LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng lớn và
phức tạp của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình trạng đói nghèo và kinh tế
kém phát triển của khu vực nông thôn là mối quân tâm lớn của các chính phủ,
được nhiều ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp
trước mắt và lâu dài.
Đất nước Việt Nam hàng nghìn năm lịch sử luôn gắn bó với nền văn minh
lúa nước. Vấn đề nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng, nhà nước và nhân
dân quan tâm đến vấn đề này.
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn cần có nhiều giải pháp và nhiệm vụ cơ bản như: Hoàn thiện quy hoạch
tổng thể về công nghiệp nông thôn, làm cơ sở cho kế hoạch hoá và đầu tư cho
cơ sở hạ tầng; tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua các chính sách và giải pháp
cụ thể cho từng thời kỳ…
Để tăng cường vai trò tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với việc
phát triển sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn. Ngân hàng nông nghiệp xác định nông thôn là thị trường cho vay, nông
nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của mình. Cần
tạo mọi điều kịên thuận lợi về vốn để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp đạt kết quả tốt. Muốn vậy ngân hàng nông nghiệp phải thực hiện:
Đa dạng hoá hình thức hình thức huy động vốn theo phương châm “đi vay để
cho vay” chủ yếu là huy động tại chỗ để đầu tư tại chỗ. Tích cực tham gia vào
thị trường vốn của ngân hàng nhằm tạo nguồn vốn cho đầu tư tín dụng. Gắn
việc huy động tiền gửi với việc cung cấp tín dụng, tạo ý thức tiết kiệm và sử
dụng vốn có hiệu quả trong toàn dân, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền…
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo
& PTNT huyện Yên Lạc em đã nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài: “Một số
1
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ
phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Yên
Lạc tỉnh Vĩnh Phúc”.
Kết cấu chuyên đề gồm:
Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về ngân hàng và tín dụng ngân hàng.
Phần II: Thực trạng công tác huy động vốn và vay vốn của NHNo &
PTNT Yên Lạc.
Phần III: Giải pháp huy động vốn và cho vay vốn của NHNo & PTNT
Yên Lạc.
Với trình độ còn hạn chế nên bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để
em có thể nhận thức được vấn đề một cách sâu sắc hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ nhân viên
NHNo & PTNT và các cơ quan hữu quan huyện Yên Lạc đã tận tình giúp đỡ,
cung cấp số liệu. Em xin cảm ơn các thầy cô trong khoa KTNN & PTNT
trường ĐH KTQD HN và đặc biệt là TS Đào Duy Cầu đã tận tình giúp em
trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đê tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÂN HÀNG VÀ TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG.
I. NGÂN HÀNG NHNo & PTNT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Lịch sử hình thành.
Ngân hàng NHNo & PTNT được hình thành và phát triển qua một quá
trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu
vào khoảng thế kỉ từ XV-XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với
nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó là trung gian tín dụng, trung
gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỉ thứ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát
triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện các chức năng phát hành giấy bạc
ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã
gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều
này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân
hàng được phân làm hai nhóm:
+ Thứ nhất là các ngân hàng được phép phát hành tiền được gọi là ngân
hàng phát hành sau chuyển thành NHTƯ.
+ Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm
chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế gọi là
ngân hàng trung gian. Đây là một mắt xích cực kỳ quan trọng nối NHTƯ với
nền kinh tế, cũng như là cầu nối để những người có vốn với những người cần
vốn trong xã hội gặp nhau.
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện phân hoá hệ thống ngân hàng, các ngân
hàng trung gian thực hiện tất cả các hoạt động như nhận tiền gửi, cho vay và
làm các nhiệm vụ thanh toán. Ban đầu chủ yếu là nhận tiền gửi không kỳ hạn,
cho vay ngắn hạn. Về sau nhận cả cho vay trung và dài hạn bằng nguồn vốn
trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi và phát hành chứng khoán. Hoạt động
3
của ngân hàng ngày càng phát triển với sự phát triển của thị trường chứng
khoán đòi hỏi hình thành nên những ngân hàng, những trung gian tài chính
chuyên hoạt động một lĩnh vực nào đó, đã phân chia các ngân hàng trung gian
thành các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực riêng: NHNo & PTNT, NHĐT,
…trong đó ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ đạo.
2. Khái niệm ngân hàng.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng.
Theo luật ngân hàng Pháp năm 1914: “Ngân hàng là những xí nghiệp
hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận tiền gửi cho công chúng dưới
hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào
các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật ngân hàng Ấn Độ năm 1950, được bổ xung năm 1959 đã nêu: “
ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Ở Việt Nam, theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty
tài chính được ban hành vào ngày 23/05/1990: “Ngân hàng là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ triết
khấu và làm phương tiện thanh toán”. Sau khi có luật ngân hàng và luật các tổ
chức tín dụng thì tại điều 20 luật các tổ chức tín dụng đã nêu: “ Tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy
định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán”.
Tóm lại ta nhận thấy các NHNo & PTNT đều có chung một tính chất là
việc nhận tiền kí thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân
hàng.
