TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT
NGHĨA VỤ
Môn: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
GVHD:
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
STT
Họ và tên
MSSV
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 04 năm 2022
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1:
1
THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN
1
1.1. 1
1.2. 2
1.3. 3
1.4. 5
1.5. 6
VẤN ĐỀ 2:
7
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)
7
2.1 7
2.2. 8
2.3. 8
2.4. 9
2.5. 9
VẤN ĐỀ 3:
11
CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
11
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
11
3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
14
3.3. 14
3.4. 15
3.5. 15
3.6. 16
3.7. 16
3.8. 17
3.8.1. Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.
16
3.8.2. Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.
17
3.9. 18
3.10. 19
VẤN ĐỀ 1:
THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN
Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?
1.1.
Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người tự nguyện
thực hiện một công việc của người khác. Thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền chủ yếu là dựa trên tinh thần tương hỗ trong thực tế. Do đó mà lợi ích
được hướng đến là lợi ích của người có cơng việc được thực hiện mà khơng
dựa trên một cơ sở hợp đồng thỏa thuận thực hiện công việc hay pháp luật
quy định phải thực hiện.
Về khái niệm của “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”, BLDS 2015
có quy định cụ thể tại Điều 574: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là
việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện
thực hiện cơng việc đó, vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khi
người này khơng biết hoặc biết mà không phản đối”.
Từ quy định trên của BLDS năm 2015, ta rút ra được ba (03) yếu tố để
xác định việc thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền:
Thứ nhất, việc thực hiện công việc thực tế hồn tồn khơng là nghĩa vụ
của người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền do thỏa thuận của hợp
đồng hay do pháp luật quy định.
Thứ hai, việc thực hiện cơng việc này là nhằm lợi ích cho người có cơng
việc được thực hiện.
Thứ ba, người có cơng việc được thực hiện khơng biết có người khác
thực hiện cơng việc của mình hoặc biết nhưng khơng phản đối việc thực hiện
đó.
Việc thực hiện cơng việc khơng ủy quyền là do người thực hiện thực
hiện với tinh thần tương hỗ, tự nguyện. Song, pháp luật dân sự vẫn có những
quy định nhất định đối với người thực hiện và người có công việc được thực
hiện nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền lợi cho người
thực hiện công việc. Cụ thể là quy định tại Điều 575 và Điều 576 BLDS năm
2015.
Theo đó, người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền phải thực hiện
công việc như là công việc của mình; phù hợp với khả năng, điều kiện của
bản thân; phải thực hiện công việc theo đúng ý của người có cơng việc được
thực hiện nếu biết hoặc đốn được ý; có nghĩa vụ báo về q trình, kết quả,
tiến độ,…cho người có cơng việc được thực hiện nếu người đó u cầu (Điều
575 BLDS năm 2015).
Cịn đối với người có cơng việc được thực hiện cũng phải có nghĩa vụ
tiếp nhận cơng việc, thanh tốn các khoản hợp lý mà người thực hiện khơng
có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện cơng việc đó; phải trả thù lao khi công việc
được thực hiện chu đáo, vẹn lợi cho mình, trường trường hợp người thực
hiện khơng nhận (Điều 576 BLDS năm 2015).
1.2.
Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ?
Theo Đ.275.3 – BLDS năm 2015 quy định về căn cứ làm phát sinh nghĩa
vụ: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”
Điều 574 – BLDS năm 2015 quy định: “Thực hiện công việc khơng có
ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã
tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực
hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”
Điều 274 – BLDS năm 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một
hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao
vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc
khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”
Có thể thấy, bản chất của quá trình thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền cũng là việc một bên tự nguyện thực hiện công việc của người khác,
vì lợi ích của người đó, ý thức rằng nếu khơng có ai thực hiện cơng việc này
thì người có cơng việc bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất định. Mục đích
cuối cùng của hành vi này là nhằm mang lại lợi ích cho người có công việc.
Như vậy, quá trình này đương nhiên là căn cứ để phát sinh nghĩa vụ cho cả
hai bên.
Trong trường hợp này, xuất phát từ yếu tố chủ động và tự nguyện khi
thực hiện công việc, pháp luật không buộc người thực hiện tạo ra lợi ích thực
tế, nhưng buộc người có cơng việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thù lao, thanh
tốn các chi phí hợp lý mà 2 người thực hiện công việc đã bỏ ra, ngay cả khi
kết quả cơng việc được thực hiện đó khơng như ý muốn (theo Điều 576 BLDS
năm 2015).
