Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.67 KB, 53 trang )














LUẬN VĂN:

Phương hướng và biện pháp thúc
đẩy xuất khẩu phần mềm của các
doanh nghiệp Hà Nội







Lời mở đầu


Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, không một quốc gia nào
có thể phát triển mà không mở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là một trong
những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng nhất, xuất khẩu


có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Vì thế nhiều quốc gia
xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Thúc đẩy xuất khẩu giúp các nước
trên thế giới có thể khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của mình, đồng thời
giảm thiểu được những bất lợi từ đó tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, giúp người
tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều hơn với giá cả thấp hơn. cũng nhờ đó các
quốc gia trên thế giới có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn, giảm dần chênh lệch
giữa các quốc gia, góp phần làm cho quá trình phân công lao động quốc tế được
thuận lợi hơn.
Đối với Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là một hướng đi đúng
đắn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi mà thị trường trong nước ngày càng chật
hẹp và sức cạnh tranh từ hàng hoá ngoại nhập ngày càng tăng. Nhờ thúc đẩy xuất
khẩu doanh nghiệp có thể:
+ Có cơ hội mở rộng thị trường: được hoạt động trên thị trường thế giới rộng
lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng, sức tiêu thụ hàng hoá cao, khả năng thu được
nhiều lợi nhuận hơn.
+ Cơ hội mở rộng mối quan hệ làm ăn kinh doanh với các đối tác nước ngoài,
có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng để hoàn thiện hoạt động kinh
doanh của mình.
+ Góp phần cải thiện đời sống người công nhân, giảm tỉ lệ thất nghiệp, gia
tăng kim ngạch xuất khẩu.
Ngày 01/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia vào tổ chức thương mại thế giới
WTO, rào cản thương mại được dỡ bỏ, cơ hội kinh doanh được mở rộng, nhiều
nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Hoàn thiện việc thực


hiện chiến lược kinh doanh hợp lý đủ sức cạnh tranh được với doanh nghiệp trong
và ngoài nước là yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp Việt Nam.

A: Mục đích nghiên cứu của đề tài

Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu, hệ thống những vấn đề trong việc Xuất
khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội – thực trạng và phương hướng phát
triển, hiệu quả trong việc thúc đẩy sự ảnh hưởng của nó.
Đánh giá những khó khăn và hạn chế trong việc phát triển ngành Công nghệ thông
tin và Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội. Trên cơ sở đó để có
những giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại.

B: Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp, từ Internet, sách báo, tạp chí, các
báo cáo tổng kết chiến lược của ngành Công nghệ thông tin trong những năm qua,
sử dụng những số liệu để xử lý, phân tích và đánh giá số liệu trong quá khứ, làm
cơ sở rút ra những nhận xét xác đáng, tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn.

C: Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
của thành phố Hà Nội. Nghiên cứu tổng quan về xuất khẩu không đi sâu vào khía
cạnh nghiệp vụ xuát khẩu, nghiên cứu ở cấp độ ngành sản phẩm.

D: Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3
chương:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các
doanh nghiệp Hà Nội




Chương 1

Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm
1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm
Khái niệm:
Phần mềm được hiểu là chương trình, là tài liệu mô tả chương trình, tài liêu hỗ
trợ, nội dung thông tin số hoá.
- Chương trình là một tập hợp của các lệnh, câu lệnh được mô tả bằng bất kỳ
ngôn ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ trong các
vật mang tin (có hoặc không kèm theo các thông tin liên quan), được dùng trực
tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc cả hai khâu sau:
 Tái tạo sang một vật mang tin khác; làm cho một dụng cụ có khả năng xử lý
thông tin thực hiện một chức năng nào đó.
 Chuyển đổi sang môt ngôn ngữ, mã, hệ thôngs ký hiêu khác.
- Tài liệu mô tả chương trình và tài liệu hỗ trợ là tài liệu được thể hiện dưới bất
kỳ dạng nào có nội dung mô tả chương trình, giới thiệu, hướng dẫn cách cài đặt,
sử dụng, nâng cấp, sửa lỗi hoặc các hướng dẫn khác liên quan đến sử dụng và khai
thác chương trình.
- Nội dung thông tin số hoá bao gồm:
 Cơ sở dữ liệu là tập hợp dữ liệu được sắp xếp và lưu trữ dưới dạng điện tử
số hoá.
 Sưu tập tác phẩm số hoá là sưu tập tác phẩm được lưu trữ dưới dạng điện
tử số hoá.
* Mặc dù chúng ta không thể định nghĩa nhưng khái niệm sản phẩm phần mềm
được hiểu như là một hệ thống chương trình thực hiện một nhiệm vụ tương đối
độc lập nhằm phục vụ cho một ứng dụng cụ thể trong cuộc sống của con người
(và có thể được thương mại hoá).
Sản phẩm phần mềm là là phần mềm được sản xuất và được thể hiện hay lưu trữ
ở bất kỳ một dạng vật thể nào có thể được mua bán hoặc chuyển giao cho đối
tượng khác sử dụng. Ví dụ các sản phẩm phần mềm:
 Hệ điều hành: MS – DOS, OS/2, Unix OS…



 Hệ điều hành mạng máy tính: Unix, Novell Netware, Windows NT… và
các ứng dụng trên mạng LAN, WAN, Internet/Intranet (các Browsers, các
dịch vụ khai thác Internet…).
 Các ngôn ngữ lập trình (chương trình dịch): Turbo Pascal, Turbo C…
 Hệ quản trị cơ sở dữ liệu: Microsoft Foxpro, Microsoft Access, Oracle…
 Microsoft Windows và các ứng dụng trên Windows.
 Các trò chơi (Games)
Dưới đây là bảng tóm tắt quá trình tiến hoá của sản phẩm phần mềm:

Thời kỳ đầu tiên
1950 – 1960
Xử lý theo lô (Batch Processing)
Phần mềm được viết theo đơn đặt hàng

Thời kỳ thứ hai
1969 – 1970
Đa người dùng (Multiusers)
Thời gian thực (Real Time)
Cơ sở dữ liệu (Database)
Phần mềm sản phẩm)


Thời kỳ thứ ba
1970 – 1990
Hệ thống xử lý phân bổ (Distributed
processing system)
Thông minh (Intelligence)
Phần cứng giá thành hạ

Hiệu quả tiêu thụ




Thời kỳ thứ tư
1990 trở đi
Hệ thống để bàn (Desktop – Personal –
Notebook Computers)
Lập trình hướng tới đối tượng (Object
oriented programming)
Lập trình trực quan (Visual
programming)
Hệ chuyên gia (Expert system)
Mạng thông tin toàn cầu (Worldwide
communication network)
Xử lý song song (Paralell processing)




Phân loại:
- Phần mềm nhúng là phần mềm được nhà sản xuất thiết bị cài sẵn vào thiết bị
và chúng được sử dụng ngay cùng với thiết bị mà không cần có sự cài đặt của
người sử dụng hay người thứ ba.
- Phần mềm đóng gói là sản phẩm phần mềm có thể sử dụng được ngay sau khi
người sử dụng hoặc nhà cung cấp dịch vụ cài đặt vào các thiết bị hay hệ thống.
Các phần mềm này thường được cung cấp qua dạng đĩa mềm, đĩa CD; qua bất kể
vật mang tin nào khác hay thông qua mạng máy tính. Phần mềm đóng gói thường
được phân ra hai loại: phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng.