4
3. Vai trò của ngân hàng NHNo & PTNT.
3.1 NHNo & PTNT là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu
nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân phải mở
rộng quy mô cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá,
đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế, làm được điều này
phải có vốn. Ngược lại khi nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ tạo ra nhiều
vốn. NHNo & PTNT là chủ thể chính cung cấp vốn cho sản xuất kinh doanh.
NHNo & PTNT đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ
chức cá nhân, doanh nghiệp…trong nền kinh tế. Bằng vốn huy động được
trong xã hội, thông qua nghiệp vụ tín dụng NHNo & PTNT đã cung cấp vốn
cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng vốn kịp thời cho quá trình tái sản xuất.
3.2 NHNo & PTNT là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu
sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan vì thế sản xuất phải trên cơ sở
đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện. Để làm được điều này
doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng lao động, cải tiến máy móc, công nghệ,
mở rộng quy mô sản xuất…Những hoạt động này đòi hỏi có một lượng vốn
đầu tư lớn nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải
quyết doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu về vốn
của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa doanh
nghiệp với thị trường.
3.3 NHNo & PTNT là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng nghiệp vụ tín dụng và thanh toán giữa các NHNo & PTNT trong
hệ thống, các NHNo & PTNT đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho các ngành trong nền kinh
tế, NHNo & PTNT thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân
5
chia vốn thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò
điều tiết vĩ mô “ nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
3.4 NHNo & PTNT là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội ngày càng
trở nên cần thiết và cấp bách. Sự phát triển kinh tế mỗi nước luôn gắn liền với
sự phát triển toàn thế giới. NHNo & PTNT cùng hoạt động kinh doanh của
mình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Thông qua các
hoạt động thanh toán, mua bán ngoại hội, quan hệ với các ngân hàng nước
ngoài, hệ thống NHNo & PTNT đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính
trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
4. Chức năng của NHNo & PTNT.
4.1 Chức năng trung gian tín dụng.
Đây là chức năng đặc trưng nhất của NHNo & PTNT. NHNo & PTNT
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cho vay. Chính là đã chuyển tiền tiết
kiệm thành đầu tư. Người có tiền dư thừa có thể mua công cụ tài chính như:
cổ phiếu, trái phiếu…trực tiếp thông qua thị trường tài chính. Tuy nhiên tài
chính trực tiếp đôi khi không mang lại hiệu quả cao nhất cho nhà đầu tư vì
người có tiền đầu tư và người sử dụng tiền đầu tư thiếu thông tin chính xác về
nhau, hay phí giao dịch quá lớn và do đó rủi ro đầu tư là tương đối cao.
Chính vì những hạn chế đó mà các trung gian tài chính ra đời và phát
triển rất nhanh, điển hình là các NHNo & PTNT. Với mạng lưới giao dịch
rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động
ngày càng phong phú và chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHNo & PTNT
đã thực sự góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình luân chuyển vốn trong
nền kinh tế thị trường.
6
4.2 Chức năng trung gian thanh toán.
NHNo & PTNT thực hiện chức năng này trên cơ sở huy động mở tài
khoản tiền gửi cho khách hàng. Khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu
khách hàng: Trích tiền thanh toán hàng hoá, dịch vụ nhập tài khoản tiền gửi
của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động
kinh tế:
+ Thứ nhất: thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần
tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn, cho phép
khách hàng thực hiện thanh toán nhanh tróng, chính xác và hiệu quả.
+ Thứ hai: Việc cung ứng một dịch vụ thanh toán có chất lượng làm
tăng uy tín cho khách hàng do đó tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút nguồn
vốn tiền gửi.
+ Thứ ba: Việc thanh toán không dùng tiền mặt được mở rộng giúp
nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát lượng tiền trong lưu thông cua NHTƯ.
4.3 Chức năng tạo tiền.
Với khoản tiền gửi mới tăng lên ban đầu do khách hàng gửi vào hệ
thống hoặc số dự trữ tăng thêm do NHTƯ tiếp vốn cho NHNo & PTNT qua
hoạt động tái cấp vốn hoặc hoạt động qua nghiệp vụ thị trường mở thi hệ
thống NHNo & PTNT có thể mở rộng khối lượng tiền tối đa theo công thức:
Khả năng mở rộng tiền tối đa = Số tiền gửi mới tăng thêm x 1/Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc.
Điều kiện thực hiện mở rộng tiền gửi tối đa là sự kết hợp hai chức
năng: Trung gian tín dụng và trung gian thanh toán. Bởi vì thông qua chức
năng làm trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để
cho vay, số tiền cho vay được lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá,
thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng
7
để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ. Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng
nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện
nhiệm vụ cho vay thì ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền.
5. Các nghiệp vụ cơ bản của NHNo & PTNT.
5.1 Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ.
Đây là nghiệp vụ quan trọng nhất của NHNo & PTNT vì nó chính là
nghiệp vụ tạo vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. NHNo
& PTNT là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên vốn lại càng quan
trọng. Chỉ khi ngân hàng là tổ chức được một nguồn vốn đủ lớn và ổn định thì
ngân hàng mới có thể mở rộng được hoạt động kinh doanh của mình.
5.2 Vốn tự có.
Vốn tự có của NHNo & PTNT là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo
lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn của NHNo & PTNT song nó là điều kiện cần thiết khi thành lập
một ngân hàng. Do tính chất ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể sử dụng
chủ động vào các mục đích khác nhau: Trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài
sản cố định…phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham
gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có
được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối với khách hàng.