Bên cạnh đó, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền cịn làm phát sinh
nghĩa vụ thực hiện và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chính người thực
hiện cơng việc. Bằng việc tự ý, tự nguyện thực hiện phần việc của người
khác, người thực hiện cơng việc sẽ có những nghĩa vụ nhất định đối với chính
cơng việc mình thực hiện, cũng như với người có cơng việc được thực hiện
(theo Điều 575, 577 BLDS năm 2015). Bản thân người thực hiện công việc
phải cố gắng thực hiện tốt nhất có thể, cũng như chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khi gây ra những thiệt hại thực tế cho người có cơng việc… để tránh
trường hợp những quy định này bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu cực riêng.
1.3.
Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định
“thực hiện công việc khơng có ủy quyền".
Nhìn chung, chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” ở BLDS
2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS năm 2005) có hai điểm mới nổi
bật như sau:
Về chủ thể:
BLDS 2005 quy định: Chủ thể người có cơng việc được thực hiện chỉ có
cá nhân.(K4 Đ595 BLDS năm 2015)
BLDS 2015 quy định: Chủ thể người có cơng việc được thực hiện bao
gồm cả cá nhân và pháp nhân (mở rộng phạm vi chủ thể).(K4 Đ 575 BLDS
năm 2015)
Về mục đích thực hiện:
Thứ nhất, BLDS năm 2015 đã bỏ đi từ “hoàn tồn” khi quy định về khái
niệm “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”. BLDS năm 2005 u cầu cơng
việc được thực hiện phải “hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được
thực hiện” (Điều 594 BLDS năm 2005). Cách quy định này có thể được hiểu
theo hai nghĩa: “Nghĩa thứ nhất là người thực hiện công việc hồn tồn khơng
có lợi ích trong cơng việc mà họ thực hiện và tất cả phải vì lợi ích của người
có cơng việc được thực hiện.” hoặc “Nghĩa thứ hai là việc thực hiện cơng việc
hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khơng ngoại trừ
khả năng người tiến hành cơng việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện.”
Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều trường hợp người có cơng việc được
thực hiện dựa vào hai chữ “hoàn toàn” này để lý giải theo nghĩa thứ nhất,
đưa ra cơ sở rằng việc thực hiện khơng có ủy quyền đó vẫn có yếu tố vì lợi
ích của người thực hiện cơng việc. Đây là cách giúp người có cơng việc chối
bỏ nghĩa vụ thanh tốn của mình, tạo nên bất cập lẫn thiệt thịi cho người
thực hiện cơng việc trong q trình xét xử.
Chính vì vậy, việc BLDS năm 2015 bỏ đi hai chữ “hoàn toàn” là để củng
cố cho cách hiểu thứ hai, nhằm tăng cường bảo đảm quyền lợi cho người
thực hiện công việc. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án linh hoạt hơn
trong việc xét xử các vụ việc liên quan đến “thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền”, hạn chế tranh cãi, nhập nhằng trong quá trình xét xử.
Thứ hai, BLDS năm 2015 đã phân định rõ đối tượng thực hiện cơng việc
có ủy quyền có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tại khoản 4 Điều 575 quy
định về “nghĩa vụ thực hiện công việc” (Điều 595 BLDS năm 2005) và khoản
4 Điều 578 về “chấm dứt thực hiện nghĩa vụ” (Điều 598 BLDS năm 2005),
với sự xuất hiện của “cá nhân” và “pháp nhân” (làm rõ các đối tượng “người
thực hiện nghĩa vụ”). Việc bổ sung này góp phần tăng thêm tính cụ thể, chi
tiết của Bộ luật Dân sự, giúp cho quá trình xét xử được diễn ra thuận lợi,
chính xác và nhanh chóng hơn.
Như vậy, tuy khơng có nhiều điểm mới so với BLDS năm 2005, BLDS
năm 2015 đã thành công khắc phục điểm hạn chế (lỗ hổng) khi quy định về
chế định “thực hiện nghĩa vụ khơng có ủy quyền”. Từ đó, BLDS năm 2015 đã
củng cố bảo vệ quyền lợi cho người thực hiện cơng việc, giúp Tịa án có cơ
sở giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, đưa pháp luật dân sự Việt Nam
phát triển bắt kịp xu hướng với luật pháp các nước tiến bộ trên thế giới.
1.4.
Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Từ Điều 574 BLDS năm 2015 về thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
thì các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc khơng có ủy quyền
theo BLDS năm 2015” gồm:
Thứ nhất: người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là người hồn
tồn khơng có nghĩa vụ phải thực hiện cơng việc đó nhưng đã thực hiện cơng
việc đó.
Thứ hai: Thực hiện cơng việc này vì lợi của người có cơng việc
Thứ ba: Người có cơng việc được thực hiện khơng biết hoặc biết mà
khơng phản đối việc thực hiện đó.
Phân tích từng điều kiện:
Thứ nhất: Người thực hiện khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó
nhưng đã tự nguyện thực hiện. Điều này đồng nghĩa với việc thực hiện công
việc hồn tồn khơng do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định đối
với người thực hiện công việc (Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý do luật
định hoặc do các bên thỏa thuận)
Thứ hai: Việc thực hiện cơng việc đó phải hồn tồn vì lợi ích của người
có cơng việc, nếu người thực hiện cơng việc vì lợi ích của mình hoặc của
người khác thì khơng áp dụng chế định này.
Thứ ba: Theo điều 574 BLDS năm 2015 về “ thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền” thì một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã
tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực
hiện, vì vậy trong việc này người có cơng việc được thực hiện ln nhận
được lợi ích từ việc người thực hiện công việc đã làm.
1.5.
Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu
C có thể u cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các
quy định của chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” trong
BLDS năm 2015 khơng? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
1.
Căn cứ Điều 574 BLDS năm 2015 về thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền:
“Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có
nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì
lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khi người này không biết hoặc
biết mà không phản đối.”
Trong trường hợp trên , ban quản lý dự án B đã tự ý ký kết hợp đồng
với nhà thầu C mà khơng có sự ủy quyền của chủ đầu tư A và chủ đầu tư A
cũng khơng biết về việc này nên có thể kết luận trong trường hợp trên B đã
thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền và người có cơng việc được thực
hiện là A. Xét hai trường hợp:
Thứ nhất: Khi nhà thầu C chưa hồn thành cơng việc, chủ đầu tư A biết
và phản đối. Trong trường hợp này không thỏa mãn các quy định về thực
hiện công việc khơng có ủy quyền nên C khơng thể u cầu A thực hiện các
nghĩa vụ.
Thứ hai: Khi nhà thầu C đã hồn thành cơng việc mà chủ đầu tư A vẫn
không biết về việc ký kết hợp đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A
thực hiện nghĩa vụ thanh toán dựa trên quy định tại Điều 576 BLDS năm 2015
về nghĩa vụ thanh toán của người có cơng việc được thực hiện . Vậy trường
hợp nhà thầu C đã hồn thành cơng việc thì C có thể yêu cầu chủ đầu tư A
thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền” trong BLDS năm 2015.
VẤN ĐỀ 2:
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)
2.1
Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán
như thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo thơng tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/06/1997 của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng
dẫn về việc xét xử và thi hành án về tài sản cho phép tính lãi giá trị khoản
tiền phải thanh toán như sau:
“Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng,
tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay
khơng có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết
như sau:
+ Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước
ngày 01/07/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh
nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì
Tịa án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa
phương (gọi tắt là “giá gạo”) tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa
vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ
thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo
số tiền đó.
+ Nếu gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 01/07/1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 01/07/1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà
giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20% thì Tịa án chỉ
xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh tốn bằng
tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngồi khoản tiền nói trên
cịn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân
hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét
xử sơ thẩm theo quy định tại Điều 313.2 BLDS, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử, Tịa
án chỉ quyết định mức tiền cụ thể mà khơng áp dụng cách tính đã hướng dẫn
tại Khoản 1 nói trên.
Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị
của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân
hàng Nhà nước quy định, nên khi xét xử, trong mọi trường hợp, Tịa án đều
khơng phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có có
nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản
tiền lãi kể từ ngày giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất
tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.”
Như vậy, qua Thông tư trên, chúng ta thấy rằng tài sản trung gian được
dùng để tính lại giá trị khoản tiền phải thanh tốn.
2.2.
Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà
Cô khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là 5 474 452.555 đồng, theo quy tắc tam suất.
Cơ sở pháp lý: Điểm a Khoản 1 Mục I, Thơng tư 01/TTLT ngày
19/6/1997 của Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.
2.3.
Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh tốn tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT
không? Vì sao?
Thơng tư trên khơng điều chỉnh việc thanh tốn tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Vì thơng tư trên chỉ áp dụng cho các khoản tiền bồi thường, tiền hồn
trả, tiền cơng, tiền lương, tiền chia tài sản.