Ví dụ: hệ điều hành, các công cụ phát triển, các ngôn ngữ lập trình, xử lý văn
bản, bảng tính, diệt virus, kế toán, dạy học, quản lý tài chính, quản lý vật tư, các
phần mềm tính toán khoa học kỹ thuật, đồ hoạ, v.v…
- Phần mềm chuyên dụng là sản phẩm phần mềm được phát triển theo yêu cầu
cụ thể và riêng biệt của khách hàng. Phần mềm chuyên dụng có thể được phát triển
từ đầu hoặc được thiết kế theo yêu cầu của khách hàng dựa trên cơ sở các phần
mềm có sẵn trên thị trường.
- Sản phẩm thông tin số hoá là nội dung thông tin số hoá được lưu trữ trên một
vật thể nào đó.
1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm
Về mặt thiết kế
Tùy theo mức độ phức tạp của phần mềm tạo ra, người thiết kế phần mềm sẽ ít
dùng đến các phương tiện để tạo ra mẫu thiết kế theo ý muốn (chẳng hạn như các
sơ đồ khối, các lưu đồ, các thuật toán và các mã giải), sau đó mẫu này được mã
hóa bằng các ngôn ngữ lập trình và được các trình dịch chuyển thành các khối lệnh
“module” và các tập khả thi. Tập hợp các tệp khả thi và các khối lệnh làm thành
một phần mềm. Thường khi một phần mềm được tạo thành, để cho hoàn hảo thì
phần mềm đó phải được điều chỉnh hay sửa chữa từ khâu thiết kế cho đến khâu tạo
thành phiên bản phần mềm một số lần. Một phần mềm thông thường sẽ tương
thích với một hay nhiều hệ điều hành, tùy theo cách thiết kế, cách viết mã nguồn
và ngôn ngữ lập trình được dùng.


Về mặt sản xuất phần mềm
Việc phát triển và đưa ra thị trường của một phần mềm là đối tượng nghiên cứu
của bộ môn công nghệ phần mềm kĩ thuật phần mềm hay còn gọi là công nghệ
phần mềm “Software Engineering”. Bộ môn này nghiên cứu các phương pháp tổ
chức, cách thức sử dụng nguồn tài nguyên, vòng quy trình sản xuất, cùng với các
mối quan hệ với thị trường, cũng như liên hệ giữa các yếu tố này với nhau. Tối ưu
hóa quy trình sản xuất phần mềm cũng là đối tượng được xét của bộ môn.

Có thể mô tả quá trình sản xuất một sản phẩm phần mềm trải qua các giai đoạn
bằng hình sau:

Bước 1: Người đặt hàng Bước 2: Thiết kế của chủ trì đề
tài(Công ty công viên)





Bước 3: Sản phẩm của người Bước 4: Sau khi sửa sai với

lập trình những sáng kiến cải tiến


Bước 5: Triển khai đến khách Bước 6: Ước mơ của người sử
hàng dụng
1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm
1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh
* Lý thuyết của Adam Smith


Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế
kỷ XIX, người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith
(1723 – 1790) và sau đó được tục phát triển bởi những người kế tục của ông. Lợi
thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất, khi
sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối trong việc
sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được
do kỹ thuật và sự lành nghề.
Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hoá

sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hoá
này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn.
bằng việc chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai
quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau.
Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mỳ, ngược
lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vảI vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên
môn hoá sản xuất lúa mỳ còn nước Anh sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải vóc.
Nước Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được
nhiều lúa mỳ hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự cung tự cấp. Nước Mỹ
sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mỳ để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh.
Người ta cũng chứng minh được rằng cả hai nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng
lợi nhờ quan hệ thương mại lẫn nhau.
* Lý thuyết của David Ricardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh
Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của Adam Smith là
không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt
đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý
thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của Adam Smith đó là Lý
thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm “Những
nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo David Ricardo thương mại giữa
hai quốc gia dựa trên lợi thế tương đối, lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so
sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống
nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau.


Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào
sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối hơn và dùng một phần để trao đổi với nước
khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả hai nước sẽ cùng thu được
lợi ích thông qua thương mại.
Ví dụ:
Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mỳ.

Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X và Y là: a
Chi phí sản xuất lúa mỳ của nước X và Y là: b
+ Nếu a< b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và nhậo khẩu hàng dệt
may và ngược lại nước Y chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu lúa mỳ. Sau
quá trình chuyên môn hoá và thương mại, tổng sản phâmr hàng dệt may và lúa mỳ
mà 2 nước sản xuất đều tăng lên về số lượng hàng hoá mà người dân của mỗi nước
có thể tiêu dùng đều được cải thiện.
* Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh
Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế
của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở
lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất.
Haberler đã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ
hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác
phải cắt giảm để nhường lại đủ các ngồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn vị
hàng hoá thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó
so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so
với nước khác.
Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đI 2/3
số đơn vị của vải để sản xuất thêm một đơn vị của thép. Còn ngược lại, chi phí cơ
hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vởy là nước X có lợi thế về sản xuất thép
còn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của lý thuyết
này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh với một một quốc gia khác trong việc
sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất…
1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh


Lợi thế cạnh tranh tồn tại khi có sự phù hợp giữa những khả năng đặc biệt của
một hãng với những nhân tố quyết định thành công trong ngành, điều này cho
phép hãng hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Có 2 cách cơ bản để đạt
được lợi thế cạnh tranh. Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi một hãng

theo đuổi một chiến lược chi phí thấp, điều này cho phép hãng chào bán những sản
phẩm với giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh cũng có thể
đạt được bởi một chiến lược phân biệt sẩn phẩm, do vậy khách hàng nhận thức
được những lợi ích duy nhất nên họ đồng tình với một mức giá chênh lệch so với
đối thủ cạnh tranh. Chú ý rằng cả hai chiến lược này đều có tác động như nhau:
làm tăng giá trị nhận thức của khách hàng.
Chất lượng của một chiến lược của một hãng cuối cùng sẽ được đánh giá bởi
kết quả - doanh số bán hàng, lợi nhuận, hoặc một vài chỉ số đo lường khác. Những
kết quả này lần lượt phụ thuộc vào mức độ giá trị tạo ra cho khách hàng: giá trị mà
khách hàng nhận thức được càng lớn thì chiến lược càng tốt. Tóm lại, lợi thế cạnh
tranh có thể đạt được bằng cách tạo ra giá trị nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh
và giá trị được xác định bởi khách hàng.
Michael Porter đã phát triển một nền móng cho những chiến lược kinh doanh
tổng hợp dựa trên 2 hình thức lợi thế cạnh tranh: chi phí thấp và sự khác biệt. Sự
kết hợp giữa 2 hình thức này với phạm vi của thị trường mục tiêu (phạm vi rộng
hoặc hẹp) hay độ rộng sản phẩm hỗn hợp (hẹp hoặc rộng) sẽ mang lại 3 chiến lược
chung: dẫn đầu chi phí, khác biệt hoá và trọng tâm hoá.
Chiến lược dẫn đầu về chi phí: Mục đích của công ty trong việc theo đuổi sự
dẫn đầu về chi phí hộăc chiến lược chi phí thấp là hoạt động tốt hơn (có lợi thế
hơn) các đối thủ cạnh tranh bằng việc thực hiện các chính sách và biện pháp để có
thể sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ ở chi phí thấp hơn các đối thủ. Trong môi
trường quốc tế, cần đánh giá chiến lược này theo 2 phương diện: phương diện
Marketing và phương diện sản xuất.
Về phương diện Marketing, việc tìm kiếm các thị trường mới cho phép tăng
cầu tiềm năng và đạt được mức sản xuất tối ưu nhất. Để quá trình này tạo ra được
tác động tối ưu, cần phải thiết kế những sản phẩm theo tiêu chuẩn toàn cầu hoặc ít
ra là theo tiêu chuẩn châu lục. Chúng ta cũng biết rằng việc tung sản phẩm ra thị


trường quốc tế sẽ cho phép kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và do đó tạo điều

kiện thuận lợi cho việc thực hiện hiệu ứng kinh nghiệm. Trong trường hợp đòi hỏi
chi phí để thích ứng với điều kiện đặc thù, cần phải tính toán và so sánh giữa chi
phí đầu tư đặc biệt và khả năng sinh lời.
Về phương diện sản xuất, việc dịch chuyển sản xuất để hưởng chi phí nhân
công thấp trong một số khu vực của thế giới đã trở nên khá quen thuộc. Chính vì
vậy, việc tìm kiếm một tổ chức sản xuất hợp lý nhất trở thành phương tiện tạo nên
lợi thế cạnh tranh. Thực vậy, tổ chức quốc tế về sản xuất gắn liền với quy mô tối
ưu tương ứng với khối lượng sản xuất cho phép giảm chi phí trung bình ở mức tối
thiểu. Nếu quy mô tối ưu ngang bằng với khối lượng của từng thị trường thì công
ty có thể xây dựng mỗi nhà máy cho từng thị trường và lựa chọn chiến lược đa
quốc gia. Trong trường hợp quy mô tối ưu cao hơn khối lượng của từng thị trường,
phải xây dựng nhà máy chuyên môn hốa cho nhiều thị trường (nhất là các thị
trường trong khu vực). Nếu quy mô tối ưu nhỏ hơn khối lượng của từng thị trường,
chỉ nên xây dựng một nhà máy duy nhất cung cấp cho thị trường thế giới.
Hợp nhất hay liên kết sản xuất xuyên quốc gia là một vấn đề cơ bản của chiến
lược khối lượng/chi phí. Có 3 giải pháp về tổ chức: thứ nhất, tổ chức sản xuất đa
quốc gia trong đó các đơn vị sản xuất không chuyên môn hoá sẽ sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm cho thị trường nhất định. Thứ hai, toàn cầu hoá bằng hợp nhất theo
chiều ngang xuyên quốc gia, điều này sẽ dẫn đến việc chuyên môn hoá theo sản
phẩm hoặc dòng sản phẩm của mỗi đơn vị sản xuất; mỗi đơn vị đều có nhiệm vụ
thoả mãn nhu cầu của thị trường thế giới hoặc châu lục. Thứ ba, toàn cầu hoá bằng
hoà nhập hay liên kết theo chiều dọc xuyên quốc gia. Thực chất đó là sự phân chia
quá trình sản xuất và bố trí các giai đoạn sản xuất khác nhau trên nhiều thị trường.
Mỗi đơn vị có trách nhiệm thực hiện một giai đoạn sản xuất.
Chiến lược khác biệt hoá: Mục đích của chiến lược khác biệt hoá là để đạt
được lợi thế cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm – hàng hoá hoặc dịch vụ – mà
được người tiêu dùng nhận thức là độc đáo nhất theo nhận xét của họ. Khả năng
của một công ty khác biệt hoá sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng
theo cách mà các đối thủ cạnh tranh không thể có, nghĩa là nó có thể đặt giá cao
hơn – giá cao hơn đáng kể so với mức trung bình của ngành. Khác với chiến lược



nhấn mạnh chi phí (dựa vào ưu thế cạnh tranh bên trong hay khả năng làm chủ chi
phí), chiến lược khác biệt hoá dựa vào ưu thế cạnh tranh bên ngoài, tức là mức độ
hoàn thiện của sản phẩm. Chiến lược khác biệt hoá cũng có thể thựcc hiện thông
qua dịch vụ cung ứng con người và hình ảnh. Nhiều công ty áp dụng chiến lược
khác biệt hoá dựa trên sự thay đổi “chuỗi giá trị”. Căn cứ vào chuỗi giá trị, nếu
công ty có lợi thế trong việc thực hiện các hoạt động cơ bản hỗ trợ cuối nguồn,
chiến lược khác biệt hoá tỏ ra hữu hiệu nhất.
Khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ cho phép doanh nghiệp thoát khỏi áp lực
cạnh tranh. Trên thị trường quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã thành công nhờ khả
năng khác biệt hoá mạnh mẽ so với các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, để chiến
lược khác biệt hoá đem lại kết quả mong muốn, sự khác biệt hoá về sản phẩm hay
nhãn hiệu của công ty phải được nhận thức và bền vững. Để làm được điều này
công ty cần phải thực hiện những cố gắng to lớn về giao tiếp, truyền tin. Nói cách
khác, sự thành công của chiến lược khác biệt hoá phụ thuộc phần lớn vào chất
lượng và hiệu quả. Phương thức này cho phép nâng cao khả năng khác biệt hoá so
với cạnh tranh, đặc biệt đối với lĩnh vực dịch vụ.
Chiến lược trọng tâm hoá: chiến lược trọng tâm hoá dựa trên lợi thế cạnh
tranh là tập trung các nguồn lực cho phép phát huy tối đa năng lực của công ty.
Chiến lược này được thực hiện hoặc thông qua khả năng khác biệt hoá, hoặc chi
phí thấp hoặc cả hai.
Về phương diện Marketing, khi công ty tấn công thị trường thế giới điều
quan trọng trước tiên là phải tiến hành phân đoạn thị trường để thực hiện toàn cầu
hoá. Công ty càng hoạt động trên một đoạn thị trường hẹp bao nhiêu thì càng phải
phát triển mạnh mẽ thị trường về mặt địa lý. Như vậy phân đoạn thúc đẩy quá
trình toàn cầu hoá tình hình này rất điển hình trong một thế giới mà công nghệ mới
xuất hiện thường xuyên. Thực vậy thị trường hẹp và mới phát triển đòi hỏi chi phí
nghiên cứu và phát triển rất lớn nên cần thiết phải thu hồi vốn đầu tư nhanh để
giảm thiểu rủi ro: công ty hoặc là phát triển quốc tế hoặc là bị thất bại. Tuy nhiên,