5.3 Nghiệp vụ cho vay.
Đây là nghiệp vụ tạo ra khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh
doanh của các NHNo & PTNT. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư
sinh lợi của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn và trung hạn đối với
nền kinh tế.
5.4 Nghiệp vụ trung gian.
Nghiệp vụ trung gian là hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT liên
quan đến nghiệp vụ bên có và bên nợ. Nghiệp vụ này có xu hướng ngày càng
phát triển mạnh và mang lại nguồn lợi không nhỏ cho ngân hàng. Bản chất
8
của nghiệp vụ này là nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu nào đó của khách hàng.
NHNo & PTNT có khả năng cung cấp, trên cơ sở đó làm tăng thu nhập cho
ngân hàng: Séc thanh toán, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng…
Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ: Làm đại lý phát hành
chứng khoán, nghiệp vụ uỷ thác đầu tư…
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm về vốn.
Vốn của NHNo & PTNT là những giá trị tiền tệ do NHNo & PTNT tạo
lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh khác.
Thực chất nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà
người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích
khác nhau. Hay nói cách khác họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, tiền tệ
cho ngân hàng để rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy
ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức
tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi
hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời chính hoạt động đó lại quyết định sự
phát triển kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung vốn chi phối mọi hoạt động
và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHNo & PTNT.
2. Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng ra đời từ rất sớm cùng với sự phân công lao động và sở hữu
tư nhân về tư liệu sản suất. Trong những năm qua có nhiều tác giả nghiên cứu
và đưa ra định nghĩa tín dụng.
+ Theo quan điểm của Mác thì “ Tín dụng là quá trình chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu với một lượng giá trị từ người sở
hữu sang người sử dụng một thời gian nhất định, nó lại quay lại người sở hữu
với một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”.
9
+ Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: “ Tín dụng là lòng
tin, nghĩa là cho vay tin tưởng và người đi vay sử dụng vốn đúng mục đích
hiệu quả và hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời gian quy định”.
+ Một số tác giả cho rằng “ Tín dụng là việc sử dụng vốn của người
khác và hứa sẽ trả sau”.
Như vậy, nói cách khác tín dụng là quan hệ vay mượn bằng tiền hoặc
hàng hoá trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi suất một thời gian nhất định
giữa người đi vay và người cho vay.
3. Bản chất của tín dụng.
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay và
giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động giá trị tín dụng được
biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động được khái
quát qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: giai đoạn phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay.
Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hoá được chuyển từ tay
người dùng sang người đi vay. Đây là giai đoạn cơ bản khác với việc mua bán
hàng hoá thông thường là khi vay giá trị vốn tín dụng được chuyển sang
người đi vay mà không thay đổi hình thái tồn tại.
Giai đoạn 2: Bên vay sử dụng toàn bộ giá trị nguồn vốn vay như phần
tài sản của mình lúc này người đi vay chỉ có quyền sử dụng mà không có
quyền sở hữu vốn tín dụng.
Giai đoạn 3: Là giai đoạn cả gốc và tiền lãi được hoàn trả cho người
cho vay. Đây là giai đoạn cuối kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng và
sự hoàn trả tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là
dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với phạm trù kinh tế khác.
4. Phân loại tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong
phú. Người ta thường dựa vào tiêu thức sau để phân loại tín dụng:
10
+ Theo thời hạn cho vay, tín dụng gồm: Tín dụng ngắn hạn (dưới một
năm), tín dụng trung hạn (từ 1-5 năm), tín dụng dài hạn (trên 5 năm).
+ Theo đối tượng tín dụng, tín dụng gồm: Tín dụng vốn lưu động cho
vay để hình thành tài sản lưu động, tín dụng vốn cố định cho vay để hình
thành tài sản cố định.
+ Theo mục đích sử dụng vốn, phân thành: Tín dụng sản suất và lưu
thông hàng hoá được cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất kinh
doanh và tín dụng tiêu dùng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
+ Theo chủ thể tín dụng, gồm tín dụng thương mại (quan hệ tín dụng
được biểu hiện dưới hình thức mua bán hàng hoá), tín dụng ngân hàng (quan
hệ tín dụng giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác, với các nhà doanh
nghiệp và cá nhân), tín dụng nhà nước (quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với
các tầng lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế xã hội khác), tín dụng tư nhân, cá
nhân (quan hệ tín dụng giữa cá nhân và tư nhân cho vay nặng lãi hay giữa các
cá nhân với nhau), tín dụng thuê mua (quan hệ tín dụng giữa các doanh
nghiệp là người thuê với các tổ chức tín dụng thuê mua).
+ Theo phương diện tổ chức tín dụng chính thức và tín dụng không
chính thức. “Tín dụng chính thức là hình thức tín dụng được tổ chức theo luật
định của quốc gia, bao gồm các ngân hàng Nhà nước và ngân hàng tư nhân,
hợp tác xã tín dụng và một số hình thức khác tín dụng không chính thức là tín
dụng do các tổ chức cá nhân nằm ngoài các tổ chức đã kể trên thực hiện.