Vì đối tượng về nghĩa vụ và tài sản như trong quyết định số 15/2018/DSSĐT là đất đai và tài sản phần nổi trên đất việc thanh toán tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản này là được thanh toán tài sản phần nổi
xây dựng (gồm nhà ở 58,25m2, cơng trình phụ ...) và công tôn tạo cho ông
S, bà Th là 93.322.900 đồng.
2.4.
Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá
trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã
làm thì, theo Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường
phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trong bản án, Tịa án nhân dân cấp cao Hà Nội nhận định: “bà Hương
phải thanh toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất
theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm
b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”. Tịa án nói rõ:
“Bà Hương phải thanh tốn cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương ứng với số
tiền 1/5 giá trị căn nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới
đúng”.
Vậy nên giá trị nhà đất được xác định là: 1.679.760.000đ thì bà Hương
phải thanh toán cho cụ Bảng là: 1.679.760.000đ*1/5= 339.552.000đ.
2.5.
Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền
lệ chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Với hướng như trên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ.
Đó là Quyết định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ
án tranh chấp nhà đất và địi nợ”.
Tóm tắt bản án:
Ngun đơn: Bà Phạm Thị Lai.
Bị đơn: Ơng Phạm Thanh Xn.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị Minh.
+ Ơng Hồng Minh Khoa.
Diễn biến vụ việc:
+ Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không
ghi rõ ngày tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là
năm 1994).
+ Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ.
+ Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là
188.600.000đ, đồng thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn
An cho bà Lai với giá 188.600.000đ. Do vợ chồng ơng Xn khơng thanh
tốn nợ và khơng giao nhà mà vẫn quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi
của số tiền 188.600.000đ.
+ Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt
nợ gốc và lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá 250.000.000đ.
+ Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong
thời gian 02 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà
Lai đã cho ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
+ Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua
bán nhà đất.
+ Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm
giấy tờ mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình
pháp luật quy định hay không.
+ Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là
hợp pháp và bên mua chưa trả đủ tiền thanh tốn thì phần cịn thiếu sẽ được
tính thông qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương
tại thời điểm xét xử. Đây chính là nội dung của tiền lệ cho hướng giải quyết
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong Quyết định số 15/2018/DSGĐT.
VẤN ĐỀ 3:
CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
3.1.
Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu
và chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Giống nhau:
+ Có ít nhất ba chủ thể.
+ Đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ
nghĩa vụ, theo đó, chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác
lập tư cách chủ thể cho người nhận chuyển giao.
+ Đều được thể hiện bằng văn bản hoặc lời nói.
+ Khơng được chuyển giao khi quyền yêu cầu/nghĩa vụ gắn liền với nhân
thân của bên chuyển giao.
Khác nhau:
Cơ sở pháp lí
Chuyển giao quyền
Chuyển giao nghĩa
yêu cầu
vụ
Điều 365 – Điều 369 Điều 370, Điều 371
BLDS năm 2015
BLDS năm 2015
Khái niệm
Chuyển
giao
quyền Chuyển giao nghĩa vụ
yêu cầu là sự thỏa dân sự là sự thỏa
thuận giữa người có thuận giữa người có
quyền trong quan hệ nghĩa vụ trong quan hệ
nghĩa vụ dân sự với nghĩa vụ dân sự với
người thứ ba nhằm người thứ ba trên cơ
chuyển giao quyền yêu sở có sự đồng ý của
cầu cho người thứ ba người có quyền nhằm
đó. Người thứ ba đó chuyển nghĩa vụ cho
trong trường hợp này người
thứ
ba
đó.
gọi là người thế quyền, Người thứ ba gọi là
trở thành người có người thế nghĩa vụ trở
quyền,
yêu
được
cầu
quyền thành người có nghĩa
người
có vụ mới phải thực hiện
nghĩa vụ phải thực nghĩa vụ theo yêu cầu
hiện nghĩa vụ theo của người có quyền
phạm vi quyền yêu cầu trong phạm vi nghĩa vụ
được chuyển giao.
đã được xác định.
Đối tượng có quyền Bên có quyền là người Đối với chuyển giao
chuyển giao
có quyền chuyển giao
nghĩa vụ dân sự thì
bên có nghĩa vụ là
người
có
chuyển giao.
quyền
Nguyên tắc chuyển Chuyển
giao
giao
quyền Chuyển giao nghĩa vụ
yêu cầu không cần có buộc phải có sự đồng ý
sự đồng ý của người của bên có quyền. Quy
có nghĩa vụ vì trong định này rất phù hợp vì
mọi trường hợp người trong quan hệ nghĩa
có nghĩa vụ dều phải vụ, quyền của một bên
thực hiện đúng nội có được đảm bảo hay
dung của nghĩa vụ đã khơng hồn tồn phụ
được xác định. Tuy thuộc vào việc thực
nhiên người chuyển hiện nghĩa vụ của bên
quyền phải thông báo kia. Người thực hiện
cho người có nghĩa vụ nghĩa vụ khi chuyển
biết về việc chuyển giao nghĩa vụ phải đảm
giao quyền yêu cầu.
bảo cho người kế thừa
nghĩa vụ đó có khả
năng thực hiện nghĩa
vụ. Khi người có quyền
đồng ý, việc chuyển
giao mới có thể được
thực
hiện.
Người
chuyển giao nghĩa vụ
khơng cần thơng báo
cho người có quyền.
Hiệu lực của biện Nếu
pháp bảo đảm
chuyển
giao Đối với chuyển giao
quyền yêu cầu mà nghĩa vụ theo thỏa
quyền yêu cầu có biện thuận, nếu nghĩa vụ
pháp bảo đảm thực thực hiện có biện pháp
hiện nghĩa vụ kèm theo bảo đảm được chuyển
thì biện pháp bảo đảm giao thì biện pháp bảo
được
chuyển
giao đảm đó đương nhiên
sang người thế quyền. chấm dứt (trừ trường
hợp các bên khơng có
thỏa thuận khác).
3.2.
Thơng tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh
tốn cho bà Tú?
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng
là người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền
555.000.000 đ và theo biên nhận ngày 27/4/2004 thi thể hiện bà Phượng
nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000 đ. Phía bà Phượng khơng cung
cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài
ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, do phía bà
Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay ngân
hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngồi để có tiền trả cho ngân
hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”
3.3.
Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã
được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh:
“Tuy nhiên phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập
hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền là 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà
Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đ vào ngày 12/05/2005. Như vậy
kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan, ơng Thạnh
thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh
nghĩa vụ của bà Ngọc bà Loan, ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay
tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ cho
bà là khơng có căn cứ chấp nhận”.
3.4.
Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Đánh giá trên của Tịa án là hồn tồn hợp lý,. Tòa án xác định nghĩa
vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao cho bà Ngọc, bà Loan, ông
Thạnh là có căn cứ. Xét thấy không có sự thay đổi về quy định chuyển giao
nghĩa vụ trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thì bên có nghĩa vụ có
thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền
đồng ý và người thế nghĩa vụ sẽ trở thành người có nghĩa vụ. Trong trường
hợp này, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho
bà Ngọc vay số tiền là 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh
vay số tiền 150.000.000 đ vào ngày 12/05/2005. Điều đó thể hiện người có
quyền là bà Tú đã đồng ý với việc chuyển giao này. Khi đã chuyển giao nghĩa
vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban đầu là bà Phượng sẽ được giải
phóng hồn tồn, khơng phải chịu trách nhiệm liên đới. Do đó bà Ngọc, bà
Loan ơng Thanh sẽ trở thành người thay thế nghĩa vụ, có trách nhiệm trả số
nợ cịn thiếu cho bà Tú.
3.5.
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách
nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu khơng có trách
nhiệm đối với người có quyền, khi người thay thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao.
Cơ sở pháp lý: Điều 370 BLDS năm 2015.
Theo quy định của BLDS năm 2015, tại Khoản 1 Điều 370, việc chuyển
giao nghĩa vụ chỉ thực sự được thực hiện khi được bên có quyền đồng ý,
ngoại trù có nghĩa vụ về nhân thân hoặc pháp luật quy định khơng chuyển
giao nghĩa vụ. Bên có quyền sẽ xem xét các điều kiện cần thiết để đồng ý
cho bên có nghĩa vụ thực hiện chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ,
để đảm bảo quyền lợi của mình. Do đó mà việc giải phóng hồn tồn cho bên
có nghĩa vụ ban đầu là có căn cứ. Đồng thời, tại Khoản 2 của điều luật này
cũng có quy định rõ: “Khi chuyển gia nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành
bên có nghĩa vụ”; chính vì vậy mà người có nghĩa vụ ban đầu sẽ hồn tồn
chấm dứt nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền khi bên này đồng ý chuyển
giao nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1. Từ đó, kết luận được khi người thay
thế nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ được chuyển giao thì người có
nghĩa vụ quan đầu khơng có trách nhiệm gì với bên người có quyền. Mà câu
chuyện lúc này sẽ là thuộc về nghĩa vụ của người thay thế nghĩa vụ và quyền
của người có quyền.
3.6.
Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu
có cịn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa
vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của
các tác giả mà anh/chị biết.
3.7.
Đoạn nào của bản án cho thấy Tịa án theo hướng người có nghĩa
vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tồ án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm
dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà
Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú u cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận”
“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa
thuận. Phía bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn
trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải quan.”
3.8.
Kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi đối với quan hệ giữa
người có nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
3.8.1. Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.
Sự đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao nghĩa
vụ theo thoả thuận có giá trị pháp lý, cũng như để bảo đảm quyền lợi của bên
có quyền. Khơng chỉ pháp luật nước ta mà pháp luật nước ngoài cũng xây
dựng chế định tương tự để quy định về vấn đề này. Ví dụ:
Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ
theo thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới
phải có sự đồng ý của người có quyền”.Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc
châu Âu về hợp đồng quy định: “với sự đồng ý của người có quyền và người
có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam kết thay thế người có nghĩa vụ”.
3.8.2. Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.
“Thực tế cho thấy, quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau.
Ở châu Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải
phóng hồn tồn nhưng một số nước lại quy định ngược lại theo hướng
người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ sung.
Theo Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 9.2.5): “Người có quyền có thể giải
phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”. Như vậy, người có quyền
có thể giải phóng hồn tồn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. “Người
có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người
có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới khơng thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một
khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người
có quyền bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu.Vẫn theo
Bộ nguyên tắc Unidroit: “Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban
đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu trách nhiệm”. Quy định tại
điều này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được áp dụng
trong trường hợp người có quyền khơng có quyền quyết định nào. Nói cách
khác, nếu người có quyền khơng nêu rõ ý định giải phóng người có nghĩa vụ
ban đầu cũng khơng quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu và người có
nghĩa vụ mới phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì việc chuyển
giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu (Điều 12:10): “người có
nghĩa vụ ban đầu khơng cịn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ”
3.9.
Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tịa án.
Theo tơi, hướng giải quyết trên của Toà án là hợp lý.
Thứ nhất, việc Tồ xác định đã có hành vi pháp lý là chuyển giao nghĩa
vụ theo thoả thuận là có căn cứ. Nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng (bên có
nghĩa vụ) đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên
thế nghĩa vụ) và có sự chấp thuận của bà Tú (bên có quyền). Cụ thể là “Phía
bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho
bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay
số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005”. Như vậy, “khi được chuyển giao
nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”
Thứ hai, Tồ án đã đưa ra “câu trả lời” cho câu hỏi khi có chuyển giao
nghĩa vụ theo thoả thuận, bà Phượng có được giải phóng hay khơng. Tồ án
cho rằng “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc,
và Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú
đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối
với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú u cầu bà Phượng có
trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận” và “Việc
bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía
bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan”. “Câu trả lời” cho thấy bà Phượng khơng
cịn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ đã được chuyển giao, tức, bà Phượng
không phải chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh. Điều này khơng chỉ có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi cho bà
Phượng, mà còn thể hiện cách giải quyết hợp lý của Tòa án khi phân định
“chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa
vụ thơng qua người thứ ba” trong tình thế pháp luật nước nhà chưa quy định
rõ ràng về vấn đề này.
3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện
pháp bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao,
biện pháp bảo lãnh có chấm dứt khơng? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 335, điểm a khoản 1 Điều 343, Điều 371 BLDS năm
2015.
Trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh
sẽ chấm dứt. Bởi lẽ, “bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh)”
. Khi chuyển giao nghĩa vụ, người phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
thay đổi, thì nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh (người có nghĩa vụ ban đầu)
chấm dứt. Bên cạnh đó, xét điểm a khoản 1 Điều 343, bảo lãnh chấm dứt khi
“nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt”, mà bảo lãnh chính là một trong những
biện pháp bảo đảm nên “nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển
giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt” . Tuy nhiên, ngành luật dân sự với
phương pháp điều chỉnh đặc thù là tôn trọng quyền tự định đoạt, tự do ý chí
của các bên chủ thể, nên nếu các bên có thoả thuận khác thì phải thực hiện
theo thoả thuận đó.