Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.97 KB, 123 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực sự hòa nhập vào nền kinh tế thế
giới bằng việc trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới WTO, vị thế của nước ta tiếp tục được khẳng định, nâng cao trên
trường quốc tế. Điều này đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho nền kinh tế Việt
Nam. Bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ buộc chúng ta phải nỗ lực
hết mình để có thể vượt qua những khó khăn trong bước đầu hội nhập. Chính
trong thời điểm này đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế
đều phải có những kế hoạch, định hướng phát triển phù hợp với yêu cầu của
thời đại mới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động đầu tư cũng
được chú trọng.
Hiện nay, để phát triển các doanh nghiệp đã và đang tiến hành rất nhiều
dự án đầu tư. Tuy nhiên, các dự án đầu tư thường đòi hỏi vốn lớn và thời gian
thực hiện lâu dài nên hầu hết các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư thực hiện
các dự án đều không thể tự tài trợ toàn bộ vốn cho một dự án. Một trong
những biện pháp quan trọng là đi vay vốn tại các ngân hàng.
Khi nền kinh tế phát triển thì vai trò của các ngân hàng thương mại là
rất quan trọng trong việc việc đảm bảo cho hoạt động lưu thông tiền tệ được
thông suốt, đáp ứng kịp thời yêu cầu về vốn cho nền kinh tế nói chung và cho
hoạt động đầu tư nói riêng. Đối với ngân hàng thương mại, nghiệp vụ mang
lại lợi nhuận chủ yếu là hoạt động cho vay. Phương châm hoạt động của các
ngân hàng là an toàn – chất lượng – hiệu quả và tăng trưởng bền vững. Nhưng
một đặc trưng của các dự án đầu tư là luôn chứa đựng các yếu tố rủi ro. Khi
rủi ro xảy ra, không chỉ dự án bị ảnh hưởng mà ngân hàng và xã hội cũng sẽ
gặp nhiều tổn thất.

1
Trước thực tế đó, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và đảm
bảo an toàn về vốn cho mình, công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư được
cho vay vốn là vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Nhận thấy tầm
quan trọng của công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư được cho vay vốn đối


với ngân hàng thương mại, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Chi nhánh Hà Nội, em đã nghiên cứu đề tài: “ Quản lý rủi ro các dự
án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Hà Nội.”
Chuyên đề của em gồm 3 chương:
–Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro và quản lý rủi ro.
–Chương II: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
–Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng
quản lý rủi ro các dự án đầu tư với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kinh nghiệm và trình độ nên
chuyên đề của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được
sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị trong Phòng Tín
dụng 4 – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội để bài viết hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thu Hà, các cô chú và anh
chị Phòng Tín dụng 4 – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em trong thời gian qua.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thúy Mai

2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO
1.1. Rủi ro đối với các dự án đầu tư.
Dự án đầu tư có đặc trưng là:
-Có sự tham gia của nhiều bên như: Chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan
cung cấp dịch vụ trong đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước.
-Môi trường hoạt động của dự án là: “va chạm”, có sự tương tác phức
tạp giữa dự án này với dự án khác, giữa bộ phận quản lý này với bộ phận
quản lý khác.

-Dự án có tính chất bất định và rủi ro cao, do đặc điểm mang tính chất
dài hạn của hoạt động đầu tư phát triển.
Những đặc trưng trên cho thấy hoạt động đầu tư vào các dự án luôn
chứa đựng rất nhiều rủi ro ở tất cả các giai đoạn của dự án là giai đoạn lập dự
án (rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài), giai đoạn thực hiện đầu tư, giai đoạn
vận hành khai thác dự án.
Một dự án đầu tư có thể gặp những rủi ro sau:
Một dự án đầu tư có thể gặp rất nhiều rủi ro khác nhau. Nhưng nhìn
chung, có thể liệt kê một số vấn đề sau :
-Thời gian thực hiện dự án lâu hơn dự kiến (do chậm giải phóng mặt
bằng, do không huy động đủ vốn, do mua thiết bị không đúng chủng loại, tiến
độ đấu thầu bị kéo dài…)
-Xảy ra khó khăn không lường trước (Ví dụ: Dịch SARS xảy ra làm
khách du lịch đến Việt Nam giảm đáng kể. Rất nhiều chương trình làm việc
của các doanh nghiệp bị phá vỡ do đối tác nước ngoài không đến, các dự án
hoạt động khó khăn).

3
-Xảy ra các sự kiện bất ngờ (Một trận hỏa hoạn đã xảy ra và làm cháy
một thiết bị quan trọng và khó kiếm. Do đó tất cả các hoạt động của dự án
liên quan đến thiết bị này đều phải hủy bỏ).
-Xảy ra những biến động ngắn hạn và áp lực cạnh tranh sẽ gây biến
động hoạt động chung (Dự án nhà máy sản xuất mắm tép đặc sản đang chuẩn
bị được đưa vào sản xuất thì có tin đồn thất thiệt là mắm tôm và mắm tép gây
ra dịch tả. Mặc dù tin đồn này sau đó đã được đính chính lại nhưng cũng đã
gây tâm lý hoang mang cho người dân khi ăn mắm tép một thời gian. Điều
này đã làm ảnh hưởng tới kế hoạch của dự án).
-Sự phối hợp giữa các bộ phận liên quan rất lỏng lẻo (thị trường đã xác
định, sản xuất đã tăng công suất, trong khi mạng lưới phân phối vẫn chưa
hình thành).

