Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Chính trị học Chương 4 con người chinh trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.6 KB, 31 trang )

Chương 4
CON NGƯỜI CHÍNH TRỊ

GVCC. TS. Nguyễn Quốc Tuấn

Nếu quyền lực chính trị là trung tâm của mọi hoạt động chính trị thì con
người chính trị là nhân tố trực tiếp quyết định việc tổ chức và thực thi quyền lực
chính trị.
I. KHÁI NIỆM CON NGƯỜI CHÍNH TRỊ
1. Con người chính trị theo dịng lịch sử
Con người đã từng trăn trở với các câu hỏi suốt chiều dài lịch sử triết học:
“Ta là ai? Ta sẽ biết được cái gì? Ta sẽ đi về đâu? Và từ đó, Ta sẽ phải làm gì?”
Mác đã viết: “Bản chất con người khơng phải là cái trừu tượng vốn có của
một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
tất cả các quan hệ xã hội” 1. Trong xã hội có nhà nước, một trong những mối quan
hệ và phương thức tồn tại của con người là quan hệ chính trị và hoạt động chính
trị; người tham gia hoạt động chính trị với tư cách là một chủ thể gọi là con người
chính trị. Quan niệm về con người chính trị hình thành và phát triển trên cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận và ý chí lợi ích của giai cấp trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể.
Thứ nhất, Lãnh tụ - Thủ lĩnh theo quan niệm Phương Tây
Ngay từ thời cổ đại, Socrat và Democrit đã xác định được nền tảng quan
trọng nhất của người lãnh đạo chính trị là “Đạo đức” và “Tài năng”. Socrat (470 1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t. 3, Nxb. CTQG, H., 1995, tr.11.

1


399 TCN) là người đầu tiên bàn về người lãnh đạo chính trị ở cấp độ tư tưởng, ơng
đã u cầu người thủ lĩnh chính trị phải có đạo đức mà đạo đức đó lại là sản phẩm
của trí tuệ. Democrit (460 - 370 TCN) cũng đã cho rằng người điều hành chính trị
phải là nhân vật có tài năng mà tài năng đó cũng chỉ tồn tại và phát triển trên nền


tảng của đạo đức.
Cenophon (427 - 355 TCN) xem người thủ lĩnh chính trị phải có kỹ thuật
giỏi, sức thuyết phục giỏi, biết vì lợi ích chung (chăm sóc người bị trị), biết tập hợp
và nhân lên sức mạnh của nhân dân. Platon (427 - 374 TCN) đòi hỏi người cai
quản thành bang phải thực sự có khoa học chính trị như là tiêu chuẩn của mọi tiêu
chuẩn, có tính khí phù hợp với từng nhiệm vụ đảm đương, không bị ràng buộc bởi
sở hữu về tài sản, không bị quyến rũ bởi phụ nữ, biết hy sinh cá nhân vì những lợi
ích và những giá trị chung. Aristote (384-322 TCN), như một nghệ thuật chính trị,
xem người tốt nhất để quản lý thành bang là người “Sung túc” (người thuộc tầng
lớp trung lưu) sẽ không bị cuốn hút bởi của cải và cũng không bị đè nén lo âu giàu
nghèo. Nhân vật “Trung gian” này dễ “uốn mình” theo những lời khun của các
bên và sẽ ln là “Trung điểm” của tất cả.
Ciceron (106 - 43 TCN) tổng kết những tư tưởng tiến bộ trước đó, xuất phát
từ quan niệm chính trị như một sự bắt nguồn từ nghĩa vụ đạo đức và duy trì đời
sống cộng đồng, đã yêu cầu người điều hành các công việc nhà nước cần phải sáng
suốt, cơng minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lý cơ bản của
pháp luật mà nếu thiếu nó đó thì khơng thể cơng minh được. Đó là con người có sự
thơng thái, có trách nhiệm và có sự cao thượng của phẩm hạnh; phải thống nhất
trong mình giữa tài năng và quyền uy, có “uy thế tinh thần” và có “tâm hồn cao
thượng”; biết hy sinh bản thân vì lợi ích chung, bỏ qua những lợi ích tiền bạc
khơng chính đáng.

2


Ogustanh (357 - 430, nhà Thần học) đã yêu cầu người cầm quyền phải đặt
quyền uy vào phục vụ thần dân; lấy công bằng làm gốc, lấy từ thiện làm ngọn.
Cầm quyền không phải là một danh dự mà là một gánh nặng, địa vị càng cao thì
trách nhiệm càng nặng nề, cũng là lúc dễ gây nguy hiểm nhất cho xã hội. Cho nên,
người cầm quyền phải biết chỉ huy mình trước khi chỉ huy người khác; phải biết tự

điều tiết, tự kiềm chế dục vọng và tránh ngạo mạn; biết phân biệt giữa những lợi
ích thật sự của quốc gia và những địi hỏi có tính lệch lạc của thần dân. Tomat
Đacanh (Thomas Daquin, 1225 - 1274) xem người cầm quyền có đạo đức và trách
nhiệm, biết phấn đấu cho lợi ích chung; con người chính trị là người có quyền lực
nhất định trong hệ thống cai trị của xã hội.
Thời Phục hưng, N. Makiaveli (1469 – 1527) đã có những kiến nghị mới về
con người chính trị. Người cầm quyền phải được nhân dân bầu ra; là có những đức
tính như: tính thực tế, tính tập thể - là con người tập thể; biết rèn luyện bản thân,
biết tinh tốn, có uy lực và được u mến; khéo léo, có tài điêu luyện, nghị lực sắt
đá, khơn khéo và quyết đoán; biết mưu lược, nắm được quy luật vận động của thời
thế; có lịng phản trắc và biết kiềm chế, biết hy sinh và cống hiến cho lợi ích
chung.
Thời cận đại, các nhà tư tưởng Phương Tây như: J.Locke (1632-1704),
Ch.L.S.Montesquieu (1689 - 1755), Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778) đã mở
rộng khái niệm con người chính trị tồn hể nhân dân, là những cơng dân có quyền
quyết định quyền lực nhà nước.
Thứ hai, “Người Hiền” theo quan niệm Trung Quốc
Các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại đã có những luận điểm mang tính kinh
điển về các phẩn chất cơ bản của con người chính trị - “Người cai tri” - bậc đế
vương, quân tử.

3


Lão Tử (580 - 500 TCN) và Trang Tử (396 – 286) đã chủ trương người trị
quốc bằng thực hành “Đạo vô vi”. Trước hết, phải hiểu biết “Đạo người” và “Đạo
trời”. Đạo người gắn với Đạo trời mà Đạo trời diễn ra theo quy luật của tự nhiên
một cách bền bỉ và đều đặn tưởng như “khơng làm gì” mà vẫn có hiệu quả, vì tất
cả đều diễn ra theo quy luật (“Đạo”) của nó. Về mặt lý tưởng, Đạo người cố đạt
tới chỗ “không làm” như Đạo trời, tránh can thiệp thô bạo vào quy luật của tự

nhiên và quy luật của xã hội, vì chúng cũng đang diễn ra một cách tự nhiên như
Đạo trời.
Người cai trị phải biết cai trị bằng “khơng cai trị” thì khơng gì khơng cai trị
và khơng gì khơng do cai trị mà ra. (1) “Không cai trị” tức không can thiệp thô bạo
vào đời sống dân, hạch sách quấy nhiễu dân, khơng xâm lấn thơn tính lẫn nhau thì
đời sống của dân, của xã hội tự thân vận động theo quy luật của mình, mọi thứ đều
được tạo ra. (2) Trị bằng “không trị” (“làm” “bằng” “không làm”) sự cai trị diễn ra
một cách tự nhiên, người bị trị cảm thấy mình khơng bị trị, họ tự giác hành động
theo quy luật tự nhiên của lịch sử và như vậy “không có cái gì mà khơng được tạo
ra” từ sự “cai trị” của “không cai trị”. (3) Đạo trị nước theo “Vơ vi” là phép trị
nước khiến lịng dân khơng dục vọng, no đủ, không tham vọng, không hung hăng
chiến tranh chém giết thì, “khơng làm” ắt “khơng có gì là khơng trị”.
Đề cao nền chính trị “Vương đạo”, Khổng Tử (551 - 479 TCN) và Mạnh
Tử (372 - 289 TCN) chủ trương thuyết “Trọng Hiền” – sử dụng người “Hiền”
(Đức và Tài) vào việc trị quốc. Khổng Tử chủ trương: “Quốc gia dùng người nên
cử người hiền tài, không kể thân hay không thân mà chỉ hỏi hiền hay không
hiền”; thấy người hiền mà khơng chịu nhường vị trí, khơng cất nhắc là ăn cắp địa
vị của họ. Mạnh Tử xem việc trị quốc là một nghề cao quý nhất nên người cai trị
phải được tuyển chọn và đào tạo một cách thật cơng phu, chu đáo. Vì vậy, vua phải
biết sử dụng người hiền để giúp vua giữ đạo, sửa mình nhưng việc lựa chọn người
4


hiền phải thật thận trọng, phải thấy đúng là hiền mới sử dụng; đó là người cố gắng
thực hiện “Nhân”, “Lễ”, “Nghĩa”, “Trí”, “Tín” và phải được nhân dân thừa nhận,
tiến cử ra trị nước.
Khổng Tử yêu cầu người trị quốc phải “Chính danh” - ai ở địa vị nào phải
làm tròn trách nhiệm của địa vị ấy và ai phải giữ phận nấy, không được “Việt vị”,
không được hưởng quyền lợi cao hơn địa vị của mình, khơng ở chức vụ nào thì
đừng mưu tính việc của chức vụ ấy. Khổng Tử nói: “Đối với người cai trị, thân

mình mà chính được thì khơng phải ra lệnh mọi việc vẫn được tiến hành, thân mình
mà khơng chính được thì dù có ra lệnh cũng chẳng ai theo. Nếu thân mình mà
chính được rồi thì đối với mọi việc chính trị cịn gì khó, khơng thể chính được thân
mình thì chính người khác thế nào!”. Người qn tử chưa có danh thì đừng nói
nhưng, khi có danh rồi thì phải nói, nói rồi thì phải làm nên người qn tử phải
thận trọng với lời nói của mình”; đối với những điều mình khơng biết, “Người
qn tử hãy để khuyết, đừng nói” - biết cái mình khơng biết mới là biết, cịn khơng
biết cái mình khơng biết là khơng biết gì cả; thấy cái mà khơng ai thấy mới là thấy,
cịn thấy cái mà mọi người đã thấy là không thấy gì cả.
Người qn tử phải “Trung”, “Hiếu”, “Dũng”, “Liêm”; “Chính công vô tư”
nên phải “Tu thân” và “Tề gia” rồi mới trị quốc cho thiên hạ thái bình, cho cuộc
sống xã hội thịnh vượng. “Tu thân” để bồi dưỡng “Đạo Nhân”; mà “Tu thân” thì
phải “Chính tâm”, “Thành ý”, “Trí tri” và “Cách vật”; trong đó, “Tu thân” là gốc
của tất cả.
Mặc Tử (478TCN - 392 TCN) yêu cầu người cai trị phải biết làm cho mọi
người cùng có lợi nên thực hành “Kiêm tương ái” và “Giao tương lợi” là hai mặt
không tách rời nhau, là đức căn bản để trị nước. Qn tử khơng gì bằng xét kỹ trước
“Đức kiêm” mà chăm chú thi hành. Cho nên, phải “Thượng hiền” - cử người tài

5


giỏi ra trị quốc mà không phân biệt nguồn gốc xã hội của người đó như thế nào
miễn là anh ta có ích cho cơng việc chung.
Người làm chính trị phải biết khai thác triệt để “Cái dụng của chính trị” đem
đến cho người ta những cái lợi thiết thực trong đời sống hằng ngày. Phải làm cho
dân được sống trong hịa bình và an ninh, đói có ăn, lạnh có mặc, mệt được nghỉ,
được xét xử cơng bằng. Vì vậy, phải thực hành “Chủ nghĩa công lợi” làm cho mọi
người bình đẳng về lao động và hưởng thụ bằng tổ chức tốt lao động tập thể. Bởi
vậy, cùng với việc đẩy mạnh lao động sản xuất, phải thực hành tiết kiệm, tránh xa

hoa phung phí ở cung đình cùng những lễ nghi rườm rà gây tốn kém làm kiệt quệ
sức dân, chống chiến tranh cướp bóc, chiến tranh thơn tính lẫn nhau.
Hàn Phi Tử (280 TCN - 233 TCN) yêu cầu vua phải biết cai trị dân bằng
pháp luật theo thời thế, biết sử dụng chỉnh thể “Pháp”, “Thuật” và “Thế” mà
“Pháp” là trung tâm. Hơn nữa, người trị nước mà mê tín quỷ thần thì đất nước cũng
khơng cịn, vì tơn “Thần quyền” và thi hành pháp chế là hai việc chống đối nhau.
Thời cận đại, các nhà tư tưởng như: Khang Hữu Vi (1858 - 1927), Lương
Khải Siêu (1873 - 1929), Đàm Tự Đồng (1865 - 1898), Nghiêm Phục (1853 1921), Tôn Trung Sơn (1866 - 1925) đã có những kiến giả mới về con người chính
trị là hướng đến nguồn lực chính trị từ nhân dân.
Thứ ba, Người lãnh đạo cộng đồng Việt Nam truyền thống
Người lãnh đạo chính trị phải là người yêu dân, bảo vệ dân, chăm lo cuộc
sống cho dân từ vật chất đến tinh thần; biết “khoan thư sức dân”, khoan dung và
độ lượng; không chỉ biết chăm lo cho những thế hệ hơm nay mà cịn phải biết
“tính kế ngàn đời cho con cháu về sau”; biết đối nhân xử thế, nho nhã và lịch
lãm, thấu lý mà đạt tình, phải trái phân minh, nghĩa tình trước sau trọn vẹn; gần
gũi với mọi người, gắn bó và tận tụy với việc nước. Dũng cảm và kiên cường,
6


mưu trí và linh hoạt, thơng minh và sáng tạo; có bản lĩnh trước kẻ thù, biết tiến
lùi đúng lúc đúng chỗ, biết địch biết ta, biết thời biết thế; “biết tĩnh như núi”
đồng thời “biết động như biển”, “thắng không kiêu, bại không nản”; biết nhân
nhượng, thỏa hiệp khi cần nhưng mục tiêu chiến lược là vì lợi ích quốc gia dân
tộc thì khơng bao giờ thay đổi - “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; dám hiến dâng cuộc
đời vì quốc gia dân tộc, vì cuộc sống của con người.
Thứ tư, Con người chính trị theo quan niệm macxit
C.Mác và Ph.Ănghen đã xem trong xã hội có các quan hệ giai cấp thì các
quan hệ xã hội của con người sẽ bị chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp bởi chính trị.
Xuất phát từ quan niệm con người là chủ thể của xã hội, xác định quần chúng
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Vai trò lực lượng quyết định của quần chúng

nhân dân đối với sự phát triển xã hội thể hiện rõ nhất không chỉ trong nền sản xuất
xã hội mà còn ở những phong trào chính trị, các cuộc cách mạng xã hội.
Sau và theo C.Mác và Ph.Ănghen, V.I.Lênin cũng đã chỉ ra sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, sự tham gia của đông đảo nhân dân vào sự nghiệp đấu
tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản trong cách mạng giành chính quyền cũng
như trong cơng cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và vai trò của lãnh tụ giai cấp cơng
nhân trong sứ mệnh đó.
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các lực lượng xã hội
trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước với mục đích làm cho đời
sống con người, cộng đồng người tốt hơn. Cho nên, con người chính trị là tất cả
những con người thúc đẩy nền chính trị xã hội phát triển theo hướng tiến bộ mà
con người chính trị chân chính và đơng đảo nhất - quyết định mọi cuộc vận động
chính trị cịn là quần chúng nhân dân.

7


Lênin đã khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tố chức và lãnh
đạo phong trào” 2. Lãnh tụ chính trị phải có đạo đức mà “Đạo đức, đó là những gì
góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản sáng tạo ra xã hội của những người
cộng sản”3.
Nhân tố trực tiếp quyết định hiệu quả hoạt động của người lãnh đạo lại là
nghệ thuật chính trị. Đó là “nghệ thuật của những bước đi” lắt léo và vòng vèo,
ngoắt ngoéo với những bước tiến, bước lùi, bước vòng; của sự thỏa hiệp, điều hòa;
của những sức ép, những mưu mẹo…; đặc biệt là nghệ thuật tính tốn chính trị
thiệt hơn một cách chu đáo của những nhà lãnh đạo có trí tuệ ở tầm cao4.
Hồ Chí Minh lực lương cách mạng là toàn thể nhân dân mà quan trọng nhất

là nhân dân lao động; động lực cách mạng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức; lực lượng lãnh đạo cách mạng là đội tiền phong của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh xem người cán bộ phải yêu nước thương dân, phải cho lo cho
số đông trong dân được tự do, ấm no và hạnh phúc. Người cán bộ phải “vừa hồng
vừa chuyên”, vừa có đức vừa có tài mà đức là gốc. “Đạo đức cách mạng là: Quyết
tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”5. “Đạo đức cách mạng là bất kỳ
ở cương vị nào, bất kỳ làm cơng việc gì, đều khơng sợ khó, khơng sợ khổ, đều một
lịng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1978, T4, Tr. 273

3. Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1974. Tập 4, trang 473.
4. Xem: Lênin: Toàn tập.Nxb. Tiến Bộ. Matxcơva, 1978. Tập 41 tr. 19.
5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.19 96, tr 285.

8


xây dựng chủ nghĩa xã hội”6. Người cán bộ phải có được phương cách “đem
đường lối, chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng rõ để
thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ để đặt chính sách cho đúng” 7. “Công việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém”, “cán bộ là gốc của mọi việc”. “Vì vậy, vấn đề cán bộ là vấn đề rất
trọng yếu, rất cần kíp”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” 8.
2. Các dấu hiệu đặc trưng của con người chính trị
Từ những giá trị về con người chính trị trong lịch sử và của thời đại, có thể
rút ra các dấu hiệu đặc trưng của con người chính trị như sau:
- Con người chính trị là sản phẩm của những xã hội cụ thể. Trong từng giai
đoạn phát triển của lịch sử, mỗi giai tầng có địa vị kinh tế, xã hội xác định. Mỗi hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị xác định, mỗi lực lượng chính trị có vị trí và vai

trị nhất định trong đời sống chính trị. Trong chế độ xã hội và hệ thống chính trị
xác định đó, mỗi người có những phẩm chất nhất định có thể đảm nhận những
nhiệm vụ xác định tương ứng với yêu cầu của giai cấp và khả năng của chủ thể.
- Con người chính trị là con người có năng lực của một chủ thể chính trị.
Con người chính trị là con người tự ý thức được nhu cầu và phương thức hiện thực
hóa lợi ích giai cấp, của dân tộc và của con người; nhận thức được nhu cầu lợi ích
của mình, nhu cầu lợi ích của người khác và khả năng hiện thực hóa nhu cầu đó;
tham gia vào đời sống chính trị xã hội trong sự phân cơng và hợp tác với tư cách là
thành tố của một chỉnh thể tổ chức cuộc vận động chính trị; đồng thời, biết chịu
hồn tồn trách nhiệm về mọi hoạt động chính trị của mình trước cộng đồng, trước
giai cấp, trước quốc gia dân tộc và với chính bản thân mình.
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, tr 306.

7. Xem: Hồ Chí Minh Tồn tập. Nxb. Chính trị quốc gia. HN. 1975. Tập 5, trang 296.
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.269.

9


- Thực chất của con người chính trị. Con người chính trị chân chính ln là
một chỉnh thể sự phát triển bản chất giai cấp, bản sắc dân dân tộc và tính nhân loại.
Trong xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, mỗi người thuộc
một giai tầng nhất định, lợi ích của họ gắn bó với giai tầng và cuộc đấu tranh của
giai cấp đó. Chính trị và cách mạng xã hội là phong trào giai cấp, một nhà chính trị
nào cũng đều là đại biểu của một giai cấp, một lực lượng xã hội, một dân tộc nhất
định; con người chính trị trước hết là con người giai cấp.
Giai cấp tồn tại trong dân tộc và cuộc đấu tranh giai cấp trước hết diễn ra
trong quốc gia, chính trị cũng khơng chỉ giải quyết vấn đề của giai cấp mà còn giải
quyết vấn đề của dân tộc. Con người chính trị khơng chỉ là thành viên của giai cấp,
của dân tộc mà lợi ích và động lực của họ còn từ dân tộc; trên lập trường của giai

cấp, con người chính trị mang đậm dấu ấn tâm lý và nét đặc sắc của dân tộc trong
thừa hành nhiệm vụ.
Giai cấp và dân tộc là một bộ phận hợp thành nhân loại và thời đại. Hơn
nữa, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến cũng là giai cấp đại biểu
cho và động lực thúc đẩy sự phát triển lịch sử chung loài, lợi ích và cuộc đấu tranh
của họ khơng chỉ vì giai cấp và dân tộc mà cịn từ và vì lợi ích, vì sự phát triển của
nhân loại.
Vậy, Con người chính trị mang bản chất giai cấp với tính chỉnh thể con
người, có đạo đức và năng lực của một chủ thể tương ứng với vị thế trong hệ thống
quyền lực chính trị xác định.
II. PHÂN LOẠI CON NGƯỜI CHÍNH TRỊ THEO CẤP ĐỘ TRONG
HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1. Lãnh tụ, thủ lĩnh chính trị
Thứ nhất, Vị trí - vai trị lãnh tụ, thủ lĩnh chính trị
10


Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, mỗi cộng đồng (một giai cấp,
một dân tộc) bao giờ cũng đào luyện, lựa chọn người tiêu biểu kết tinh ý chí,
nguyện vọng và lợi ích cho mình làm người đứng đầu: lãnh tụ, thủ kĩnh chính trị
(gọi chung là thủ lĩnh chính trị). Đó là người tiêu biểu cho sự phát triển chính trị và
là trung tâm các mối quan hệ chính trị của tổ chức với xã hội.
Đặc quyền tối cao của người thủ lĩnh chính trị là tổ chức, quản lý, điều hành
và chỉ huy toàn bộ hoạt động của tổ chức, cũng là người chịu trách nhiệm cá nhân
cao nhất đối với mọi vấn đề của tổ chức và các phong trào chính trị do tổ chức
mình lãnh đạo.
Hoạt động định hướng của thủ lĩnh chính trị có ý nghĩa quyết định đến sự
thành bại của tổ chức. Đó là việc hình thành quan điểm, xác định mục tiêu, vạch
đường lối, định ra chiến lược và sách lược, chủ trương, biện pháp, chính sách lâu
dài hay mỗi chặng đường cho việc hiện thực hóa quyền lực và lợi ích của lực lượng

xã hội mà mình đại diện.
Thứ hai, Phẩm chất của lãnh tụ, thủ lĩnh chính trị
Người thủ lĩnh chính trị có phơng văn hóa rộng, có tri thức phong phú, trình
độ trí tuệ cao, hiểu biết sâu; nắm bắt được quy luật phát triển của lịch sử mà nhất là
quy luật hiện thực hóa quyền lực và lợi ích của giai cấp, của dân tộc và của con
người; hiểu biết sâu sắc những vấn đề chính trị - xã hội đương thời; nắm bắt kịp
thời những vấn đề đặt ra trước giai cấp, dân tộc và con người; am hiểu tường tận
các phong trào chính trị của quần chúng.
Người thủ lĩnh chính trị có lý tưởng chính trị xã hội cao đẹp, lập trường
chính trị vững vàng, có niềm tin vững chắc sự nghiệp của giai cấp, kiên định con
đường đấu tranh và kiên định đường lối, chính sách, chuẩn tắc của tổ chức, đấu

11


tranh khơng khoan nhượng với tất cả những gì gây phương hại cho tổ chức, cho
quốc gia dân tộc và cho con người.
Người thủ lĩnh chính trị có đạo đức tốt, xác lập được một cách vững chắc hệ
chân giá trị nhân văn cho bản thân và gia đình với phong cách làm việc phù hợp
với nhiệm vụ đảm đương và lối sống trong sạch, đúng mực, gần gũi với mọi người,
tin yêu và quý trọng con người; hết lòng hết sức phục vụ cho dân, không ngừng
phấn đấu cho những giá trị chung, cho sự tiến bộ của xã hội; đặc biệt, phải được
quần chúng nhân dân tín nhiệm và tiến cử.
Người thủ lĩnh chính trị có năng lực thực tiễn, có khả năng định hướng chính
trị với năng lực tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động chuyên môn của những cá
nhân, các tập thể người rộng lớn; có năng lực quyết đốn với những quyết định
lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và đúng đắn trong những điều kiện khác nhau mà biểu
hiện tập trung là sử dụng được nhiều phương thức chính trị mang tính nghệ thuật
cao trong xử lý tình huống phức tạp và gây cấn; biết vận dụng sáng tạo những lý
thuyết chính trị vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn đang đặt ra với hiệu quả cao và

biết tổng kết sâu sắc kinh nghiệm thực tế cho việc đúc kết hoàn thiện hệ tư tưởng
chính trị mà mình đang theo đuổi.
Như vậy, Lãnh tụ - thủ lĩnh chính trị được đặc trưng bởi tri thức, xu hướng,
đạo đức và năng lực lãnh đạo việc thực hiện quyền lực chính trị vì lợi ích của giai
cấp, dân tộc và con người trong điều kiện lịch sử xác định.
2. Giới chính trị chun nghiệp, cơng chức
Thứ nhất, Nhân diện giới chính trị chun nghiệp, cơng chức
Giới chính trị chun nghiệp, cơng chức là những người được bầu, đề bạt
hay bổ nhiệm nắm giữ vai trò điều khiển, chỉ huy, lãnh đạo một tổ chức hay một
cơ quan quyền lực hoặc thực thi những nhiệm vụ được giao phó hay do luật định.
12


Giới chính trị chun nghiệp, cơng chức là “khâu trung gian”, là “cầu nối”
giữa lãnh tụ - thủ lĩnh chính trị và người dân; người trực tiếp thực hiện ý tưởng,
mệnh lệnh của lãnh tụ - thủ lĩnh hay thực thi cơng vụ; quyền và lợi ích gắn với hệ
thống quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.
Thứ hai, Phẩm chất của giới chính trị chun nghiệp, cơng chức
Giới chính trị chun nghiệp, cơng chức có những phẩm chất cơ bản:
(1) Trung thành với lợi ích của giai cấp, dân tộc; có bổn phận phục vụ xã
hội, phục vụ dân với sự tuân thủ pháp luật một cách công khai, minh bạch, công
bằng và vô tư trong hoạt dộng công vụ; mẫn cảm, tận tụy và có trách nhiệm trong
cơng việc; có văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, ứng xử và giao tiếp.
(2) Được đào tạo và bồi dưỡng kỹ càng, có năng lực và trình độ chun
mơn, có kinh nghiệm tương ứng với vị trí và nhiệm vụ đảm trách; có năng lực hiện
thực hóa ý tưởng - mênh lệnh của lãnh tụ - thủ lĩnh; có khả năng tổng kết thực tiễn,
khái quát lý luận và có khả năng thể chế hóa quan điểm, đường lối của đảng cầm
quyền thành pháp luật chính sách của nhà nước.
(3) Có phong cách làm việc phù hợp với từng nhiệm vụ đảm đương và từng
đối tượng trong những môi trường cụ thể; phù hợp với tư cách là người đại diện

cho nhà nước, bộ mặt của chế độ chính trị. Phong cách phản ánh trình độ phát triển
văn hóa chính trị và kinh nghiệm mà cá nhân đã tích lũy.
3. Nhân dân với tư cách con người chinh trị
Nhân dân với tư cách con người chinh trị là người có đủ điều kiện và tư cách
công dân là chủ thể và cũng là khách thể của quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nước. Con người chinh trị nhân dân có những phẩm chất cơ bản sau:
- Ý thức chính trị rõ ràng. Nhận thức được lợi ích và con đường hiện thực
hóa lợi ích của cộng đồng, của giai cấp và quốc gia dân tộc; ý thức được lợi ích và
13


khả năng chính trị của mình trong cuộc vận động chính trị của xã hội. Nhận thức
được các vấn đề chính trị của giai cấp, của đất nước và kể cả những vấn đề chinh
trị quốc tế.
- Khả năng chính trị nhất định. Có khả năng góp phần tích cực vào việc hình
thành các thể chế chính trị cộng đồng; đóng góp vào q trình xây dựng chế độ
chính trị và chế độ nhà nước; có khả năng thực hiện sự phản biện và giám sát xã
hội đối với việc hình thành và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của giai cấp
và pháp luật, chính sách của nhà nước; có khả năng thực thi một cơng việc chính trị
nào đó trong tồn bộ q trình chính trị của giai cấp.
- Đạo đức chính trị tốt. Có tinh thần yêu nước và thương dân, gắn bó và có
trách nhiệm với quốc gia dân tộc. Tự giác tuân thủ và chủ động thực hiện đường
lối, chủ trương của giai cấp và của cuộc vận động chính trị cùng chuẩn mực của
cộng đồng. Trong điều kiện làm chủ đất nước, con người chính trị nhân dân cịn
phải đề cao và tích cực thực thi pháp luật, chính sách của nhà nước; ln làm trịn
nghĩa vụ của một cơng dân, trách nhiệm của người dân đối với đất nước.
III. CON NGƯỜI CHINH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Đặc điễm con người chính trị Việt Nam hiện nay
a. Thực chất con người chính trị Việt Nam hiện nay
- Con người chính trị của giai cấp cơng nhân

- Con người chính trị của nhân dân lao động
- Con người chính trị của dân tộc Việt Nam
- Con người của chủng loài, của thời đại
b. Phẩm hạnh của con người chính trị Việt Nam hiện nay
- Yêu nước, thương dân, yêu thương con người
14


- Trung thành với chế độ với quốc gia dân tộc
- Công tư phân minh, cuộc sống cá nhân và gia đình trong sạch
- Mềm dẻo, sắt son, hy sinh, nghĩa tình, đơn hậu, ung dung
c. Năng lực thực tiễn của con người chính trị Việt Nam hiện nay
- Khả năng nhận thức đúng các vấn đề chính trị cần thiết
- Khả năng tham gia xây dụng thể chế chính trị
- Khả năng hành động chính trị thực tiễn tương ứng với vị thế
- Khả năng thực hiện nghĩa vụ chính trị quốc tế
2. Người cán bộ lãnh đạo Việt Nam hiện nay
a. Yêu cầu đối với người cán bộ lãnh đạo Việt Nam hiện đại
Người lãnh đạo Việt Nam hiện nay phải có những phẩm chất đặc thù theo
yêu cầu của nhiệm vụ với một chỉnh thể Đức – Tài mà Đức là gốc, Tài là nền và
Nghệ thuật chính trị (sản phẩm của đức và tài) là đỉnh cao.
Thứ nhất, Có đạo đức cách mạng. Hồ Chủ tịch dạy: “Có đạo đức cách mạng
thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Có đạo
đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”9.
- Có lịng trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Người lãnh đạo có
ý thức đầy đủ, sâu sắc về con đường và phương thức thực hiện quyền lực và lợi
ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc và con người. Thể hiện được lòng
trung thành với lý tưởng, với mục tiêu cách mạng; một sự vững vàng về chính trị,
sự kiên định trước mọi thử thách. Luôn xem việc đấu tranh thúc đẩy xã hội lồi

9

Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb. Chính trị quốc gia. HN. 1996. Tập 9, trang 284.

15


người tiến lên thốt khỏi áp bức, bóc lột là mục đích, là lẽ sống cao nhất của đời
mình; đặt lợi ích chung lên trên hết, một lịng vì nước, vì dân. Ln xem việc làm
lãnh đạo là một phương thức để hiện thực hóa lý tưởng cao đẹp của mình đối với
xã hội nên phải đem hết những gì mình có để cống hiến cho sự nghiệp chung.
- Có sự thống nhất giữa chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc chính trị. Người
lãnh đạo có được hành động thật sự tỏ rõ là người lãnh đạo, người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Xác lập được kỷ cương, nền nếp sống và làm việc trong sạch
của bản thân và gia đình; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Ln thể
hiện ý chí kiên trì tu dưỡng mình về mọi mặt đáp ứng yêu cầu cao của sự phát triển
đất nước. Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải ở trên trời rơi
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”10.
- Có khả năng giữ gìn hệ thống giá trị nhân văn. Người lãnh đạo yêu thương
sâu sắc với con người, nhất là người nghèo khổ, bất hạnh và dù hoàn cảnh nào
cũng giữ được tình cảm trong sáng, nồng thắm, son sắt, gắn bó thiết tha với gia
đình, với người thân, với bạn bè, với đồng chí, đồng đội, với quê hương, đất nước
và đồng bào. Khi thừa hành công vụ, luôn thấu lý đạt tình, phải trái phân minh,
nghĩa tình trước sau trọn vẹn với tấm lòng chân thật, đúng mực, thẳng thắn và có
thủy có chung, có tình có nghĩa. Hồ Chủ tịch đã dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng
có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” 11. Trong quan hệ
xã hội, cỡi mở thân thiện và chân thành với mỗi người; trong giáo dục và đào tạo


10 Hồ Chí Minh. Tồn tập. Nxb. Chính trị quốc gia. HN,1996. Tập 9, trang 293.
11 Hồ Chí Minh. Văn nghệ cũng là mặt trận. Nxb. Văn hóa. HN, 1981, trang 62.

16


con người, có lịng khoan dung, độ lượng, vị tha với người lầm lỗi và hướng mọi
người đến với cái hay, cái đẹp mà bản thân mình ln là người đi đầu dẫn lối.
- Có lịng dũng cảm và ý chí kiên cường. Người lãnh đạo đủ dũng khí đương
đầu trước mọi thách thức với bản thân, với tổ chức và với sự nghiệp cách mạng mà
“uy vũ bất năng khuất, bần tiện bất năng dâm, phú quý bất năng di”. “Dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm”; ra những quyết định táo bạo để đột phá vượt qua
cam go và bế tắc, tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển; không chỉ đủ sức vượt qua
nguy cơ và thách thức mà còn biết tạo ra thời cơ và lợi thế so sánh ngay trong nguy
cơ và thách thức đó. Quyết tâm thực hiện cho bằng được mục tiêu cách mạng dù khó
khăn đến mấy, “thắng khơng kiêu, bại khơng nản”, dẫu có phải làm đi làm lại nhiều
lần cũng khơng chùn chí mà vẫn ung dung thư thái và kiên nhẫn tìm cho được
phương cách khả thi.
Thứ hai, Có khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Sinh thời, Lênin đã rất chú ý
tìm ra và thử thách hết sức nhẫn nại, hết sức cẩn trọng những người có bộ óc sáng
suốt và có bản lĩnh trong thực tiễn, được thử thách qua công tác tổ chức các phong
trào quần chúng từ thấp tới cao để đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo các Xơ
Viết12.
- Có khả năng nắm bắt được lý luận và thực tiễn. Người lãnh đạo nắm bắt
được thực chất của lý luận một cách có hệ thống, tổng kết sâu sắc thực tiễn, biết
“làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân
loại đã tạo ra”13. Có thể xác lập, phân định hay liên kết các vấn đề lý luận và thực
tiễn khác nhau để khai thác sâu, nhận thức tổng quát mà có cách giải quyết riêng
từng vấn đề hay đồng thời tất cả chúng. Huy động được những tri thức và kinh
nghiệm đã tích lũy để phân tích, đánh giá những vấn đề thực tiễn nóng bỏng cịn

12 Xem: Lênin tồn tập. Nxb, Máxtcơva. 1974. Tập 6, trang 237.
13

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Matxcơva, 1977, T. 41, tr. 362.

17


nhiều ý kiến chưa tương đồng, hình thành được một cách nhanh chóng quan điểm
độc lập và thẩm thấu vào nội dung các chương trình, kế hoạch làm cho hoạt động
lãnh đạo ngày càng vươn lên tầm cao và đi vào chiều sâu. Nắm bắt kịp thời những
đổi thay của đất nước và của thế giới để góp được phần mình vào việc xây dựng,
bảo vệ và phát triển lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật, chính
sách của Nhà nước.
- Có khả năng thực thi được quyền lực của nhân dân. Người lãnh đạo xây
dựng được hệ thống thực thi quyền lực chính trị phù hợp với tính đặc thù của đơn
vị và xác lập được cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hữu hiệu đảm bảo toàn bộ
quyền lực thuộc về nhân dân. Sử dụng được quyền lực một cách tập trung thống
nhất trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, tập thể và cá nhân.
Có được những phương cách bảo vệ được quyền lực, lợi ích của nhân dân trước
mọi sự vi phạm và phá hoại từ nhiều phía. Tìm ra được những giải pháp, hình thức
tổ chức tối ưu để thực thi quyền lực và lợi ích của người lao động nghèo khó.
- Có khả năng tập hợp được quần chúng. Người lãnh đạo sống được với
cuộc sống của nhân dân, xây dựng được những mối quan hệ mật thiết với dân
chúng, hiểu hiết được quần chúng và ln chú ý đến lợi ích của dân chúng; như
thế, “thì dân chúng mới tin cậy và nhận người cán bộ đó làm người lãnh đạo của
họ”14. Quy tụ được những cá nhân, các tập thể, nhóm người khác nhau lại xung
quanh mình và huấn luyện họ làm cách mạng, phát huy được sức mạnh của quần
chúng vào thực hiện nhiệm vụ của cách mạng. Phải lấy đức độ mà thu phục được
nhân tâm; trân trọng và khai thác tài năng, sở trường của mỗi người. Sử dụng được

công cụ thưởng phạt để nhân lên sức mạnh của mình bằng tài đức của tất cả; “thực

14 . Xem: Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 1975, Tập 5, tr . 296.

18


sự có tài tổ chức cơng việc chung vững chắc và nhịp nhàng của một khối người
rộng lớn”15.
- Có khả năng đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống. Người lãnh đạo có
được phương pháp khoa học quán triệt một cách toàn diện, đúng đắn và sâu sắc
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước mà nhất là những vấn đề cốt lõi thuộc phạm vi mình phụ trách. Vạch ra
được mục tiêu chiến lược lâu dài, cùng những sách lược phù hợp cho từng giai
đoạn và đề ra được những chương trình, kế hoạch cụ thể với những hình thức,
biện pháp tối ưu; tổ chức thực hiện đến nơi đến chốn, chỉ huy, điều hành, kiểm
tra, giám sát một cách chặt chẽ; kịp thời uốn nắn, bổ sung và hoàn thiện chủ
trương làm cho đường lối của Đảng ngày một đi vào từng ngõ ngách của cuộc
sống, đến với mọi giới, mọi người và trở thành hiện thực sinh động trong đời
sống của các tầng lớp nhân dân.
Thứ ba, Có nghệ thuật chính trị. Nghệ thuật chính trị là cách thức hành
động độc đáo với sự khéo léo kết hợp sáng tạo một cách tinh vi những phương
thức khác nhau thành một chỉnh thể hệ phương pháp đặc biệt để xử lý tình huống
gây go đem lại hiệu quả chính trị - xã hội cao.
Nghệ thuật chính trị là nhân tố trực tiếp quyết định thành bại hoạt động
chính trị của người lãnh đạo. Để có nghệ thuật chính trị, người lãnh đạo phải có:
- Có khả năng khơn ngoan và khéo léo. Người lãnh đạo biết phát hiện được
nhanh, chính xác sự tồn tại của từng mối quan hệ và tất cả các quan hệ tạo nên tình
huống chính trị để kịp thời nhận rõ bản chất của vấn đề. Có được những giải pháp
chung cho cả tình huống và những biện pháp thích ứng với từng mối quan hệ, cùng

những hình thức và mức độ thỏa đáng với từng đối tượng. Xác định được vấn đề
15 . Xem: Lênin Toàn tập. Nxb, Máxtcơva. 1974. Tập 6, trang 237.

19


trung tâm, chọn đúng khâu yếu nhất, tính được thời khắc mang tính lịch sử nhất để
giải quyết một cách thật “nghệ thuật” những tình huống gay cấn và phức tạp nhất.
Tìm ra được lực lượng, phương cách để giải quyết tình huống ngay trong tình
huống bằng cả chính các lực lượng, những đối tượng tham gia tạo nên tình huống.
Biết hạn chế đến mức thấp nhất tác hại và bảo tồn nhiều nhất những thành quả của
cách mạng, thực hiện được nhiều nhất quyền lực và lợi ích của nhân dân.
- Có khả năng mưu trí và linh hoạt. Người lãnh đạo biết cẩn trọng trong
chiến lược, tính tốn tường tận trong kế hoạch nhưng hết sức táo bạo trong sách
lược, thật bất ngờ trong thủ thuật. Phán đoán chính xác tình hình, kịp thời ra được
những quyết định đúng đắn trong mọi tình huống, biết lèo lái phong trào tiến lên
đúng lúc, thoái lui đúng chỗ. Theo Lênin, “Thấy cuộc chiến đấu rõ ràng có lợi cho
kẻ thù, chứ khơng có lợi cho ta mà cứ nghênh chiến, đó là tội ác”. Khi chưa có thời
cơ, biết nhẫn nại chờ đợi đồng thời biết chủ động làm thay đổi tình thế, tạo ra thời
cơ, chớp lấy cơ hội, “ra đòn quyết định”, giải quyết dứt điểm vấn đề, nhanh chóng
chuyển sang giai đoạn mới.
- Khả năng có được mưu lược chính trị cao. Để có thể đề ra được kế sách
giải quyết đúng đắn vấn đề, chủ thể phải:
(1) Biết phân tích, đánh giá một cách tồn diện và chính xác sự tương quan,
tác động qua lại giữa các lực lượng chính trị đưa đến trạng thái tình huống, cùng sự
tương đồng và dị biệt giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội.
(2) Biết phân tích và vận dụng những mâu thuẫn thực tế giữa các giai cấp,
các lực lượng và trong nội bộ của từng giai cấp, từng lực lượng, khả năng xác lập
những mối liên minh lâu dài hay tạm thời.
(3) Biết dựa vào sức mạnh của quần chúng, vì cuộc sống của dân, vì sự tiến

bộ xã hội mà xây dựng cho mình đường lối chính trị đúng đắn với một hệ thống
20


những quan điểm rõ ràng, nhất quán được thực hiện bằng những sách lược đấu
tranh một cách mềm dẻo, linh hoạt và có sức sáng tạo cao.
(4) Biết nhanh chóng thay đổi phương thức đấu tranh, hoàn thiện đường lối,
sửa sang chủ trương, điều chỉnh hệ thống chính sách cho phù hợp với tình hình có
nhiều biến đổi; đồng thời, cũng biết nhìn nhận, sửa chữa những sai lầm, bổ khuyết
thiếu sót và biết dừng lại khi có bước sai.
(5) Biết sử dụng tất cả những khả năng có thể để chiến thắng, kết hợp được
một cách khéo léo và sinh động các phương pháp, các hình thức và biện pháp vốn
khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau để chúng vừa phát huy hết thế mạnh vừa chế
ước các mặt yếu của nhau làm cho chúng hòa quyện lấy nhau tạo thành một chỉnh
thể hệ phương pháp độc đáo với các “Thuật chính trị”.
- Có khả năng kết hợp đúng đắn giữa tính đảng và tính khoa học của chính
trị. Nếu tính đảng của chính trị là những phương pháp được lựa chọn và cách sử
dụng phải phản ánh đầy đủ, đúng đắn những quan điểm cơ bản của đảng thì tính
khoa học của nó là những phương pháp ấy phải đồng thời phản ánh quá trình vận
động khách quan của phong trào chính trị. Sự thống nhất giữa tính đảng và tính
khoa học của chính trị địi hỏi hệ phương pháp được sử dụng phải hiện thực hóa
ngày càng tốt hơn đường lối của đảng trên cơ sở sự vận dụng sáng tạo những quy
luật nội tại của hoạt động chính trị, cùng sự khảo sát một cách đầy đủ kinh nghiệm
của nhân loại, của dân tộc, của đảng, kể cả kinh nghiệm của các đảng tư sản trong
giải quyết những vấn đề gần gũi. Hệ phương pháp không chỉ phải tương ứng yêu
cầu, tính chất từng nhiệm vụ cách mạng, với trình độ của đội ngũ cán bộ thực hiện,
trình độ và khả năng cách mạng của quần chúng mà còn phải phù hợp với bản chất,
thủ đoạn và sức phản kháng của các đối tượng trong từng hoàn cảnh và điều kiện
cụ thể.


21


- Có khả năng kết hợp tối ưu giữa hiệu quả chính trị với hiệu quả xã hội.
Nếu hiệu quả chính trị của phương pháp là hệ phương pháp được lựa chọn và cách
sử dụng phải giải quyết một cách tốt nhất vấn đề chính trị của tình huống với sự
chi phí mọi mặt tiết kiệm nhất thì hiệu quả xã hội của nó là hệ phương pháp ấy
phải đồng thời giải quyết tốt nhất những vấn đề xã hội có liên quan. Sự thống nhất
của hiệu quả chính trị với hiệu quả xã hội của phương pháp đòi hỏi hệ phương
pháp được sử dụng phải vừa giải quyết vấn đề lợi ích giai cấp vừa đem lại lợi ích
cụ thể cho những người thực hiện. Hệ phương pháp phải không chỉ trực tiếp giải
quyết một cách tốt nhất vấn đề chính trị đang đặt ra, nhanh chóng đạt được quyền
lực chính trị mà cịn phải bao hàm hoặc đặt nền móng cho việc giải quyết các vấn
đề kinh tế - xã hội tiếp theo, trực tiếp hay gián tiếp giải quyết vấn đề con người
theo lập trường của chủ nghĩa nhân văn.
b. Trực trạng người cán bộ lãnh đạo Việt Nam hiện nay
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII (1997) đã xây
dựng “Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”. Chiến lược đã nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong cơng tác xây dựng Đảng” 16.
Đại hội tồn quốc lần thứ X (2006) xác định: “Mục tiêu chung là xây dựng
đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh,
(…); có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chun mơn, nghiệp vụ, đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đồn kết,
hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập
thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán
bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý.
16. ĐCSVN.VKHN lần thứ ba BCHTW Khoá VII. Nxb. CTQG. HN. 1997, tr 66.


22


Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành
của hệ thống chính trị 17.
Đại hội toàn quốc lần thứ XI (2010) đã chủ trương“Xây dựng đội ngũ cán
bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực đáp ứng u cầu trong tình hình mới. Rà
sốt, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng
cường tính cơng khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ,
động viên, khuyến khích cán bộ, cơng chức hồn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại
bỏ, bãi miễn những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín
với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện “nhất thể hóa” một số chức vụ lãnh đạo
Đảng, Nhà nước để có chủ trương phù hợp. Thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức
vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định”.
Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã đẩy mạnh việc xây dựng
và từng bước hoàn thiện tiêu chuẩn cán bộ, hồn thiện các quy chế, quy trình đánh
giá, nhận xét các loại cán bộ mà đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trên
cơ sở quán triệt quan điểm “ lấy hiện quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước
đó phẩm chất và năng lực cán bộ”. Xây dựng được cơ câu tổ chức bộ máy lãnh đạo
và quản lý cán bộ của từng cấp theo hướng tinh giảm, bảo đảm vận hành đồng bộ,
thống nhất, có hiệu lực và hiệu quả cao với những quy định rõ hơn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và các mối quan hệ giữa các bộ phận. Viêc bố trí
và sử dụng cán bộ ngày một đúng hơn với kết quả đào tạo, với năng lực sở trường,
17 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG. HN. 2006, tr. 293


23


với hồn cảnh và điều kiện cơng tác của từng cán bộ. Nhân tài của đất nước, của
từng lĩnh vực và của địa phương đã được trọng dụng một cách có hệ thống hơn.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ mà nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp của
cả hệ thống chính trị có bước trưởng thành và ngày càng thể hiện bản lĩnh lãnh đạo
và quản lý các mặt đời sống xã hội trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phần lớn những người lãnh đạo giữ vững phẩm chất
đạo đức, lối sống gắn bó với nhân dân đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị, kiên định
mục tiêu và con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
Năng lực định hướng, tổ chức thực tiễn và nghệ thuật điền hành, quản lý đất
nước ngày một nâng cao. Họ cũng là những người năng động sáng tạo những
phương thức mới thực thi quyền lực của nhân dân, cũng là trụ cột của chế độ,
của công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, công tác cán bộ chưa theo kịp yêu cầu công cuộc đổi mới. Theo
Nghị quyết TW 4 (khóa XI), một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó
có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên
tắc... Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa
được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực
hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt,
chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân cơng cán bộ.
Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật cơng tâm, khách quan, khơng
vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín
cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.

24



Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi
vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể
và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có
hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa khơng khuyến
khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho
cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu
cầu lợi ích cá nhân.
c. Nâng cao chất lượng người cán bộ lãnh đạo Việt Nam theo yêu càu
công cuộc đổi mới
Người cán bộ lãnh đạo là kết quả của quá trình đào tạo của Đảng, tự đào tạo
của bản thân và sự chăn bồi của nhân dân. Việc nâng cao chất lượng người cán bộ
lãnh đạo Việt Nam theo yêu cầu công cuộc đổi mới, trước hết, phải quán triệt quan
điểm cơ bản của Đảng về cơng tác cán bộ; trong đó, cần tập trung vào những
nhiệm vụ quan trọng sau:
Thứ nhất, Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn
đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong q trình đổi mới, khơng ngừng phát
triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước;
khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi
trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tịi, sáng tạo, phát
huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành
quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp
hơn với nhu cầu thực tiễn. Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước.

25



×