5. Vai trò của vốn tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn.
Tín dụng ra đời tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản
xuất hàng hoá bởi nó gắn liền với sự phân công lao động xã hội và chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó bất kỳ xã hội nào có sản xuất hàng hóa thì
tất yếu phải có sự hoạt động của tín dụng.
Trong những năm qua, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường đã thực sự đi vào đời sống kinh tế - xã hội nông thôn Việt
11
Nam. Trong nông nghiệp, nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất cả về
chiều rộng và chiều sâu, đầu tư vốn mua sắm tư liệu, công cụ sản xuất, hướng
vào đầu tư nuôi trồng cây con có giá trị kinh tế, từ đó cơ sở vật chất của người
dân được bảo vệ và nâng cao. Để đạt được những thành tựu to lớn và để tiếp
tục duy trì sản xuất mang lại những cơ hội tốt nhất cho sản xuất kinh doanh
thì vốn tín dụng đã trở thành công cụ đắc lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp,
nông thôn và không thể thiếu được đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế. Vốn tín dụng có những vai trò sau:
* Góp phần đáp ứng nhu cầu đầu tư thâm canh từ đó góp phần khai
thác mọi tiềm năng về đất đai ở đồng bằng, trung du, đồi núi, ven biển; lao
động và tài nguyên địa phương.
* Góp phần hình thành thị trường vốn ở nông thôn. Thị trường vốn tín
dụng chính là cầu nối để người cần vốn đến người có vốn nhàn rỗi dễ dàng
hơn. Chính vì vậy, đây là yếu tố quan trọng để giải quyết mối quan hệ cung
cầu về vốn nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế ở nông thôn.
* Góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Nhờ có vốn tín dụng
mà hệ thống đường xá, mương máng, cơ sở vật chất của nhiều vùng nông
thôn được cải tạo, hoặc xây dựng mới. Theo đó các tiến bộ khoa học kỹ thuật
đến được với người dân dễ dàng hơn.
* Góp phần khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cổ
truyền, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập từng bước xoá đói, giảm nghèo.
* Góp phần giải quyết các biến động và hạn chế rủi ro trong kinh
doanh. Hoạt động nông nghiệp có tính thời vụ rõ nét nên nhu cầu về chi tiêu
và thu nhập thường không trùng khớp về thời gian. Sử dụng tín dụng có thể
giảm bớt căng thẳng về vốn và chênh lệch thu, chi trong năm, từ đó chống lại
những rủi ro có thể xảy ra làm giảm thu nhập, nhiều khả năng thanh toán.
* Góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp, phát triển kinh
tế đất nước.
12
III. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHNo & PTNT
1. Hệ thống ngân hàng của Việt Nam.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam tổ chức như sau:
* Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân
hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng quản lý tiền tệ của Nhà nước.
* Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ tín dụng và được phân làm 4 loại:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh gồm:
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn kinh doanh chủ yếu
trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp và
dịch vụ.
+ Ngân hàng Ngoại thương kinh doanh chủ yếu trong ngành xuất khẩu,
tổ chức thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ ngoại hối khác.
- Ngân hàng thương mại cổ phần.
- Ngân hàng liên doanh được thành lập do sự liên kết giữa ngân hàng
thương mại Việt Nam và nước ngoài.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
* Ngân hàng đầu tư và phát triển nhận vốn từ ngân sách Nhà nước, chủ
yếu để đầu tư trong các dự án của Nhà nước về phát triển kinh tế.
* Công ty tài chính chủ yếu cho vay để mua hàng hoá và dịch vụ bằng
nguồn vốn riêng hay huy động vốn của dân.
* Hợp tác xã tín dụng thuộc sở hữu của xã viên có mục đích huy động
vốn của xã viên và cho xã viên vay để sản xuất hay tiêu dùng.
Ngân hàng có chức năng sau:
13
- Chức năng tạo nguồn tài chính và sử dụng vốn: Ngân hàng thực chất
đi huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, lấy vốn đó cho nền kinh
tế vay để phát triển kinh doanh và cải thiện đời sống. Ngân hàng một mặt thu
hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội từ các doanh nghiệp, hộ gia đình, các
cơ quan và tổ chức. Mặt khác, ngân hàng dùng chính số tiền đã huy động
được cho vay đối với các thành phần kinh tế khi chúng tạm thời thiếu vốn.
Thông qua chức năng này ngân hàng góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn
định sức mua của đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Chức năng thanh toán: Ngân hàng thực hiện phần lớn các khoản chi
trả về hàng hoá, dịch vụ của xã hội với các hình thức thanh toán phù hợp, thủ
tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Vì vậy, việc thanh toán trở nên
thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm.
- Chức năng dịch vụ khác: Ngân hàng đảm nhận một số dịch vụ khác
cho khách hàng: Sử dụng dịch vụ chuyển séc, tiền mặt, ngoại tệ, nhận lệnh
phát hành, mua, bán cổ phiếu, trái phiếu. Chính ngân hàng cũng đầu tư mua
bán trái phiếu để kiếm lợi nhuận. Ngoài ra, ngân hàng kết hợp với nhiều ngân
hàng ở trong nước và ngoài nước thiết kế dự án lớn để tài trợ cá nhân và
doanh nghiệp.
2. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2.1 Hệ thống tổ chức
“Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là
ngân hàng nông nghiệp Việt Nam) là doanh nghiệp nhà nước dạng đặc biệt,
bao gồm các thành viên có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau về lợi ích kinh
tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đầu tư phát triển nông thôn và các
dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính - tiền tệ - ngân hàng”
Là một ngân hàng thương mại nhưng đặc thù riêng của NHNo & PTNT
Việt Nam là mọi hoạt động kinh doanh chủ yếu đều gắn với nông nghiệp,
nông thôn và nông dân, xây dựng và tổ chức mạng lưới rộng đến tận thôn xã,
14
bản làng, huy động và cho vay tại chỗ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân,
tiết kiệm chi phí và giảm bớt phiền hà.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam có chức năng cung cấp tín dụng khu
vực nông thôn, chính thức được thành lập theo quyết định số 400CT ngày
14/11/1999 của hội đồng bộ trưởng với tư cách là ngân hàng thương mại của
nhà nước và là một tổ chức tài chính tín dụng lớn nhất ở khu vực nông thôn.
Khi thành lập ngân hàng chỉ có 30.000 cán bộ công nhân viên và 500 chi
nhánh cấp huyện. Đến năm 1997, ngân hàng được đổi tên là NHNo và PTNT
Việt nam.
Đặc biệt sau khi có quyết định 67/TTG của Thủ tướng Chính phủ về
một số chính sách tín dụng của ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, đã thúc đẩy việc xã hội hoá hoạt động của ngân hàng, khắc
phục được nhiều trở ngại trong quan hệ tín dụng giữa nông dân với ngân
hàng, thủ tục điều kiện vay vốn được nới lỏng, mạng lưới ngân hàng đã được
mở rộng tới tận thôn, xã.
Hiện nay, hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam được phân thành 4 cấp:
- Cấp I: Ngân hàng Trung ương (NHNo & PTNT Việt Nam)
- Cấp II: Chi nhánh NHNo & PTNT cấp tỉnh. Các chi nhánh này được
đặt tại các tỉnh, thành trong cả nước có chức năng huy động và cung
cấp tín dụng trong phạm vi tỉnh.
- Cấp III: Chi nhánh NHNo & PTNT cấp huyện có chức năng huy
động và cung cấp tín dụng trong phạm vi huyện.
- Cấp IV: Chi nhánh NHNo & PTNT cấp xã, cụm xã.
Đến nay ngân hàng đã có 2.600 chi nhánh lớn nhỏ đến tận làng, xã, liên
xã với gần 105.000 nhân viên thường xuyên bám sát địa bàn nông thôn được
biên chế trong hàng nghìn tổ cho vay lưu động, hàng trăm xe ô tô lưu động.
Đặc biệt chỉ riêng khu vực đồng bằng Sông Hồng, hệ thống NHNo & PTNT
15
Việt Nam đã có 271 đơn vị ngân hàng các cấp, trong đó ngân hàng cấp IV
(liên xã) là 155 chi nhánh.
NHNo & PTNT là ngân hàng thương mại duy nhất có mạng lưới trên
toàn quốc. Mở rộng mạng lưới xuống tận cấp huyện vùng sâu, vùng xa là
chiến lược phát triển lâu dài của ban lãnh đạo NHNo & PTNT Việt Nam từ
đó tạo ra ưu thế cạnh tranh của mình, đảm bảo kênh chuyển vốn và phục vụ
mọi đối tượng khách hàng. Khách hàng có thể gửi một nơi và lĩnh nhiều nơi.
Sơ đồ: Hệ thống tổ chức Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
2.2 Vai trò của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
* Vai trò trung gian tài chính: “Sự phát triển của nền kinh tế thường
xuyên phát sinh nhu cầu về vốn rất lớn và cũng xuất hiện khả năng cung ứng
vốn của các cá nhân và tổ chức có vốn nhàn rỗi”. Từ đó xảy ra một thực trạng
16
NHNo&PTNT
Việt Nam
Ngân hàng cấp II
(cấp tỉnh)
Ngân hàng cấp III
(cấp huyện)
Ngân hàng cấp
IV (cấp xã)
Ngân hàng cấp III
(cấp huyện)
Ngân hàng cấp
IV (cụm xã)
Ngân hàng cấp
IV (cụm xã)
Ngân hàng cấp
IV (cụm xã)
là có nhiều cá nhân và tổ chức không có hoặc không có đủ vốn để tiến hành
sản xuất kinh doanh. Mâu thuẫn giữa hiện tượng thừa và thiếu vốn phát sinh
trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có hình thức tổ chức
giải quyết mâu thuẫn này. Trước thực tế đó thì việc hình thành các tổ chức tài
chính, tín dụng trung gian nói chung và ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn nói riêng tham gia vào lĩnh vực cung cấp vốn tín dụng để phát triển
kinh tế nông thôn là một yêu cầu cần thiết. NHNo&PTNT huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, lấy vốn đó cho vay để phát triển sản xuất kinh
doanh và cải thiện đời sống. Nó là trung gian tài chính quan trọng để đưa vốn
tạm thời thừa sang cho người thiếu vốn. Nền kinh tế càng phát triển thì quá
trình tái sản xuất ngày càng cao, càng cần đến vai trò của NHNo & PTNT.
*Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông thôn: NHNo & PTNT
chính là đơn vị duy nhất trong ngành ngân hàng bám sát và thực hiện đắc lực
cho quá trình chuyển đổi kinh tế nông thôn, đã mở ra và thực hiện thành công
việc cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. Cùng với các tổ chức tín dụng khác, NHNo & PTNT đã góp phần thực
hiện thành công các chương trình dự án của chính phủ như chương trình cho
vay người nghèo, chương trình cho vay thu mua lương thực, chương trình mía
đường.
* Góp phần nâng cao năng lực, dân trí, kiến thức kinh doanh cho đối
tượng sử dụng vốn: Các chi nhánh NHNo & PTNT có tác dụng mạnh mẽ, tiếp
cận gần hơn với các hộ sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, góp phần khôi phục và
phát triển ngành nghề truyền thống.
* Góp phần thực hiện các chính sách của nhà nước đối với nông
nghiệp, nông thôn và người nghèo. Điều này thể hiện qua việc NHNo &
PTNT ngoài hoạt động thương mại còn làm dịch vụ cho các ngân hàng chính
sách như: Ngân hàng người nghèo, ngân hàng nhà ở trong điều kiện các ngân
hàng này còn hạn chế về mạng lưới hoạt động.
17
Ngoài ra, qua việc thường xuyên tiếp xúc với nông thôn, nông dân các
cán bộ ngân hàng có cơ sở để phản ánh, đề đạt với chính phủ nguyện vọng
của người dân và những người có quan hệ vay vốn của ngân hàng hơn. Hoạt
động tín dụng của ngân hàng ngoài việc đầu tư vốn cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn còn giúp cho người dân biết cách sử dụng, tính toán đồng
vốn có hiệu quả, từng bước làm quen với sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế
thị trường sôi động.
Tín dụng ngân hàng đã trở thành cầu nối giữa các hộ nông dân và ngân
hàng, cùng hỗ trợ nhau để cùng phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá, tiền
tệ.
3. Những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT
3.1 Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động tín dụng vì có
huy động được vốn thì ngân hàng mới có nguồn vốn để thực hiện chức năng
cho vay của mình. Nếu ngân hàng phát huy tốt công tác huy động vốn không
những mở rộng được công tác cho vay, tăng cường cho nền kinh tế mà còn
mang tới cho ngân hàng nhiều lợi nhuận.
Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng được huy động từ các nguồn chính
sau:
- Vốn huy động nhàn rỗi từ các nhà tổ chức kinh tế và các tổ chức xã
hội.
+ Tiền gửi không kỳ hạn: chính là tiền gửi thanh toán của các doanh
nghiệp có mở tài khoản tại ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu thanh toán.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Tiền gửi chủ yếu từ tiền tiết kiệm
của dân (lãi suất thấp).
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, phân thành:
Tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng.
18
Tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng.
Tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng.
-Vốn nhà nước cấp hoặc cho vay: Nhà nước trích một phần ngân sách
của mình để đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Vốn uỷ thác từ các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, vốn
bảo trợ, tài trợ, đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp và nông thôn theo
chương trình chỉ định.
- Vốn từ phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có mục đích, các chứng chỉ tiền
gửi.
3.2 Hoạt động cho vay vốn.
Cùng với hoạt động huy động vốn thì hoạt động cho vay vốn là hoạt
động rất quan trọng và cần thiết. NHNo & PTNT thu lợi nhuận chủ yếu bằng
cách cho vay. Hoạt động cho vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo vừa phục
vụ tốt cho sự phát triển kinh tế trên địa bàn, vừa mang lại hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng.
Ngân hàng thường cho vay vốn với các mục đích.
- Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
- Dịch vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
- Phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn.
- Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và sản
phẩm tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
Đối tượng vay vốn của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước, công
ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể, đặc biệt là hộ gia
đình nông dân có nhu cầu vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Đối với từng đối tượng cụ thể thì ngân hàng áp dụng quy chế về cho
vay, mức lãi xuất, thời hạn và mức cho vay phù hợp theo đúng quy định.
19
Để hoà nhập vào thị trường chung thì hiện nay NHNo & PTNT đã
không bó hẹp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn mà còn mở
rộng ra khỏi khu vực nông thôn trong lĩnh vực tín dụng sản xuất và tiêu dùng.
3.3 Lãi suất tín dụng.
Lãi suất tín dụng là một trong những biến số có ảnh hưởng đến quyết
định của các bên tham gia hoạt động tín dụng.
Lãi suất tín dụng được định nghĩa như sau: “ Lãi suất tín dụng là tỷ lệ
phần trăm giữa số tiền mà người đi vay phải trả thêm cho người vay trên số
tiền vay sau một thời gian sử dụng số tiền vay đó”.
Ngân hàng nói chung và NHNo & PTNT nói riêng có hai loại lãi suất
là: Lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
- Lãi suất huy động: là lãi suất quy định tỷ lệ lãi ngân hàng phải trả cho
các hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng.
- Lãi suất cho vay: Là lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải
trả cho ngân hàng.
Lãi suất Lãi suất
Chi phí
Rủi ro Lợi nhuận của
Cho vay huy động hoạt động tối thiểu ngân hàng
Vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải điều chỉnh cả hai mức lãi suất sao cho
vừa có thể đáp ứng được yêu cầu của khách hàng có tiền nhàn rỗi cũng như
các cá nhân và các tổ chức có nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh vừa đảm
bảo tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
3.4 Chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của người vay phù hợp với
sự phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng phù hợp với thực lực bản thân
ngân hàng, tạo điều kiện gia tăng khả năng sinh lời sản phẩm dịch vụ do giảm
20
=
+_-
=
+_-
+_-
được các loại chi phí, giảm sự chậm trễ, giúp ngân hàng thực hiện được
nhiệm vụ và phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.
Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thoả mãn yêu cầu tín dụng
của khách hàng về các khoản tín dụng, phù hợp với mục đích sử dụng vốn của
khách hàng, tạo cho ngân hàng có được những khách hàng trung thành.
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Chất lượng tín dụng góp phần
phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai
thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, góp phần vào sự phát triển đi lên
của kinh tế - xã hội địa phương.
Với ưu thế trên, việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHNo &
PTNT là sự cần thiết khách quan. Nếu hiểu được một cách đúng đắn bản chất
của chất lượng tín dụng cũng như xác định được nguyên nhân tồn tại của chất
lượng tín dụng sẽ giúp ngân hàng có sự quản lý, tổ chức hoạt động chặt trẽ để
duy trì nâng cao được chất lượng tín dụng.
3.5 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng.
* Các chỉ tiêu xác định khối lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
- Doanh số huy động vốn (tổng nguồn vốn huy động).
- Doanh số cho vay (tổng số vốn cho vay).
- Doanh số huy động và cho vay trên một cán bộ ngân hàng.
- Số lượng đơn vị, cá nhân vay vốn từ ngân hàng.
Các chỉ tiêu này tăng lên thì hoạt động tín dụng của ngân hàng tăng lên.
* Các chỉ tiêu xác định kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng:
- Doanh thu: bao gồm thu từ hoạt động cho vay vốn của ngân hàng (lãi
cho vay, lệ phí).
- Lãi: Là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Chi phí gồm chi trả lãi
tiền gửi cho các cá nhân và tổ chức có vốn nhàn rỗi, chi phí hoạt động khác
21
của ngân hàng. Lãi là kết quả quan trọng nhất của ngân hàng vì với một
doanh nghiệp thì lãi càng cao càng tốt.
* Các chỉ tiêu xác định hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ lãi so với doanh thu = (%)
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất. Khi chỉ tiêu này âm, tức là ngân hàng
hoạt động bị lỗ, bằng không là hoà vốn và dương tức là hoạt động của ngân
hàng có lãi. Vậy chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
- Doanh thu tính trên một cán bộ ngân hàng: chỉ tiêu này nói lên hiệu
quả sử dụng lao động của ngân hàng.
- Tốc độ luân chuyển vốn: Tốc độ luân chuyển vốn càng tăng thì ngân
hàng hoạt động càng có hiệu quả.
Tốc độ luân chuyển vốn =
* Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ sử dụng vốn = (%)
Tỷ lệ nợ quá hạn = (%)
Chỉ tiêu này cho biết tinh hình sử dụng vốn, hiệu quả hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng tốt
nguồn vốn huy động được.
IV. CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI.
Quá trình phát triển kinh tế những thập niên gần đây của nhiều quốc gia
trên thế giới cho thấy nền kinh tế tăng trưởng nhanh hay chậm, thậm trí suy
thoái, nó phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế vĩ mô với vai trò là
những công cụ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế ở Mỹ La Tinh năm 1984, ở
Đông Nam Á những năm cuối thập kỷ 90 vừa cho thấy ý nghĩa quan trọng
của việc chọn lựa và hoạch định một cách đúng đắn và phù hợp các chính
sách tài chính, tiền tệ trong đó có chính sách tín dụng. Các nước đều sử dụng
chính sách tín dụng làm công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng để tác động trực
22
tiếp hoặc gián tiếp vào các định hướng phát triển kinh tế, với các mục tiêu
khai thác tối đa và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế trên cơ sở ổn định kinh tế, kiềm chế lạm phát, định
hướng và tạo tiền đề cho các hoạt động tín dụng của các tổ chức trung gian tài
chính phát triển. Tuy nhiên do sự khác nhau của cơ chế quản lý và nền tảng
kinh tế mỗi nước làm cho chính sách tín dụng cuả mỗi nước có những điểm
khác biệt. Do đó, việc tổng hợp những kinh nghiệm, chắt lọc từ thực tiễn
phong phú, đa dạng của các nước trong khu vực và một số nước Châu Á có ý
nghĩa tham khảo bổ ích vận dụng cho Việt Nam.
- Chính sách tín dụng hướng vào phát triển thị trường tín dụng tự do
cạnh tranh.
Các nước có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số
nước phát triển trên thế giới, kinh tế thị trường đạt mức phát triển cao thì sự
hoàn hảo của các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường tín dụng gần
như đạt đến đỉnh cao của nó.
Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á như Đài Loan,
Singapo đã và đang áp dụng chính sách khích lệ các thị trường vốn, tín dụng
và gia tăng tài chính nhằm mở rộng phạm vi dịch vụ, thúc đẩy cạnh tranh và
nâng cao hiệu quả. Các nước này đã đổi mới chính sách tín dụng theo hướng
tạo cơ sở cho sự đa dạng hoá các nghiệp vụ tín dụng, các hình thức dịch vụ và
các loại hình tổ chức tín dụng. Ở Đài Loan là một ví dụ, có rất nhiều loại hình
tổ chức tín dụng phát triển một thị trường tín dụng sôi động trong một môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định.
- Chính sách tín dụng đảm bảo vai trò kiểm soát của chính phủ đối với
hoạt động tín dụng.
Đối với các nước có nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu như:
Bangladesh, Philippines, Việt Nam đều khẳng định: Để thực hiện một bước
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì vai trò can thiệp
23
của chính phủ vào lĩnh vực tài chính đẻ tạo nguồn vốn đầu tư có khối lượng
lớn, lãi suất thấp, thời hạn dài là rất cần thiết.
Ngoài việc đặt nền móng cho một hệ thống các chính sách tài chính,
tiền tệ vững mạnh, hầu hết chính phủ các nước đều quan tâm tới việc can
thiệp vào các hoạt động tín dụng, nhằm hướng các nguồn vốn vào các lĩnh
vực kinh tế quan trọng. Để thực hiện vấn đề này, chính phủ một số nước đã
thành lập ra các định chế tài chính có chức năng chuyên trách cung ứng các
khoản tín dụng chính sách cho các đối tượng cần thiết như là ngân hàng người
nghèo (Bank for Agricultural Cooperative) ở Thái Lan. Ngoài ra cũng có
nhiều nước thực hiện chính sách cung cấp đủ 100% vốn tự có cho một ngân
hàng thương mại để làm nhiệm vụ cho vay chính sách, ưu đãi các ngân hàng
thương mại khác có trách nhiệm dành một phần vốn huy động chuyển cho
ngân hàng chính sách để bổ xung cho nguồn vốn cho vay. Điển hình của mô
hình này là các nước Ấn Độ, Thái Lan, Myanma.
- Xây dựng chính sách tín dụng mở và hướng tới tự do hoá trong kinh tế
thị trường.
Nhiều nước phát triển và đang phát triển đã thực hiện từng bước để tự
do hoá hệ thống tài chính trong thập kỷ vừa qua. Các chính sách kinh tế vĩ mô
có thể xem như là nội dung cải cách, vừa là công cụ cải cách để hướng tới
mục tiêu tự do hoá hệ thống tài chính. Trong đó chính sách tín dụng một phần
nội dung cơ bản của tiến trình cải cách đó.
Về tổng thể, hướng tới một hệ thống tài chính mở và tự do hoá các hoạt
động tín dụng đã giúp cho viẹc tăng cường huyđộng và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lứ còn khan hiếm. Xu hướng vận động này vừa đáp ứng những yêu
cầu và đòi hỏi khách quan của cơ chế vận động kinh tế thị trường. Mặt khác
bản thân sự vận động đó lại tạo điều kiện túc đẩy sự hoàn thiện và phắt triển
kinh tế thị trường ở mưc độ cao hơn.
24
PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN VÀ
VAY VỐN CỦA NHNo & PTNT YÊN LẠC.
I. SƠ LƯỢC VỀ NHNo & PTNT VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN.
1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của NHNo & PTNT Yên Lạc.
NHNo & PTNT huyện Yên Lạc được thành lập theo quyết định 498
của tổng giám đốc NHNo Việt Nam, là chi nhánh trực thuộc đơn vị thành
viên (NHNo tỉnh), bước vào hoạt động từ ngày 01/01/1996 với biên chế có 35
CBNV, nguồn vốn 3,1 tỉ, dư nợ 12,7 tỉ, cơ sở vật chất nghèo nàn (vốn trước
đây là cơ sở của một phòng giao dịch thuộc NHNo Vĩnh Lạc cũ), Tuy vậy đến
31/12/2004 tổng thu nguồn vốn 81,6 tỉ tăng 0,7 tỉ, tổng dư nợ là 205.551 triệu
đồng tăng 53% so với kì trước khẳng định được vị trí của mình tại địa phương
cũng như trong hệ thống NHNo & PTNT.
2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng.
Đến nay NHNo & PTNT huyện Yên Lạc có 53 cán bộ công nhân viên
(trong đó 2/3 có trình độ đại học), bộ máy tổ chức như sau:
- Ban giám đốc (3 người).
+ Một giám đốc: thực hiện nhiệm vụ theo phân chia cấp uỷ quyển, chịu
trách nhiệm trước cấp trên và pháp luật, phụ trách công tác tổ chức, kế hoạch,
kế toán, kiểm soát, trực tiếp là phó bí thư chi bộ.
+ Một phó giám đốc: phụ trách về hành chính, ngân quỹ, chủ tịch công
đoàn.
+ Một phó giám đốc kinh doanh tín dụng.
- Phòng kế toán và ngân quỹ (13 người): Tổ chức hạch toán tài sản và
các hoạt động kinh doanh của đơn vị nhanh chóng, chính xác, đầy đủ và kịp
thời.
25