1.2. Rủi ro tín dụng.
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc
biệt – hàng hóa tiền tệ. Hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn những yếu tố
rủi ro. Rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi, là bạn đường trong kinh doanh,
có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Đặc biệt là đối với hoạt
động cho vay các dự án đầu tư càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn, bởi bản thân
các dự án đầu tư như trên đã nói vốn đã chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đối với
loại rủi ro khi cho các dự án đầu tư vay vốn ngân hàng đã giành riêng cho một
tên gọi là “rủi ro tín dụng”.
-Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước ngày 22/4/2005: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”

4
-Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của PGS.TS. Phan Thị Thu
Hà: “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi.”
Rủi ro tín dụng gắn với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, có quy
mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện
một hoạt động tài trợ cho các dự án đầu tư, ngân hàng luôn cố gắng phân tích
các yếu tố của người vay, của dự án sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhìn
chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không
một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác tất cả các
vấn đề có thể xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay
đổi do nhiều nguyên nhân. Một số nhóm nguyên nhân có thể đưa ra ở đây là :
1.2.2. Các nguyên nhân rủi ro đối với các dự án đầu tư.

1.2.2.1. Những nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô:
*Môi trường chính trị:
Rủi ro này bao gồm các bất ổn tài chính và bất ổn chính trị. Có thể liệt
kê một số rủi ro chính trị chính sau đây:
-Rủi ro thuế: Sự thay đổi về thuế đã làm cho dòng tiền hàng năm của
dự án bị thay đổi từ đó NPV và IRR của các dự án bị thay đổi theo, nguồn trả
nợ của dự án từ đó cũng bị ảnh hưởng.
-Hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại khác làm giảm sản
lượng hoặc tăng chi phí của các dự án. Ví dụ: thuế nhập khẩu thép tăng lên làm
tăng chi phí nguyên vật liệu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án.
-Chính sách tuyển dụng lao động: những thay đổi về quản lý và tuyển
dụng lao động như thay đổi quy định về mức lương tối thiểu, chính sách với
lao động nữ, hạn chế lao động nước ngoài,… đều ảnh hưởng tới hiệu quả của
dự án đầu tư cũng như năng trả nợ của dự án.

5
-Kiểm soát ngoại hối: hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài ảnh hưởng tới
hoạt động cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng như quyền lợi của
các nhà đầu tư.
-Lãi suất: Khi chính phủ đưa ra chính sách lãi suất để kiểm soát lạm
phát có thể làm cho hoạt động đầu tư tăng lên hoặc giảm đi.
-Độc quyền: Sự độc quyền kinh doanh của Nhà nước ở một số lĩnh vực
có thể làm hạn chế đầu tư vào các bộ phận khác trong xã hội và thường dẫn
đến sự kém hiệu quả trong đầu tư.
-Môi trường, sức khỏe và an toàn: những quy định liên quan đến kiểm
soát chất thải, quy trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng có thể làm
hạn chế nhiều dự án cũng như làm tăng chi phí của các dự án.
-Quốc hưu hóa. VD năm 2007 ở Cuba đã đưa ra việc quốc hữu hóa các
tổ chức kinh tế.
*Môi trường kinh tế:

Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế không
thuận lợi sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, mỗi đồng vốn
không phát huy được hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay cuả dự
án bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho các khoản cho vay của ngân hàng. Trong
một nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất, tiêu dùng của xã hội
còn lớn thì hoạt động sản xuất còn có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Nhưng
một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu
tư bị giảm sút, tất cả tác động đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân
hàng. Không chỉ giới hạn trong môi trường kinh tế của một nước mà các tác
động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là khi quan hệ kinh tế quốc
tế được mở rộng.

6
*Môi trường và xã hội:
Môi trường và xã hội là nhân tố lớn ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Môi
trường bao gồm những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nhưng không bị chi
phối bởi người ra quyết định. Những rủi ro do môi trường và xã hội gây ra
như: Rủi ro về những tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và
người dân xung quanh, dẫn đến dự án phải tốn nhiều chi phí hơn cho việc xử
lý chất thải, thậm chí dự án có thể bị dừng hoạt động. Rủi ro có thể xảy ra khi
thị hiếu của xã hội thay đổi. Ví dụ như: do dân trí nâng cao, người dân nhận
thấy rằng các thức ăn công nghiệp thực sự không tốt cho sức khỏe, họ chuyển
sang dùng những thực phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên. Do vậy, những thực
phẩm đóng hộp và những thực phẩm như gà công nghiệp, cá nuôi đều bị giảm
nhu cầu, giá bán hạ, những dự án sản xuất những mặt hàng trên trở nên thua
lỗ. Rủi ro cũng có thể xảy ra khi đạo đức của xã hội thay đổi.
*Nguyên nhân bất khả kháng:
Ngoài các nguyên nhân khách quan trên, rủi ro tín dụng còn chịu tác
động của các nhân tố khác như: thiên tai, chiến tranh, địch họa,… Những

nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những
nhân tố này có thể xảy ra bất ngờ, tác động tới người vay, tạo thuận lợi hoặc
khó khăn cho người vay. Nhiều người vay với bản lĩnh của mình có khả năng
dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp
khác, dự án có thể bị tổn thất song vẫn đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng
đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi các tác động của các nguyên nhân bất
khả kháng đối với dự án là nặng nề thì khả năng trả nợ của dự án ít nhiều bị
suy giảm. Ví dụ: một trận động đất lớn xảy ra làm phá hủy toàn bộ cơ sở vật
chất của một nhà máy.