khi các hoạt động quốc tế phát triển công ty cần thiết phải tăng cường kiểm soát
thị trường, tức là kiểm soát hình ảnh trên tất cả các thị trường. Việc lựa chọn định


hướng chiến lược này thường đòi hỏi ưu tiên các giải pháp thâm nhập thị trường
với mức độ làm chủ hoàn toàn.
Về phương diện sản xuất, chiến lược trọng tâm hoá vẫn theo đuổi lôgic chi
phí tối thiểu. Chính vì vậy việc dịch chuyển các cơ sở sản xuất sang những nước
có các yêu tố đầu vào phong phú và rẻ là một sự lựa chọn thường thấy khi mà khối
lượng và các điều kiện kinh tế cho phép. Ràng buộc quan trọng nhất là phải đảm
bảo giữ vững hình ảnh chuyên môn hoá; hình ảnh nhãn hiệu của công ty cũng cần
xuất hiện và được củng cố tại các địa điểm sản xuất nước ngoài.
1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu
Một hậu quả không thể tránh khỏi trong việc mở rộng hoạt động Marketing
toàn cầu là sự tăng trưởng cạnh tranh trên toàn thế giới. Từ ngành này sang ngành
khác cạnh tranh toàn cầu là một nhân tố quyết định tác động đến thành công, trong
một vài ngành các công ty toàn cầu gần như ngăn cản tất cả các công ty khác tham
gia vào thị trường của họ.
Thí dụ: Công nghiệp chất tẩy tại đó 3 công ty – Colgate, Unilever, và
Procter&Gamble – chiếm số lượng ngày càng tăng trên thị trường chất tẩy. Nhiều
công ty có thể làm ra được một sản phẩm tẩy rửa chất lượng nhưng những kỹ năng
cần phải có trong mẫu bao bì có chất lượng, lại đang tràn ngập trong cạnh tranh
khu vực từ thị trường này sang thị trường khác. Tác động của cạnh tranh toàn cầu
mang lại lợi ích cao cho những người tiêu dùng trên khắp thế giới. Trong ví dụ
trên về công nghiệp chất tẩy tại Trung Mỹ, khách hàng thường có được lợi ích. ở
Trung Mỹ giá chất tẩy đã giảm do kết quả của cạnh tranh toàn cầu. Cạnh tranh
toàn cầu làm mở rộng lĩnh vực sản xuất và tăng cường khả năng theo đó người tiêu
dùng sẽ nhận được những gì họ muốn.
Mặt trái của cạnh tranh toàn cầu là tác động của nó lên các nhà sản xuất hàng
hoá và dịch vụ. Cạnh tranh toàn cầu tạo ra giá trị cho người sử dụng nhưng nó

cũng làm giảm số lượng việc làm. Khi một công ty ở bên kia thế giới đưa lại cho
khác hàng một sản phẩm tốt hơn với giá thấp hơn thì công ty này lại tước đoạt từ
nhà cung ứng nội địa một khách hàng. Trừ phi nhà cung ứng nội địa có thể tạo ra
những giá trị mới và tìm kiếm những khách hàng mới, nếu không công việc và khả
năng của nhân công công ty nội địa sẽ bị đe doạ. Chính sách thương mại của một


quốc gia cuối cùng là nhiệm vụ của chiến lược cạnh tranh. Một quốc gia thành
công trong việc chuyển đổi các nguồn lực bao gồm cả lao động lên những mức sử
dụng cao hơn và tốt hơn thì có thể chấp nhận sự giảm sút số lượng công việc sản
xuất được trả lương tốt.
Chúng ta xem xét 2 trường hợp hoạt động của một hãng hoặc một ngành:
Trường hợp thứ nhất là một hãng và ngành nội địa, không có bất kỳ một hoạt động
mang tính quốc tế nào. Trường hợp thứ hai là những hãng và ngành công nghiệp
toàn cầu. Giữa hai thái cực này có rất nhiều các mức độ đa dạng về những ngành,
những hãng đa quốc gia và mang tính quốc tế. Những hãng này có đặc điểm là tự
lập hoặc hầu hết là tự lập những công ty trực thuộc tại một số nước. Hoạt động của
đơn vị này tại bất kỳ quốc gia nào thường là độc lập với hoạt động của những đơn
vị ở những quốc gia khác. Những công ty trực thuộc ở nước ngoài thuộc bất cứ
một hãng nào nhất thiết phải trở thành những hãng “trong nước” của quốc gia mà
tại đó chúng đang hoạt động. Không có một chiến lược hoà nhập toàn cầu thay vào
đó sẽ có những chiến lược quốc gia độc lập. Các hãng toàn cầu phải hoà nhập
những chiến lược toàn cầu mà những chiến lược này tách bạch những hoạt động
của một đơn vị tại một quốc gia bất kỳ với một số mức độ hoạt động của những
đơn vị ở các quốc gia khác.
Có 4 khía cạnh liên quan đến biểu tượng quốc gia, có tác dụng đóng góp
hoặc làm giảm giá trị việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của những hãng, của những
quốc gia đó. Những biểu tượng này được xem như là “viên kim cương” quốc gia:
Các điều kiện về nhân tố nguồn lực: Dưới hình thức đơn giản nhất các điều
kiện nhân tố ám chỉ đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và cơ sở hạ tầng

