực tiếp của câu nêu rõ cái phạm vi ứng dụng của điều đƣợc nói
bằng thành phần trực tiếp thứ hai: Thuyết” [2, tr. 41], bao gồm Ngoại Đề và Nội Đề. Do
đó, xuất hiện trong vị trí này là các ngữ danh từ có trung tâm là các từ thuộc tiểu trƣờng
tên gọi, bộ phận của “vƣờn”. Về chức năng làm Đề ngữ, các ngữ đoạn đƣợc tạo ra bởi
lớp từ thuộc trƣờng nghiã “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính đảm nhận đƣợc cả ba vị trí:
Ngoại Đề, Chủ Đề, Khung Đề.
Về Ngoại Đề, có thể thấy một số câu thơ nhƣ: Lá lộc chồi tơ tay ngọc hái; Vườn dâu nó
thẹn với đơi tay ngà. Tuy nhiên, chức năng làm Ngoại Đề của các ngữ đoạn do lớp từ
thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” làm trung tâm là không nhiều trong các câu thơ Nguyễn Bính.
Khi đảm nhiệm chức năng Khung Đề trong câu thơ, phần lớn các ngữ danh từ sẽ đứng
độc lập, khó nhận diện: Qua giậu tầm xuân thấy bướm nhiều; Vườn trần theo bướm
phấn hương bay. Điều này khiến cho chủ thể trong câu thơ đƣợc nhấn mạnh, tạo nên giá
trị nghệ thuật của câu thơ.
Các ngữ danh từ phần lớn tham gia vào thành phần Chủ Đề, có thể kể đến các ngữ danh
từ chỉ có một thành tố trung tâm nhƣ: Cúc bao lần nở, lá vàng bao rơi; Đất đổi hoa
màu nhà đổi chủ. Ngoài ra, các ngữ đoạn chỉ tên gọi của “vƣờn”, bộ phận của “vƣờn”
đều có khả năng tham gia cấu tạo thành phần Chủ Đề trong câu thơ Nguyễn Bính:
“Vườn dâu nó thẹn với đơi tay ngà”; “Một bông cúc nở trong vườn vắng”. Trong kết
quả thống kê các ngữ đoạn, có thể thấy, các danh từ “vườn”, “hoa”, “bướm”, “lá”,…
có khả năng tạo nhiều ngữ danh từ nhất. Đồng thời, số lần xuất hiện của chúng trong thơ
Nguyễn Bính cũng rất cao, do đó, các ngữ danh từ này tham gia nhiều nhất vào chức
năng làm Đề của câu. Do số lƣợng các ngữ danh từ đƣợc tạo ra bởi lớp từ thuộc trƣờng
nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính là rất nhiều nên các Chủ Đề trong câu thơ của ông
rất phong phú. Đặc điểm này của Chủ Đề làm sáng tỏ một đặc điểm của ngôn ngữ thơ
Nguyễn Bính đó là thƣờng hƣớng đến các đối tƣợng của tự nhiên để tỏ lòng, thủ thỉ, và
cũng là để mƣợn hình ảnh thiên nhiên mà nói về con ngƣời. Chính vì thế, thiên nhiên
trong thơ Nguyễn Bính ln mang hình bóng con ngƣời.
180
NGUYỄN THỊ NGA
4.2.2. Chức năng làm Thuyết
Thuyết là thành phần trực tiếp của câu, nêu lên nội dung của nhận định, có hiệu lực
trong phạm vi đƣợc đƣa ra ở phần Đề . Với 12 đơn vị từ vựng chỉ hoạt động của con
ngƣời trong “vƣờn” làm trung tâm ngữ, có tất cả 25 ngữ vị từ đƣợc tạo ra. Khi tham gia
vào cấu trúc câu thơ, các ngữ vị từ này chủ yếu đảm nhận vai trò Thuyết ngữ: “Vườn
dâu em hái, mẹ già em thương”; “Nhặt giữ giùm con dăm cánh thơi”;…
Do đặc điểm câu thơ Nguyễn Bính, mỗi câu thơ thƣờng là một thành phần của một cấu
trúc Đ – T lớn hơn, cùng với quyền tỉnh lƣợc đồng sở chỉ của Đề ngữ, các câu thơ của
Nguyễn Bính đa phần là câu một thành phần, tức là câu chỉ có phần Thuyết: Nhặt giữ
giùm con dăm cánh thôi; Xem cúc yêu sương mỉm miệng cười; Hôn như muốn uống
bao sương lệ;… Trong số các ngữ vị từ đƣợc đảm nhận chức năng làm Thuyết ngữ thì
ngữ vị từ có trung tâm là “hái” xuất hiện nhiều lần trong vai trị này nhất (8 lần).