7
1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía dự án.
Nguyên nhân từ phía dự án đầu tư cho vay là một trong những nguyên
nhân chính, điển hình gây ra rủi ro tín dụng. Theo thống kê cho thấy, khả
năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía dự án là phổ biến nhất bởi dự án
mà đại diện là chủ đầu tư là người trực tiếp sử dụng vốn vay. Nguyên nhân từ
phía dự án có thể xem xét trên các mặt sau:
*Dự án bị thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân có thể do khả năng quản lý trong lĩnh vực kinh doanh,
điều hành dự án, thực hiện dự án và vận hành dự án không tốt, do trình độ yếu
kém của khách hàng trong việc dự đoán các vấn đề về kinh doanh như:
-Rủi ro trong quá trình xây dựng và hoàn thành công trình: do khả
năng quản lý của chủ đầu tư kém nên dẫn đến một trong các rủi ro sau:
+Chi phí xây dựng vượt quá dự toán.
+Công trình xây dựng không đảm bảo các yêu cầu của dự án.
+Hoàn thành không đúng thời hạn.
+Không giải tỏa được dân, phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dự án.
-Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán: do dự đoán ban đầu về thị
trường của dự án không chính xác nên dự án có thể rơi vào một trong só các
tình trạng sau: cầu không đủ, sản lượng bán ra nhỏ hơn công suất của dự án,

giá bán thấp hơn dự kiến ban đầu,…dẫn đến doanh thu của dự án thấp, không
trang trải đủ cho các chi phí, không đảm bảo được khả năng trả nợ cho ngân
hàng.
-Rủi ro về cung cấp đầu vào:
Đầu vào của dự án bao gồm nguyên vật liệu, vốn, lao động, máy móc
thiết bị,… do chủ quan của người lập dự án lúc đầu mà có thể dẫn đến tình
trạng khi dự án đi vào giai đoạn vận hành khai thác thì nguồn cung nguyên
vật liệu của dự án lại không đáp ứng được công suất của dự án. Ví dụ : dự án

8
nhà máy cà chua xây dựng ở Hải Phòng, do công tác nghiên cứu thị trường
đầu vào không tốt nên khi dự án đi vào sản xuất thì nguồn nguyên liệu cà chua
ở Hải Phòng và các tỉnh lân cận chỉ đáp ứng được một phần nhỏ công suất
của dự án, dự án luôn phải hoàn động cầm chừng, dưới công suất và cuối
cùng đã phải tạm dừng. Rủi ro cũng có khể xảy ra khi dự đoán về giá cả, chất
lượng nguyên vật liệu lúc đầu không còn chính xác. Ví dụ: dự án được lập
vào năm 2006 khi mà giá xăng mới chỉ là 11.000đ/l, dự án dự kiến tiền chi phí
vận chuyển mỗi chuyến hàng là 10.000.000đ, nhưng đến năm 2008 khi dự án
chính thức đi vào hoạt động thì giá xăng đã tăng lên 14.000đ/l, chi phí cho
việc vận chuyển mỗi chuyến hàng lúc này đã tăng lên 13.000.000đ. Tất cả
những rủi ro do dự đoán không chính xác về nguồn cung cấp đầu vào trên đều
gây khó khăn tới việc vận hành dự án cũng như thanh toán các khoản nợ.
-Rủi ro về kỹ thuật và vận hành: Khi các tiện ích (dây chuyền, thiết bị,
hệ thống điều hành,…) của dự án không thể vận hành và bảo dưỡng ở mức độ
phù hợp với thiết kế ban đầu. Ví dụ: Một công nghệ đặc biệt của dự án được
nhập về từ châu Âu, nơi có khí hậu lạnh và khô, khi về tới Việt Nam do khí hậu
nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao nên các thông số ban đầu của công nghệ đã bị
thay đổi, không thể vận hành như ở nơi nhập công nghệ. Rủi ro trên sẽ dẫn đến
dự án phải tốn thêm chi phí để bảo dưỡng hoặc điều chỉnh lại công nghệ cho
phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, thậm chí có thể dẫn tới bỏ hoàn toàn công

nghệ. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng trả nợ của dự án.
*Khách hàng cố tình không tuân thủ các điều kiện trong hoạt động
vay vốn, cố tình lừa đảo ngân hàng.
Không ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của mình đã tìm
mọi cách để đối phó với ngân hàng như cung cấp thông tin không chính xác,
giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo, mua chuộc cán bộ tín dụng nhằm
vay vốn ngân hàng. Nhiều chủ đầu tư còn lập dự án ảo để vay vốn của ngân

9
hàng sau đó sử dụng số tiền vay vốn đó vào mục đích khác. Thậm chí, nhiều
dự án kinh doanh có lãi song không chịu trả nợ ngân hàng đúng hạn, chây ỳ
với kỳ vọng quỵt nợ hoặc có thể sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Đây là
trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín
dụng, nó biểu hiện một hành động có chủ ý xấu của người vay đã được tính
toán, chuẩn bị từ trước nhằm chiếm đoạt tiền vay, loại nguyên nhân này được
coi là rủi ro về tư cách đạo đức của người vay.
Rủi ro từ phía dự án cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và là chủ yếu
trong hoạt động tín dụng hiện nay. Việc phòng tránh cũng rất khó khăn, phức
tạp vì khách hàng của ngân hàng rất đa dạng, trình độ khác nhau, kinh doanh
trong nhiều lĩnh vực do vậy ngân hàng cần nâng cao chất lượng công tác thẩm
định dự án đầu tư trước khi quyết định cho vay, tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện khoản vay của các chủ đầu tư và đa dạng hóa đầu tư
nhằm phân tán bớt rủi ro.
1.2.2.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Thứ nhất, rủi ro xảy ra do những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế,
chính sách của ngân hàng còn chưa phù hợp.
Chính sách tín dụng phản ánh cưong lĩnh tài trợ của ngân hàng đó và
trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng,
tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung
trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.

Chính sách không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
có thể tạo nhiều rủi ro. Chẳng hạn, ngân hàng vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt
động tín dụng quá mức thì sẽ có rủi ro cao, nợ quá hạn gia tăng. Ngược lại,
chính sách khách hàng không đa dạng, dẫn đến tập trung tài trợ cho một số
khách hàng, lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi mà “bỏ trứng tất cả vào
một giỏ”.

10
Thứ hai, bộ máy tổ chức hoạt động quản lý rủi ro còn lạc hậu, yếu kém.
Ngân hàng thiếu một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro,
quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề,
địa phương khác nhau để phân tán rủi ro. Chất lượng thông tin thấp, sự hợp
tác giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ
và chưa đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro.
Thậm chí một số ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông
tin cho trung tâm thông tin tín dụng và điều đó đã dẫn đến việc tìm hiểu khách
hàng có quan hệ vay nợ tại các tổ chức tín dụng trở nên khó khăn. Chính vì
vậy, ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc họ có sử dụng khoản vay
đúng mục đích hay không vì chưa có thông tin đầy đủ. Nếu thiếu một trong
các yêu cầu đó thì ngân hàng sẽ không thể có được những quyết định phù
hợp, có thể dẫn đến việc ngân hàng sẽ rót vốn vào những nơi thiếu tin cậy.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn yếu kém, lỏng lẻo. Nhiều ngân
hàng còn chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, chỉ đạo quy
trình chưa nghiêm túc, kém hiệu lực, thậm chí có những sai phạm.
Thứ ba, sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức
của cán bộ tín dụng ngân hàng. Điều này được thể hiện:
Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực, nghiệp vụ, không có
khả năng phân tích, thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác do
công tác thông tin vừa yếu, vừa thiếu. Ngân hàng không có đủ các số liệu
thống kê, các chỉ tiêu phân tích dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án,

thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh.
Việc cán bộ tín dụng thiếu năng lực còn dẫn đến tình trạng không phát hiện
được những sai sót về mặt pháp lý trong hồ sơ xin vay của khách hàng, hay
định giá tài sản đảm bảo không hợp lý có thể gây ra những tổn thất cho ngân
hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố tình gán tài sản đó cho

11
ngân hàng. Sự yếu kém và lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám
sát việc thực hiện các khoản vay cũng là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn
đến việc không phát hiện kịp thời hiện tượng vốn vay không được sử dụng
đúng mục đích hoặc hành vi lừa đảo của khách hàng.
Bên cạnh vấn đề là thiếu và yếu năng lực, đôi khi một bộ phận cán bộ
ngân hàng yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi,
tham ô, nhanh hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc. Các cán bộ tín dụng quá
dễ dàng cho vay đối với khách hàng là bạn bè, người quen thân, hoặc do lợi
ích cá nhân mà bỏ qua các quy định cần thiết để đảm bảo an toàn. Cán bộ
quản lý đôi khi vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích của một nhóm tập thể, trong
công tác điều hành đã vô tình tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro đạo đức ở
cán bộ phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản
lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện vay vốn có thể
chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ thẩm định ghi
rõ nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho vay. Thông
thường những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế
nhị nào đó, nhà quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách
hàng hợp thức hóa hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm
định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo (trên thực tế thì rất ít cán bộ có thể
bảo vệ ý kiến ban đầu của mình).
Do đó, rủi ro xảy ra với các dự án đầu tư vay vốn là không thể tránh
khỏi, là khách quan. Rủi ro là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng
hoặc hạn chế chứ không thể loại trừ.

Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây rủi ro trên đây giúp chúng ta
nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan hơn, từ đó có được đề xuất
phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các dự án đầu tư một cách
hữu ích, thiết thực hơn.

12
1.3. Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại, bao
gồm 2 mặt: Sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ
hoạt động tín dụng. Song ở đây không có cách nào để loại trừ rủi ro xảy ra
hoàn toàn mà phải quản lý thật cẩn thận. Đứng trước quyết định tài trợ vốn
cho các dự án, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi
ro. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng (đặc biệt là đối với cho vay các dự án đầu
tư) được coi là nội dung quản lý quan trọng của ngân hàng thương mại.
Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng: “Quản lý rủi ro tín dụng là việc sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ để kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế hậu
quả xấu trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu sự tổn thất không để hoạt động
ngân hàng lâm vào tình trạng đổ vỡ.”
1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro các dự án đầu tư.
Rủi ro đối với cho vay các dự án đầu tư là rủi ro phức tạp nhất trong
hoạt động ngân hàng. Nó có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu và bất kỳ khi nào.
1.3.1.1. Ảnh hưởng của rủi ro tới nền kinh tế.
Trước tiên, rủi ro xảy ra làm cho ngân hàng chậm hoặc không có khả
năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay. Vì vậy rủi ro sẽ làm giảm vòng quay sử
dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn và làm chậm tốc độ
lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Kết quả là sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế
không phát triển được, xã hội bị rối loạn.
Sau đó, nếu việc quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng không tốt sẽ
làm ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nếu tình trạng này
kéo dài đến một mức độ nào đó nó sẽ là một trong những nguyên nhân cơ bản

dẫn đến đỗ vỡ, phá sản của tổ chức tín dụng đó và lớn hơn là sự đổ vỡ dây
chuyền của các tổ chức tín dụng mà hậu quả của nó dẫn đến khủng hoảng
kinh tế, tài chính. Điều này không chỉ diễn ra ở một quốc gia mà nó còn lan

13
truyền đến nhiều nước, nhiều khu vực trên toàn thế giới. Nó không chỉ là sự
khủng hoảng về kinh tế, nó còn dẫn đến sự khủng hoảng về chính trị. VD:
khủng hoảng ở Anbani năm 1997, khủng hoảng ở Thái Lan và khu vực Đông
Nam Á 1997.
1.3.1.2. Ảnh hưởng của rủi ro tới bản thân ngân hàng cấp tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho
ngân hàng và nó quyết định sự tồn tại cũng như sự phát triển của ngân hàng.
Khi rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư, trước tiên nó sẽ làm gây ra
những khoản nợ khó thu hồi, vốn của ngân hàng sẽ không thể quay vòng, lãi
không thể thu. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó đòi sẽ phát sinh
các khoản chi phí phát sinh như giám sát, thu nợ,… Bên cạnh đó, ngân hàng
vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động. Kết quả là lợi nhuận của ngân
hàng bị giảm sút.
Ngân hàng bao giờ cũng lên kế hoạch cân đối giữa dòng tiền ra và dòng
tiền vào tại các thời điểm được xác định sẵn trong tương lai. Khi các khoản vay
không thu hồi được như kế hoạch sẽ dẫn đến sự mất cân đối, gây ra sự suy yếu và
hạn chế cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán cho các khoản tiền ra. Nếu tình
trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng diễn ra quá nhiều lần, hay những thông
tin về rủi ro tín dụng của nội bộ ngân hàng bị rò rỉ ra bên ngoài thì uy tín của ngân
hàng bị giảm sút. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng
cũng yếu đi, do đó việc huy động tiền gửi sẽ gặp nhiều khó khăn, việc thiết lập các
giao dịch với các doanh nghiệp và các ngân hàng khác cũng sẽ không được thuận
lợi. Uy tín đối với khách hàng là một tài sản vô hình hết sức quý giá của ngân
hàng, một khi đã mất đi thì rất khó có thể lấy lại hoặc nếu có thì cũng phải tốn
nhiều tiền của cũng như thời gian.

Nếu mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chịu đựng được thì ngân hàng
có thể bù đắp bằng các quỹ dự phòng rủi ro hoặc vốn tự có, còn nếu rủi ro xảy

14
ra ở mức độ nghiêm trọng thì sự bù đắp của các quỹ dự phòng cũng không
thay đổi được tình hình. Thu nhập không thể bù đắp được chi phí, các dòng
tiền vào không thể cân đối với dòng tiền ra, khả năng thanh toán của ngân
hàng bị giảm sút dẫn đến rủi ro thanh toán, thậm chí gây phá sản nếu không
có sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước. VD: Ngân hàng Đông Nam
Á năm 2001.
Như vậy, rủi ro khi cho vay các dự án đầu tư xảy ra dù ở mức độ nào
cũng gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng
trưởng của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, quản lý rủi ro khi cho các dự án đầu
tư vay vốn không chỉ là trách nhiệm riêng của ngân hàng mà là của toàn nền
kinh tế. thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro phù hợp sẽ làm giảm tổn thất
cho ngân hàng cũng như nền kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống tài chính ngân
hàng, tăng cường sức cạnh tranh, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng.
1.3.2. Nội dung quản lý rủi ro.
Sơ đồ 1: Quy trình quản lý rủi ro chung

Phát hiện rủi ro
Đánh giá rủi ro
Quản trị rủi ro
Tránh
rủi ro
Hạn chế
rủi ro
Tự bảo
hiểm
Phong tỏa

rủi ro
Chuyển
giao rủi ro
15
1.3.2.1. Phát hiện rủi ro.
Đây là công việc mang tính thiết yếu, quan trọng bởi nếu nó được làm
tốt thì các bước tiếp theo của nội dung quản lý rủi ro mới được tiến hành, mới
đạt kết quả tốt. Việc phát hiện rủi ro phải được tiến hành xem xét một cách
tổng thể đối với mọi dự án đầu tư nói chung và trên mọi giai đoạn, mọi khía
cạnh của dự án đầu tư dựa trên mọi dấu hiệu có liên quan.
Nguồn thông tin mà ngân hàng có thể dựa vào để phát hiện rủi ro là:
–Thông tin từ hồ sơ dự án.
–Thông tin ngân hàng tự thu thập, điều tra và tổng hợp được từ việc
phỏng vấn chủ đầu tư, kiểm tra thực tế dự án hay khai thác thông tin từ
trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước.
–Thông tin từ tổ chức tín dụng khác có quan hệ với khách hàng, thông
tin từ báo chí, dư luận, internet và các cơ quan quản lý khác.
1.3.2.2. Đánh giá rủi ro của một dự án đầu tư.
Tìm hiểu, đo lường và phân tích là những bước tiếp theo sau khi đã
phát hiện được dự án đầu tư có những nguy cơ rủi ro để đánh giá rủi ro. Trên
thực tế những bước này có liên kết khá chặt chẽ với nhau và thường được gộp
chung lại. Mục tiêu của các bước này là giúp cho bộ máy quản trị rủi ro hiểu
chính xác và nhất quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân
của rủi ro và quan trọng nhất là lượng hóa được mức độ rủi ro có thể xảy ra
cho ngân hàng.
Để xác định mức độ rủi ro của một dự án đầu tư, có thể áp dụng một số
mô hình cụ thể đánh giá rủi ro.
a)Mô hình chất lượng 6C:
-Character (tư cách chủ đầu tư):
Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục

đích rõ ràng và thiện chí của chủ đầu tư trong việc đầu tư thực hiện dự án
cũng như vay nợ ngân hàng.

16
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích thực hiện dự án cũng như mục
đích xin vay vốn của chủ đầu tư có phù hợp với chính sách pháp luật của nhà
nước cũng như chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng
thời phải xem xét về lịch sử hoạt động kinh doanh, lịch sử đi vay và trả nợ
của khách hàng. Ngân hàng cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau
để đánh giá được chính xác. Thậm chí khi mục đích thực hiện dự án và mục
đích xin vay tốt thì cán bộ tín dụng cũng phải xem xét chủ đầu tư có tỏ thái độ
trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, có trả lời các câu hỏi một cách trung
thực, có thiện chí và nỗ lực hết sức để dự án hoạt động có hiệu quả và hoàn
trả khoản vay đúng hạn. Nếu phát hiện chủ đầu tư giả dối trong kế hoạch sử
dụng và trả nợ vốn vay như đã thỏa thuận thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho
vay, nếu không thì khả năng xảy ra rủi ro sẽ là rất cao.
-Capacity (năng lực của người vay):
Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay phải có đủ năng
lực, hành vi cũng như năng lực pháp lý để thực hiện dự án cũng như ký kết
hợp đồng. Ngân hàng phải căn cứ vào các giấy phép thực hiện của dự án.
-Cash (thu nhập của dự án):
Dự án đầu tư có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ hay không? Đây là
một câu hỏi mà ngân hàng luôn tìm cách trả lời. Nhìn chung, dự án có ba
nguồn để tạo tiền đó là: dòng tiền từ doanh thu bán hàng, dòng tiền từ phát
hành chứng khoán và dòng tiền từ bán hàng thanh lý tài sản. Bất cứ nguồn thu
nào từ ba nguồn thu trên đều có thể dùng để trả nợ vay. Tuy nhiên khi xem
xét khả năng trả nợ của dự án người ta thường ưu tiên nguồn thứ nhất hơn cả
và coi đây là nguồn thu đầu tiên và căn bản để trả nợ. Có sự ưu tiên này vì
việc bán thanh lý tài sản có thể làm cho năng lực tài chính của dự án đầu tư
yếu đi, khiến cho ngân hàng và chủ nợ ít được đảm bảo.


17
-Collateral (tài sản đảm bảo):
Một khoản tín dụng được đảm bảo bằng tài sản cầm cố hay thế chấp sẽ
gắn chặt trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Khi rủi ro xảy ra, dự
án không trả được nợ thì tài sản cầm cố, tài sản thế chấp sẽ trở thành nguồn thu
nợ thứ 2 của ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng này của nó mà tài sản thế
chấp, cầm cố phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định. Ngoài các tài sản tự
có của chủ đầu tư đem cầm cố, thế chấp, ngân hàng còn cho phép dự án đầu tư
được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp, cầm cố. Khi đó vốn tự có
của chủ đầu tư tham gia vào dự có thể chỉ là 15% đã được vay vốn thực hiện
dự án. Một tỷ lệ rất thấp nên dễ nảy sinh tâm lý chủ quan, rủi ro cao cho ngân
hàng. Vì vậy, khi đánh giá giá trị tài sản bảo đảm, cán bộ tín dụng phải đặc biệt
chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên
dụng của tài sản. Khía cạnh công nghệ cũng phải đặc biệt chú ý tới bởi nếu tài
sản của người vay có công nghệ lạc hậu thì giá trị sẽ bị giảm sút rất nhiều và rất
khó tìm được người mua khi công nghệ lại thay đổi hàng ngày.
-Conditions (các điều kiện).
Các điều kiện này bao gồm điều kiện bên trong (chính sách tín dụng
từng thời kỳ của ngân hàng, việc mua sắm, đầu tư, chính sách lương
thưởng…) và các điều kiện bên ngoài (định hướng phát triển xã hội của Nhà
nước, chính sách thuế, tiêu chuẩn về công nghệ môi trường…)
b)Mô hình điểm số Z.
Mô hình này do nhà kinh tế E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối
với các doanh nghiệp và dự án vay vốn:
Z = 1,2 X
1
+ 1,4 X
2
+ 3,3 X

3
+ 0,6 X
4
+ 1,0 X
5

Trong đó:
X
1
= Vốn lưu động / Tổng tài sản.
X
2
= Lợi nhuận chưa chia / Tổng tài sản.
X
3
= Lợi nhuận trước thuế và lãi / Tổng tài sản.

18
X
4
= Giá thị trường của tổng tài sản / Giá trị hạch toán của tổng nợ.
X
5
= Doanh thu / Tổng tài sản.
Theo mô hình này, nếu trị số Z càng cao thì dự án có xác suất vỡ nợ
càng thấp. Theo mô hình của Altmat:
Nếu Z > 2,675 ---> Mức độ rủi ro thấp.
Nếu 1,8 < Z < 2,675 ---> Mức độ rủi ro trung bình.
Nếu Z < 1,8 ---> Mức độ rủi ro cao.
Mô hình này có ưu điểm là giúp nhanh chóng định lượng được rủi ro

của doanh nghiệp cũng như dự án. Tuy nhiên, bên cạnh đó, mô hình này cũng
có những hạn chế:
-Chỉ cho phép phân biệt dự án, khách hàng “vỡ nợ”, và “không vỡ”.
Trong thực tế vỡ nợ được chia thành nhiều loại. Vì vậy, để có thể phân biệt
chính xác dự án, doanh nghiệp thuộc loại nào thì mô hình cần có nhiều thang
điểm hơn tương ứng với các mức vỡ nợ khác nhau.
-Trong công thức không tính đến nhiều yếu tố rất quan trọng và ảnh
hưởng đáng kể tới mức độ rủi ro của dự án nhưng khó lượng hóa.
1.3.2.3. Quản trị rủi ro.
Các biện pháp được ngân hàng dùng để quản trị rủi ro các dự án đầu tư là:
–Tránh rủi ro: không cho vay các dự án đầu tư cảm thấy khả năng rủi ro
cao, tính khả thi thấp.
–Hạn chế rủi ro:
+Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong Luật
các tổ chức tín dụng và trong các Nghị định của Ngân hàng Nhà
nước. Các quy định nêu rõ trường hợp cấm các ngân hàng không
được tài trợ, điều kiện ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ.
+Xác định danh mục các dự án tài trợ với mức độ rủi ro khác nhau.
Các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau,
các loại dự án khác nhau,… sẽ có rủi ro khác nhau.

19
+Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng.
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng,
đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách,
quy tắc và kiểm soát chung. Các chính sách tín dụng nhằm hạn chế
rủi ro như: Chính sách tài sản đảm bảo, chính sách đồng tài trợ,…
Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín
dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro như phân tích
tình hình sản xuất kinh doanh, thẩm định dự án vay vốn, lịch sử

của người vay, mục đích vay, kiểm soát trong khi cho vay,….
+Xác định dấu hiệu của khoản cho vay có vấn đề, giới hạn các
khoản tín dụng và đa dạng hóa.
+Quản lý các dự án đầu tư cho vay vốn, hỗ trợ hoạt động các dự án
như cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi,…
+Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề. Rủi ro là
tất yếu của quá trình kinh doanh. Do vậy, ngân hàng luôn xây dựng
chính sách sống chung cùng với rủi ro: Hạn chế rủi ro, chấp nhận
rủi ro, khai thác hoặc thanh lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có
vấn đề.
–Tự bảo hiểm: Mua bảo hiểm tín dụng. Ngân hàng có thể mua bảo
hiểm cho các khoản cho vay của mình tại các công ty bảo hiểm để
trường hợp xấu nhất là khi xảy ra rủi ro thì người chịu rủi ro là công ty
bảo hiểm chứ không phải ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn yêu cầu
dự án tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm. Đây vừa là cách để các dự án
giảm thiểu rủi ro cho mình và cũng là cho chính ngân hàng.
–Phong tỏa rủi ro.
–Chuyển giao rủi ro: Bán nợ. Ngân hàng khi thấy các dự án không còn
có khả năng thu hồi nợ thì có thể bán khoản nợ đó cho các công ty mua
bán và quản lý nợ.

20
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển – Chi nhánh Hà Nội.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội (BIDV Hà Nội) được
thành lập vào ngày 27/5/1957 với tên gọi ban đầu là Chi nhánh Ngân hàng Kiến
thiết Thành phố Hà Nội. Đây là chi nhánh có lịch sử hình thành lâu đời nhất so

với các chi nhánh khác trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
cũng như so với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn Hà Nội.
Nhiệm vụ ban đầu của ngân hàng là nhận vốn từ Ngân hàng Nhà nước
để tiến hành cấp phát và cho vay trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Năm 1982, Ngân hàng Kiến thiết Hà Nội đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư
và Xây dựng Hà Nội thuộc hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng:
–Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
–Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.
Theo quy định của Pháp lệnh, Việt Nam chỉ được thành lập Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển quốc doanh.
Ngày 26/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam đổi tên
thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo quyết định số 401 của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng và có trụ sở đóng tại 194 Trần Quang Khải – Hà Nội
với số vốn điều lệ là 1100 tỷ đồng và có các chi nhánh trực thuộc tại các tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương. Theo đó, Ngân hàng Đầu tư và Xây
dựng Hà Nội đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.

21
Từ khi thành lập đến năm 1995, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Hà Nội trải qua 3 giai đoạn phát triển:
–Giai đoạn 1957 – 1960: phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế sau
chiến tranh chống Pháp và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
–Giai đoạn 1960 – 1975: phục vụ chống chiến tranh phá hoại của giặc
Mỹ leo thang ra đánh phá Miền Bắc và đấu tranh giải phóng Miền Nam
thống nhất Tổ quốc.
–Giai đoạn 1975 – 1995: phục vụ công cuộc phục hồi, phát triển kinh tế
trong cả nước.
Ngày 1/1/1995, bộ phận cấp phát vốn ngân hàng tách khỏi Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành Tổng cục đầu tư và phát triển trực thuộc

Bộ Tài chính. Như vậy, từ khi thành lập cho đến 1/1/1995, Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam không hoàn toàn là một ngân hàng thương mại mà chỉ
là một Ngân hàng quốc doanh có nhiệm vụ nhận vốn từ Ngân sách Nhà nước
và tiến hành cấp phát cho vay trong lĩnh vực Đầu tư xây dựng cơ bản.
Và từ ngày 1/1/1995, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói
chung, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói riêng thực sự
hoạt động như một ngân hàng thương mại. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Hà Nội có nhiệm vụ huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và
dài hạn từ các thành phần kinh tế, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức tín
dụng, các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức nước ngoài bằng VNĐ và USD
để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi tổ
chức, mọi thành phần kinh tế và dân cư.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội là một đơn vị thành
viên trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) được phân

22
cấp hoạt động theo mô hình chi nhánh cấp I, xếp hạng doanh nghiệp hạng I
(theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam).
Mô hình tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
được xây dựng theo mô hình hiện đại hoá ngân hàng, theo hướng đổi mới và
tiên tiến, phù hợp với quy mô và đặc điểm hoạt động của chi nhánh. Với mô
hình tổ chức đến đầu năm 2006, tổng số cán bộ công nhân viên của Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội là 317 người, trong đó trên 80% cán
bộ đạt trình độ Đại học và trên Đại học.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội là đơn vị thành viên
trong hệ thống BIDV với đầy đủ chức năng nhiệm vụ của một đơn vị thành
viên trong hệ thống BIDV.
Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
được trình bày theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội

Khối dịch
vụ khách
Khối hỗ trợ
kinh doanh
Khối quản
lý nội bộ
Các đơn vị
trực thuộc
Phòng
DVKHDN
Phòng kế
hoạch
Phòng tổ
chức CB
Phòng
DVKHCN
Phòng TĐ-
QLTD
Văn phòng
Các phòng
giao dịch
1,2,6,10,12,
17,18
Phòng thanh
toán quốc tế
Phòng
KTKTNB
23

Phòng TD
3
Phòng TD
4
Phòng tài
chính kế
Ban Giám đốc
Khố tín
dụng
Phòng TD
2
Phòng tiền
tệ KQ
Phòng
TD1
Phòng điện
toán
Căn cứ theo mô hình và mạng lưới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Hà Nội với 23 đầu mối bao gồm Ban giám đốc và các
Phòng ban liên quan, mạng lưới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Hà Nội trải đều xung quanh địa bàn Thủ đô Hà Nội. 08 phòng
giao dịch hoạt động theo chức năng ngân hàng bán lẻ cung cấp đa dạng các
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng hiện đại tới khách hàng.
Ban Giám Đốc của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
hiện nay gồm 6 người:
Giám đốc ông Ngô Văn Dũng: là người đứng đầu và chịu mọi trách
nhiệm trước Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về
điều hành chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Các Phó giám đốc: 5 người
–Bà Trần Mỹ Phương.

–Bà Phạm Thị Minh Châu.
–Ông Võ Thọ Hùng
–Bà Nguyễn Thị Thuý Vân.
–Bà Bùi Thị Huyền Trang.
Các Phó giám đốc được Giám đốc phân công phụ trách một số công
việc và trực tiếp chỉ đạo một số phòng thuộc bộ máy của Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội (gọi tắt là phụ trách khối).
Hiện nay, tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội có hai
phòng trực tiếp làm công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư là Phòng Tín
dụng và Phòng Thẩm định và Quản lý tín dụng. Chức năng chính của hai
phòng này như sau:
2.1.2.1. Phòng tín dụng.
Mỗi phòng tín dụng là một đơn vị thuộc Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Hà Nội.

24
Các phòng tín dụng 1,2,4 có nhiệm vụ tổ chức thực hiện việc kinh
doanh tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các
doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phần kinh tế trung ương (Phòng tín dụng
1 và 4) và kinh tế địa phương (Phòng tín dụng 2) bằng cả nội tệ và ngoại tệ
(Công tác tham mưu do phòng Thẩm định làm).
Phòng tín dụng 3 vừa làm công tác tham mưu vừa tổ chức thực hiện
việc kinh doanh tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng và dịch vụ ngân hàng
đối với các đơn vị và cá nhân thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc
biệt coi trọng các doanh nghiệp cổ phần hóa trong nền kinh tế.
2.1.2.2. Phòng Thẩm định và quản lý tín dụng.
Phòng Thẩm định và Quản lý tín dụng có các nghiệp vụ:
–Phổ biến, tập huấn hướng dẫn về chính sách, chế độ thể lệ, quy trình
nghiệp vụ và chỉ đạo của Tổng Giám đốc trong công tác tín dụng, công
tác thẩm định dự án đầu tư và tư vấn đầu tư.

–Là đầu mối tập hợp những vướng mắc, kiến nghị trong quá trình thực
hiện công tác tín dụng tại chi nhánh, tổng hợp, đề xuất các giải pháp
trình Giám đốc xử lý.
–Thẩm tra hồ sơ tín dụng đầu tư trung dài hạn, thẩm tra các hồ sơ tín
dụng vay vốn, bảo lãnh theo sự phân cấp của Giám đốc giao, tham mưu
cho Giám đốc quyết định.
–Theo chỉ đạo của Giám đốc kiểm tra các dự án vay vốn hoặc bảo lãnh
hợp đồng tín dụng đã ký kết và đánh giá hiệu quả của các dự án sau đầu
tư.
–Thẩm tra quyết toán dự án đầu tư, các công trình, hạng mục công trình
vay vốn tại chi nhánh nhằm đảm bảo tiết kiệm vốn đầu tư, nâng cao
hiệu quả dự án đầu tư. Thẩm tra dự toán, quyết toán xây dựng cơ bản
theo yêu cầu.

25

×