của một quốc gia. Những nhân tố này được tạo ra trong một quốc gia bởi tầm quan
trọng đặc biệt của mình, chúng được phân biệt với những thứ khác mà quốc gia đó
thừa kế. Có 5 loại nhân tố: nguồn nhân lực, nguồn vật chất, nguồn tri thức, nguồn
vốn và cơ sở hạ tầng.
Nguồn nhân lực: Số lượng nhân viên làm việc, kỹ năng mà họ có được, mức
lương, và đạo đức làm việc của lực lượng lao động, tất cả tạo thành nguồn nhân
lực của một quốc gia. Một đất nước với lượng cung lớn về nhân công trả lương
thấp có được lợi thế rõ ràng trong việc sản xuất đòi hỏi kỹ năng thấp, sản phẩm


cần nhiều lao động. Mặt khác những quốc gia như vậy thường xuyên gặp phải bất
lợi khi nó tiến hành sản xuất những sản phẩm tinh vi đòi hỏi khả năng kỹ năng
nhân công cao mà không có sự kiểm soát trên phạm vi rộng.
Nguồn lực vật chất: Tính khả dụng, số lượng, chất lượng và trị giá đất đai,
nước, kháng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác xác định nguồn lực vật chất
của một quốc gia. Quy mô và vị trí của một quốc gia cũng được bao gồm trong
phạm trù này bởi vì khoảng cách gần thị trường và nguồn cung cấp cũng như chi
phí vận tải được xem là mối quan tâm chiến lược. Những nhân tố này rõ ràng là
những lợi thế hoặc bất lợi quan trọng đối với những ngành công nghiệp phụ thuộc
vào tài nguyên thiên nhiên.
Nhân tố tri thức: Tính khả dụng về sự hiểu biết của một lượng dân cư đáng kể
liên quan đến thị trường, khoa học, công nghệ của một quốc gia, nghĩa là quốc gia
đó được trời ban cho nguồn tri thức. Những nhân tố này hết sức quan trọng để đạt
được thành công trong sản xuất sản phẩm và dịch vụ tinh vi và để tiến hành kinh
doanh trong thị trường phức tạp.
Nhân tố nguồn vốn: Các quốc gia thường thay đổi khả năng sử dụng, số
lượng , chi phí và các hình thức sử dụng vốn của các ngành công nghiệp. Tỷ lệ tiết
kiệm, lãi suất, luật thuế và thâm hụt ngân sách Chính phủ của một quốc gia, tất cả
đều tác động đến khả năng sử dụng các nhân tố này. Lợi thế, đối với những ngành
chi phí vốn thấp thường tốt hơn những ngành khác ở những quốc gia với chi phí

vốn tương đối cao, đôi khi mang tính quy ết định.
Nguồn lực về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống ngân hàng, hệ
thống chăm sóc sức khoẻ, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống liên lạc và khả
năng sử dụng cũng như chi phí sử dụng những hệ thống này của một quốc gia.
Nhiều ngành công nghiệp tinh vi đã phải phụ thuộc nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng
nâng cao để có được sự thành công. Lợi thế cạnh tranh sẽ được mang lại cho một
ngành công nghiệp quốc gia nếu một loạt các nhân tố hỗn hợp được sử dụng đối
với ngành đó thúc đẩy việc theo đuổi một chiến lược chung: sản xuất với chi phí
thấp hoắc san xuất sản phẩm hay dịch vụ với sự khác biệt. Lợi thế cạnh tranh cũng
có thể được các quốc gia tạo ra nếu những quốc gia này gặp những bất lợi về nhân
tố đã lựa chọn.


Ví dụ: Sự thiếu hụt lực lượng lao động cố thể buộc các hãng phát triển những
hình thức cơ giới hoá, với hình thức này sẽ mang lại lợi thế cho các hãng. Chi phí
vận tải cao có thể thúc đẩy các hãng phát triển những nguyên liệu mới mà chúng
không đắt khi vận chuyển.
Các điều kiện về cầu: bản chất của các điều kiện về cầu nội địa đối với những
sản phẩm hay dịch vụ của một hãng hoặc một ngành là rất quan trọng bởi chúng
xác định nên tỷ lệ và áp lực đối với việc cải tiến và đổi mới do các hãng thực hiện
trong một quốc gia. đây cũng là nhân tố hoặc là giúp “đào tạo” các hãng có sức
cạnh tranh ở tầm cỡ thế giới hoặc là bị thất bại hoàn toàn trong việc chuẩn bị để có
thể tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Một số đặc điểm về cầu nội địa là
đặc biệt quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh, chẳng hạn như: kết cấu cầu nội địa,
quy mô và hình thức tăng trưởng cầu nội địa…
Kết cấu nội địa được xác định bằng cách các hãng nhận thức, nắm rõ và đáp
ứng được những nhu cầu của người mua. Lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi
cầu nội địa mang lại cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh tốt hơn về
những nhu cầu của người mua vào thời gian đầu so với các đối thủ cạnh tranh
nước ngoài. Lợi thế này càng được thúc đẩy khi chính những người mua nội địa

buộc các doanh nghiệp quốc gia họ phải đổi mới nhanh chóng và thường xuyên.
Nền tảng của lợi thế này bắt nguồn từ chỗ, khi các doanh nghiệp trở nên nhạy cảm
hơn và đáp ứng nhanh hơn nhu cầu nội địa và nếu nhu cầu ở thị trường nội địa
phản ánh hoặc mô phỏng trước nhu cầu thế giới thì các doanh nghiệp quốc gia có
thể giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trưòng.
Quy mô và mô hình tăng trưởng cầu nội địa càng trở nên quan trọng khi kết
cấu cầu nội địa là phức tạp và phản ánh trước được nhu cầu bên ngoài. Nừu cầu
nội địa phản ánh một cách đúng đắn hoặc mô phỏng trước được nhu cầu bên ngoài
và nếu các doanh nghiệp không chỉ dừng ở việc phục vụ thị trường nội địa thì sự
tồn tại của các đơn vị sản xuất và các chương trình quy mô lớn sẽ là một lợi thế
cạnh tranh toàn cầu.
Sự tăng trưởng thị trường nội địa một cách nhanh chóng là một điều khuyến
khích khác nữa để đầu tư vào và chấp nhận những công nghệ mới một cách
nhanh hơn và để xây dựng nên các đơn vị sản xuất có hiệu quả và quy mô lớn.


Một cầu nội địa mới, đặc biệt là nếu nó mô phỏng trước được nhu cầu thế giới, sẽ
mang lại cho các doanh nghiệp trong nước lợi thế nhanh hơn so với các đối thủ
cạnh tranh khi tham gia vào nước ngoài. Một điều quan trọng hơn nữa là sự bão
hoà thị trường mong đợi, điều này sẽ đặt áp lực lên một công ty là phải mở rộng
những thị trường quốc tế và tiếp tục đổi mới. Bão hoà thị trường đặc biệt quan
trọng nếu nó xảy ra đồng thời với sự tăng trưởng nhanh chóng của các thị trường
nước ngoài.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có mối tương quan: Việc hiện diện của các
ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế của một quốc gia trên thị trường có mối liên
quan hoặc hỗ trợ trực tiếp cho những ngành khác, có thể đưa lại cho những ngành
này một lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp cung ứng cạnh tranh ở tầm
quốc tế cung cấp những sản phẩm đầu vào cho những ngành sản xuất sản phẩm
cuối cùng đến lượt mình những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ cạnh tranh
ở tầm quốc tế về mặt giá cả và chất lượng. Những ngành sản xuất sản phẩm cuối

cùng sẽ dễ dàng tiếp cận với những sản phẩm đầu vào và với những công nghệ để
sản xuất ra chúng, và với những cơ cấu quản lý và cơ cấu tổ chức nhằm làm cho
những ngành này trở nên cạnh tranh hơn. Những lợi thế tương tự cũng được mang
lại khi có những ngành công nghiệp có mối tương quan quốc tế trong một quốc
gia. Những cơ hội này được sử dụng để phối hợp và chia sẻ những hoạt động của
dây chuyền đơn vị sản xuất.
Cạnh tranh, cơ cấu và chiến lược của hãng: Sự khác nhau giữa loại hình quản
lý, kỹ năng tổ chức và triển vọng chiến lược tạo ra những lợi thế và bất lợi cho các
hãng trong việc cạnh tranh giữa các ngành khác nhau cũng như tạo ra sự khác biệt
trong cường độ cạnh tranh nội địa.
Ví dụ: Tại Đức loại hình quản lý và cơ cấu của công ty có xu hướng sắp xếp
theo trật tự. Giám đốc điều hành thường tiến thủ từ vị trí có kiến thức về công
nghệ và thường hầu hết là thành công khi tham gia vào những ngành đòi hỏi cơ
cấu tuân thủ kỷ luật cao như hoá họcvà công nghệ máy chính xác.
Có lẽ tác động mạnh nhất đến lợi thế cạnh tranh là từ những cuộc cạnh tranh
khốc liệt trong nước. Cạnh tranh trong nước thúc đẩy tính năng động của ngành và
tạo ra áp lực tiếp theo cho việc cải tiến và đổi mới. Cạnh tranh khốc liệt khu vực


buộc các doanh nghiệp phải phát triển các sản phẩm mới, cải tiến các sản phẩm
hiện có, giảm chi phí và giá cả, phát triển công nghệ mới và cải tiến chất lượng và
dịch vụ. Cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp nước ngoài sẽ thiếu hụt
mất sức mạnh này. Cạnh tranh trong nước sẽ phải đấu tranh với nhau không chỉ vì
thị phần mà còn vì tài năng của nhân viên và uy tín trên thị trường nội địa. Cuối
cùng cạnh tranh nội địa mạnh mẽ sẽ đẩy các hãng tới việc tìm kiếm thị trường
quốc tế để hỗ trợ cho việc mở rộng quy mô và đầu tư. Việc thiếu vắng các cuộc
cạnh tranh đáng kể sẽ tạo ra sự tự bằng lòng với bản thân của các doanh nghiệp
nội địa và cuối cùng gây hậu quả làm cho các doanh nghiệp trở nên phi cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
Cơ hội: Cơ hội đóng vai trò trong việc phân loại môi trường cạnh tranh. Cơ hội

thường xuất hiện ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp, các ngành công
nghiệp và chính phủ. Liên quan đến vấn đề này là những mặt như chiến tranh và
thời kỳ hậu chiến, những tiến bộ công nghệ mới quan trọng, những cuộc chuyển
đổi đột ngột nhân tố hay chi phí đầu vào như là khủng hoảng dầu lửa, thay đổi đột
ngột tỷ giá hối đoái…
Cơ hội quan trọng bởi vì chúng tạo ra những sự gián đoạn lớn trong công nghệ
mà điều này cho phép các quốc gia và các doanh nghiệp không có khả năng cạnh
tranh lại có thể vượt qua nhiều đối thủ cạnh tranh lâu đời và trở nên cạnh tranh,
thậm chí là cả những người dẫn đầu ngành, trong lĩnh vực kinh doanh đã thay đổi.
Ví dụ: Việc phát triển công nghệ vi điện tử cho phép nhiều hãng vượt qua các
doanh nghiệp Đức và Mỹ đang chiếm ưu thế về công nghệ cơ học điên tử truyền
thống.
Chính phủ: Rất nhiều người cho rằng chính phủ là yếu tố quyết định chính lợi
thế cạnh tranh của một quốc gia. Trên thực tế chính phủ không phải là yếu tố quyết
định nhưng lại có ảnh hưởng quan trọng tới những yếu tố quyết định. Chính phủ
tác động tới các điều kiện về cầu, vừa gián tiếp thông qua chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ và vừa trực tiếp bởi vai trò vốn có của nó như là người mua các
sản phẩm và dịch vụ. Chính phủ tác động lên các nguồn lực như người ban hành
các chính sách về lao động, giáo dục, phát triển vốn, các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và tiêu chuẩn sản phẩm. Chính phủ tác động tới cạnh tranh và môi trường


cạnh tranh bởi vai trò của nó như là người ban hành các quy định về thương mại
chẳng hạn như chỉ ra cho các ngân hàng và đàm thoại với các công ty về cái gì họ
có thể và không thể làm. Bằng cách tăng cường những yếu tố quyết định trong
những ngành mà tại đó một quóc gia có lợi thế cạnh tranh, chính phủ cải tiến cạnh
tranh của các doanh nghiệp quốc gia. Mặt khác chính phủ có thể cải tiến hoặc làm
yếu đi lợi thế cạnh tranh nhưng chính phủ không thể tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Chính những chiến lược cạnh tranh này sẽ định hướng cho các hoạt động
Marketing quốc tế của công ty. Nói cách khác việc xác lập chiến lược Marketing

quốc tế hỗn hợp trên thị trường quốc tế của một công ty đòi hỏi phải tuân theo và
thể hiện được các chiến lược cạnh tranh đã lựa chọn.
1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam
1.3.1: ấn Độ
Trong vài năm trở lại đây ta có thể thấy ấn Độ đang tự khảng định mình
và đã có những thành công nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó, nó còn tồn tại những
khó khăn mà ấn Độ phải đương đầu. Đầu tiên, ta cần nhìn nhận những con số mà
ấn Độ đã đạt được từ năm 2005 - 2008. Tổng doanh số các sản phẩm phầm mềm (
cả dùng trong nước và xuất khẩu )đạt khoảng 3tỷ USD vào năm 2005. Thị trường
phần mềm toàn cầu vào khoảng 400- 500tỷ USD. như vậy thị phần về phần mềm
chiếm không quá 1%. Số máy tính trên đầu người là 1,5PC/ 1000 dân cũng quá
thấp . Tuy nhiên trong những năm tới thì sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường phần mềm thế giới. Bởi vì hiện nay đang có chiến lược đầu tư khá rầm rộ
cho ngành công nghệ cao này chủ yếu là sản xuất phần mềm dịch vụ để xuất khẩu
chứ không phải ở dạng đóng gói. Vào năm 2008 thì đã chiếm khoảng 40% phần
mềm xuất khẩu nhưng chủ yếu ở dạng sản phẩm dịch vụ , xuất khẩu ở dạng phần
mềm đóng gói, các Công ty có khả năng làm nhưng trở ngại lớn nhất là khi đưa
sản phẩm ra thị trường thế giới rất khó khăn. Các Công ty phần mềm ấn Độ không
gần gũi với thị trường phần mềm đóng gói nước ngoài. Thị trường trong nước là
hướng dẫn tồi cho các nhà phát triển phần mềm do nhiều nhu cầu khác nhau, bên
cạnh đó ưu thế về chi phí gia công thấp đang giảm dần mặc dù sản xuất phần mềm
không tốn nhiều chi phí nhưng tốn không ít để tiếp thị, quảng cáo thu hút sự chú ý
của khách hàng. Tờ Economics ( đưa ra con số của các Công ty phần mềm chi 40-


50% doanh số cho khâu tiếp thị và bán hàng của các Công ty phần mềm lớn như
Microsoft lên tới hàng tỷ USD. Một điểm yếu nữa đó là các Công ty phần mềm
của chưa có uy tín trên thị trường phần mềm đóng gói, chưa có một hãng tên tuổi
nào của ấn Độ làm việc này, thì khó bán được lượng hàng lớn. Hơn nữa việc hỗ
trợ khách hàng, bảo trì, cập nhật sản phẩm trên thị trường nước ngoài cũng tốn

không ít tiền.
Bên cạnh đó kinh nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng dù có thành công đi
nữa thì cũng chỉ đạt từ 1- 5% mà thôi, điều này đòi hỏi đầu tư lớn điều mà
ấn Độ khó có thể làm được. Từ những nguyên nhân nêu trên, nhiều Công ty của ấn
Độ đã bằng lòng gia công cho các Công ty nước ngoài với giá hạ, đồng thời với
việc từng bước tìm ra thị trường phần mềm tạm gọi là đóng gói. Các sản phẩm này
thường là đóng goí một nửa, như các sản phẩm mang tính tiếp thị hoặc làm cơ sở
để phát triển tiếp. Hướng đi cho vấn đề này là liên kết với các Công ty nước ngoài.
Hiện nay thị trường phần mềm xuất khẩu của ấn Độ đã được thực hiện ở trên 40
quốc gia, tuy nhiên thị trường lớn nhất thì chủ yếu tập trung vào Mỹ ( bảng 2). Mỹ
là thị trường xuất khẩu chính của ấn Độ cũng có thể do đây là thị trường phần
mềm lớn nhất thế giới hiện nay, chiếm hơn 50 % tổng phần mềm bán ra trong
năm 2008 .
1.3.2: Mỹ
Hoa Kỳ một cường quốc về kinh tế. Nền kinh tế Hoa Kỳ đã có những
bước nhảy vọt trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Họ lần lượt vượt qua các quốc
gia phát triển khác và vươn lên trở thành quốc gia đứng đầu về kinh tế cũng như
trong khoa học và kỹ thuật trên thế giới. Trong vài chục năm trở lại đây Hoa Kỳ
bắt đầu là nước đi tiên phong trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nước khởi sướng
cho sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ cao, ngành công nghệ phần mềm.
Các Công ty sản xuất phần mềm của Mỹ chiếm vị trí độc quyền trong lĩnh vực này
chi phối hầu như toàn bộ thị trường thế giới. Sự lớn mạnh của Công ty Microsof là
một minh chứng họ còn có thủ phủ Siticol nổi tiếng tập trung những chuyên gia
hàng đầu về lĩnh vực sản xuất phần mềm. Công ty Microsof hầu như năm nào
cũng cho ra đời những phiên bản mới, chiếm vị trí độc quyền trong thời kỳ quá
dài. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp phần mềm đã đem lại cho nền


kinh tế Mỹ sự lớn mạnh , duy trì vị trí về kinh tế trên thế giới đưa lại lợi nhuận
khổng lồ, tạo ra nhiều việc làm và thúc dẩy các ngành khác phát triển. hiện nay ở

Mỹ ngành công nghệ thông tin đã phát triển vượt bậc, xu thé tin học hoá đang diễn
ra, hầu như mọi lĩnh vực đều được trang bị tin học, có khoảng 60% số người đang
làm tin học,phần mềm chiém khoảng 50% trên thị trường thế giới.
Ngành công nghiệp phần mềm của Mỹ có được vị trí như vậy là do Mỹ đã
biết đầu tư vào trí tuệ, vào phát triển ngành công nghệ cao dựa vào tri thức này từ
rất sớm có vốn và khuyến khích được tài năng của con người họ đã lôi cuốn được
khá nhiều chuyên gia có trình độ cao từ các nước có nền kinh tế đang phát triển
sang làm việc. Chính phủ Mỹ cũng có những chính sách nhằm định hướng đúng
đắn cho cácc công ty phần mềm và tạo diều kiện ưu đãi, thuận lợi cho những Công
ty này để có thể phát triển mạnh mẽ. chính vì thế chỉ trong vài chục năm trở lại
đây thì các Công ty phần mềm của Mỹ đã chiếm lĩnh được thị trường thế giới.
1.3.3: Trung Quốc
Trung Quốc cũng được xem là một quốc gia xây dựng khá thành công ngành
công nghiệp này, ngay cả ấn Độ một quốc gia với nền công nghệ thông tin khá
phát triển phải xem Trung Quốc như nơi học tập. Thị trường khổng lồ ở Trung
Quốc với số dân đông nhất thế giới sau khi mở cửa thì đã thu hút đâù tư nước
ngoài lớn nhất trong số các nước đang phát triển. Hiện nay Trung Quốc đã có hơn
3000 công ty phần mềm, đã xuất hiện nhiều liên doanh phần mềm. Ngày
24/4/2000, Oracle Corp đã chính thức công bố việc thành lập liên doanh phát triển
phần mềm của họ ở Trung Quốc đang bước vào giai đoạn cuối. Theo ông
P.W.Pong Giám đốc công ty Oracle Trung Quốc, đầu tiên liên doanh này sẽ có 20
lập trình viên người Trung Quốc (4). Về mặt trình độ các lập trình viên Trung
Quốc chẳng kém gì người ấn Độ. Bên cạnh oracle là IBM, cũng đang phối hợp với
một đối tác trong nước là trường Đại học Qinghua ở Bắc Kinh để phát triển phần
mềm. Theo những nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào những nước đang phát
triển như Trung Quốc có lợi thế lớn về giá cả khi khai thác trình độ lập trình. Sau
khi có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài thì đầu tư vào phần mềm
lỉên tục tăng khaỏng 20% hàng năm từ 1989 và không có dấu hiệu suy giảm với
tiềm năng thị trường với một lực lựơng lớn kỹ sư và chuyên viên tin học chuyên



nghiệp, thêm vào đó là giá công thấp Trung Quốc dường như sẽ trở thành nhà sản
xuất chính các thiết bị cũng như các phần mềm tiếng hoa. Tuy nhiên Trung Quốc
có một nền giáo dục chưa cao so với các nước phát triển, họ cũng không có tỷ lệ
đáng kể các nhà khoa học, các kỹ sư, lập trình viên so với tổng dân số (5). Nhưng
do dân số đông nên số lượng các chuyên viên là rất lớn. Chẳng hạn vào năm 2005
Trung Quốc có 2.172.000 chuyên viên làm phần mềm chỉ sau Mỹ 3.060.000,
nhưng hơn ấn Độ 1.117.000 và Nhật Bản là 1.977.000. Vì thế mà các nhà sản xuất
phần mềm có thể tìm được các chuyên viên làm việc với đồng lương thấp hơn
nhiều so với các nước phát triển. Từ những lợi thế trên mà Trung Quốc đã phát
triển ngành công nghệ thông tin khá mạnh, đã vươn lên trở thành một trong những
nước có nền công nghệ thông tin hàng đầu thế giới, đang trở thành đối thủ cạnh
tranh chính của Mỹ. Tuy nhiên thị trường phần mềm, một ngành công nghệ cao,
quan trọng trong ngành công nghệ thông tin lại chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ khoảng
25% tổng thị trường công nghệ thông tin, tuy nhiên tốc độ tăng vẫn đạt 20%. Thị
trường sản phẩm phần mềm đang có vấn đề nổi cộm nhất hiện nay ở Trung Quốc
đó là vấn đề bản quyền, lại cộng với việc thị trường rộng lớn nhưng không tổ chức
được đã làm hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm gây ra nhiều
thiệt hại cho ngành công nghiệp này. Sự sao chép thảoi mái bản quyền phần mềm
ở Trung Quốc đã gây ra tổn thất nặng nề cho ngành công nghiệp nước này. Người
ta đã ước tính có khoảng 94% phần mềm Trung Quốc là bất hợp pháp gây thiệt hại
khoảng 600.000.000 USD cho công nghiệp phần mềm. Cũng chính vấn đề bản
quyền đã gây ra những bất hoà giữa quan hệ Trung Mỹ ở trong nhiều năm qua.
Nếu như thị trường phần mềm Trung Quốc vẫn diễn ra như vậy thì nó sẽ gây cản
trở lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm ở nước này, sẽ khó có
thể theo kịp được các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên
chính phủ Trung Quốc cũng đã có những luật chống lại việc ăn cắp bản quyền rất
cứng rắn thậm chí trong nhiều trường hợp còn bị tử hình, thế nhưng trong vụ công
ty Micro soft khiếu kiện viện nghiên cứu nhà nước ở Thẩm Quyến đã có 650 nghìn
các Hologran giả giống như các sản phẩm của công ty thì toà án Trung Quốc lại

chỉ xét sử đền bù thiệt hại 5 nghìn USD. Như vậy trong những năm tới Trung
Quốc còn rất nhiều việc phải làm để muốn cho ngành công nghiệp phần mềm theo


kịp và có đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm phần mềm của các quốc gia trên thế
giới.





























Chương 2


Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.1: Tổng quan về các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
2.1.1: Thực trạng trình độ và nguồn lực sản xuất phần mềm
Hiện nay toàn Thành phố Hà Nội có khoảng gần 100 doanh nghiệp lớn và nhỏ
tham gia vào hoạt động sản xuất và xuất khẩu phần mềm. Mặc dù Hà Nội khuyến
khích việc đẩy mạnh sản xuất – xuất khẩu phần mềm với hy vọng đây sẽ là loại
sản phẩm giúp tăng đáng kể nguồn thu ngoại tệ về cho Thành phố. Nhưng trên
thực tế các doanh nghiệp phần mềm mới chỉ dừng lại ở gia công theo đơn đặt hàng
chứ chưa chủ động sản xuất phần mềm. Tuy doanh số hàng năm đều tăng nhưng
hiện nay các doanh nghiệp phần mềm này chỉ gia công theo đơn đặt hàng của các
đối tác chứ chưa chủ động sản xuất phần mềm xuất khẩu (nhận các ý tưởng, giải
pháp từ các đối tác để thực hiện một phần của phần mềm nào đó).
Dù gia công phần mềm xuất khẩu giúp Doanh nghiệp phần mềm vừa có việc
làm, vừa có thêm cơ hội cho cả đội ngũ của mình tự rèn luyện song cứ mãI như thế
thì sẽ khó có những Doanh nghiệp phần mềm đúng nghĩa (đủ khả năng tổ chức,
triển khai một dự án và thiết kế một giải pháp hoàn chỉnh). Cũng vì vậy, Hà Nội
mới chỉ có một số Doanh nghiệp phần mềm thực hiện một số giải pháp ứng dụng
Công nghệ thông tin trong lĩnh vực Ngân hàng chứ chưa có Doanh nghiệp phần
mềm nào đủ sức xây dựng giải pháp trị giá hàng triệu USD cho hệ thống Ngân
hàng trong Thành phố, cuối cùng Ngân hàng phải đi mua phần mềm của nước
ngoài.
Có rất nhiều nguyên nhân như thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm cả trong tổ
chức – quản lý lẫn tiếp thị. Chính vì vậy quy mô của hầu hết Doanh nghiệp phần

mềm Hà Nội đều thuộc loại nhỏ. Việc tổ chức quy trình sản xuất phần mềm (khảo
sát, phân tích, thiết kế, lập trình, kiểm tra, đóng gói, chuyển giao…) theo những
chuẩn mực của sản xuất công nghiệp nói chung và của sản xuất phần mềm nói
riêng còn rất nhiều hạn chế, các khó khăn ấy tạo thành một vòng luẩn quẩn rất khó
tìm được lối ra.
Muốn đặt được chân vào thị trường phần mềm quốc tế ngoài việc phải có sản
phẩm cụ thể, Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội còn phải chứng minh quy trình làm
việc, quy trình kiểm soát chất lượng, hợp chuẩn. Chưa kể phải tổ chức tốt hệ thống

×