Nguyễn Bính khơng dành nhiều câu thơ cho những hoạt động này nhƣng sự xuất hiện
của các các thuyết ngữ đứng độc lập (câu một phần) ấy đã tạo ra ấn tƣợng sâu sắc về
hình ảnh con ngƣời thơn dã nhƣng nhiều mơ mộng trong thơ Nguyễn Bính.
4.2.3. Chức năng làm thành phần phu Trạng ngữ:
Các ngữ đoạn có chứa lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính khi
đảm nhận chức năng Trạng ngữ sẽ phải kết hợp với các giới từ, tuy nhiên, đây cũng
không phải là chức năng thƣờng gặp trong thơ ông (4 trạng ngữ). Ta bắt gặp một số câu
thơ nhƣ: Trong vườn sương tán màu xanh; Một bơng cúc nở trong vườn vắng;… Chỉ
có một trƣờng hợp ngữ Trạng ngữ đƣợc lƣợc bớt giới từ, đứng độc lập do áp lực của thể
thơ: Bờ vắng, chim cu ồn tiếng gáy.
Trạng ngữ xuất hiện không nhiều trong câu thơ Nguyễn Bính và đơi khi dễ nhầm lẫn
với Khung Đề. Tuy nhiên, việc tham gia vào thành phần Trạng ngữ đã thể hiện đƣợc
tính chất “khơng gian” của lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính.
Nhƣ vậy, lớp từ thuộc trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính trƣớc năm 1945, với
đặc điểm từ loại của mình đã tham gia thực hiện các chức năng cú pháp ở cả cấp độ ngữ
đoạn và câu. Việc tham gia của lớp từ phong phú này vào cấu trúc thành phần câu thơ
Nguyễn Bính đã góp phần thể hiện tính chất dân dã trong thơ ông.
5. KẾT LUẬN
Việc áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học vào nghiên cứu ngôn ngữ văn chƣơng bao giờ
cũng tính đến những sáng tạo của cá nhân trong sáng tác. Đối với việc tìm hiểu về
trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính trƣớc năm 1945 cũng vậy, lý thuyết về Từ
vựng – ngữ nghĩa và Ngữ pháp tiếng Việt là công cụ để khai phá và làm sáng tỏ một vẻ
đẹp trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính. “Vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính đã trở thành một
biểu tƣợng nghệ thuật. Nguyễn Bính viết nhiều về “vƣờn”, đến mức ta có thể thấy hồn
thơ của ơng nhƣ một khu vƣờn muôn màu muôn vẻ. Trong thơ ông, ta bắt gặp những
“mảnh vƣờn”, những “vƣờn hoa nở” với hoa, lá , cành, với những giàn giầu, những giậu
mồng tơi… Xét trên phƣơng diện là những hình ảnh thơ, chúng thể hiện cái chất “chân
ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA LỚP TỪ THUỘC TRƢỜNG NGHĨA VƯỜN…
181
quê” của Nguyễn Bính. Và đứng trên phƣơng diện từ vựng – ngữ nghĩa học, ta lại nhìn
nhận chúng nhƣ là sự thể hiện vốn ngôn ngữ phong phú của nhà thơ. Vốn ngơn ngữ ấy
vừa mang tính dân tộc, vừa là kết quả của sự sáng tạo ngôn từ của tác giả. Trƣờng nghĩa
“vƣờn” trong thơ Nguyễn Bính trƣớc năm 1945, khi đƣợc nghiên cứu kết hợp với lý
thuyết Ngữ pháp tiếng Việt lại càng làm rõ hơn khả năng của chúng trong việc tạo thành
các ngữ đoạn và câu thơ. Sự kết hợp này ẩn chứa sức sáng tạo to lớn của nhà thơ, là nơi
nhà thơ gửi gắm những dụng ý nghệ thuật của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
Cao Xuân Hạo (2007). Tiếng Việt – mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, NXB
Giáo dục.
Cao Xuân Hạo (2007). Ngữ pháp chức năng tiếng Việt: Câu trong Tiếng Việt, NXB
Giáo dục.
Cao Xuân Hạo (2007). Ngữ pháp chức năng tiếng Việt: Ngữ đoạn và từ loại, NXB
Giáo dục.
Đỗ Hữu Châu (2007). Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học Sƣ phạm.
Hoàng Phê (2010). Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
Lê Biên (1993). Từ loại tiếng Việt hiện đại, NXB Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
Nguyễn Bính toàn tập, NXB Văn học.
Nguyễn Thị Bạch Nhạn (1986). Bài giảng Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt hiện đại,
NXB Đại học Huế.
Nguyễn Thị Hiền (2012). Trƣờng nghĩa “vƣờn” trong thơ ca Việt Nam và sự tri nhận
của ngƣời Việt về ý niệm “vƣờn”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học
NGUYỄN THỊ NGA
SV lớp Văn 3B, khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học Huế
ĐT: 0164 825 4955, Email: