Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát triển du lịch cộng đồng tại huyện con cuông, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 110 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TẠI HUYỆN CON
CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN

Chủ nhiệm đề tài

: Nguyễn Thị Tình

Lớp

: 1905VDLB

Khoa

: Quản Lý Xã Hội

Giảng viên hướng dẫn : TS. Lê Thu Hương

Hà Nội – 202


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4


Chữ viết tắt
BQL
BTXM
Bộ VHTTDL
CBT

Nội dung
Ban Quản Lý
Đường bê tơng xi măng
Bộ Văn hố Thể thao và Du lịch
Dự án Du lịch Cộng đồng Community
Based Tourism
Cộng Đồng Dân Cư
Cộng đồng địa phương
Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Du lịch
Du lịch cộng đồng
Đường dây
Giao thông nông thôn
Tổng công ty Điện lực miền Bắc
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản

5
7
8
9
10
11
12
13

14

CĐDC
CĐĐP
Công ty TNHH
DL
DLCĐ
ĐZ
GTNT
EVNNPC
JICA

15

JIKA

Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản

16
17
18
19
20

KSQTG
KT - XH
LHPN
NTM
Nước CHDCND Lào


Khu dự trữ sinh quyển thế giới
Kinh tế - Xã hội
Hội Liên Hiệp Phụ Nữ
Nông thôn mới
Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào

21

OCOP

22
23
24
25
26
27
28

QL7
QĐ-UBND
TNDL
TTATGT
UBND
UNESCO
VQG

One Commune One Product ( Mỗi xã một
sản phẩm)
Quốc lộ 7
Quyết định- Ủy Ban Nhân Dân

Tài nguyên du lịch
Trật tự an toàn giao thông
Ủy Ban Nhân Dân
Liên Hiệp Quốc
Vườn Quốc Gia


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) là một loại hình du lịch có lịch sử phát triển
lâu đời và phổ biến trên thế giới. Đây là loại hình du lịch đặc biệt, khai thác và
phát huy đồng thời cả tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, đem đến những
sản phẩm du lịch kết tinh giá trị thiên nhiên và con người. Phát triển DLCĐ là
sự phát triển du lịch theo hướng bền vững, cộng đồng dân cư nằm ở vị trí trung
tâm, có vai trị chủ đạo trong việc bảo tồn và tơn tạo, phát triển tài ngun mơi
trường.
Xét về góc độ điều kiện và tài nguyên du lịch, Việt Nam có nguồn tài
nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú, đặc biệt là văn hóa đồng bào
dân tộc thiểu số gắn với môi trường và cảnh quan sinh sống. Bên cạnh đó, Việt
Nam cũng có nhiều nguồn lực thuận lợi cho việc phát triển du lịch cộng đồng.
Tại Việt Nam, phát triển du lịch cộng đồng không chỉ hướng đến mục tiêu kinh
tế mà còn gắn liền với xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và cơng bằng xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư, bảo vệ và khai thác tài
nguyên môi trường hiệu quả đặc biệt đối với các địa phương giàu tài nguyên
du lịch song Kinh tế - xã hội còn kém phát triển.
Trên thực tế, du lịch cộng đồng tại Việt Nam hiện nay đã có những bước
phát triển mạnh mẽ, sự hoạt động của một số mơ hình DLCĐ tiêu biểu như Sa
Pa, Mộc Châu, Mai Châu... đã và đang phát huy được tiềm năng du du lịch,
đem lại nguồn lợi kinh tế và góp phần nâng cao chất lượng xã hội. Phát triển
DLCĐ tại Việt Nam chủ yếu gắn liền với văn hóa dân tộc thiểu số, đây là tài

nguyên du lịch dồi dào, phong phú, đáng tự hào của nước ta. Tuy nhiên, xét
trên mặt bằng chung ngành du lịch của cả nước, phát triển DLCĐ chưa mang
tính đồng bộ, nhiều khu vực cịn chưa phát huy được hết tiềm năng vốn có của
mình. DLCĐ khơng hề hiếm, nhưng để nhận diện với một loại hình du lịch nổi
bật thì số lượng chưa nhiều.


Nghệ An là một tỉnh thành thuộc miền Trung nước ta, nơi có đường biên
giới tiếp giáp với nước bạn Lào. Các huyện ở miền Tây tỉnh Nghệ An là nơi
sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số như Thái, Mường. Với số lượng dân
cư khá thấp, sống hòa mình với thiên nhiên, nền văn hóa cịn giữ được nhiều
giá trị cổ truyền đặc sắc đậm tính nhân văn. Đây chính là kho báu văn hóa của
Nghệ An, cũng chính là tiềm năng lớn để phát triển DLCĐ. Những năm gần
đây, ngành du lịch Nghệ An đã có nhiều thay đổi tích cực, phấn đấu để ghi dấu
tên mình vào bản đồ du lịch Việt Nam. Trong đó, tỉnh Nghệ An dành sự quan
tâm đặc biệt cho DLCĐ tại miền Tây Nghệ An nói chung và tại huyện Con
Cng nói riêng.
Đến thời điểm bây giờ, đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu lý
luận cũng như thực tiễn về DLCĐ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhiều
cơng trình mang tính tổng quan và hệ thống cao. Nhưng nghiên cứu về DLCĐ
tại Nghệ An thì chưa nhiều và chưa thật sự sâu sắc, tồn diện. Vì vậy, trên cơ
sở kế thừa và phát huy hệ thống lý luận về DLCĐ, kết hợp quan sát thực tiễn
du lịch tại Nghệ An hiện nay, tôi xin lựa chọn đề tài “Phát triển du lịch cộng
đồng tại huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An”. Đề tài thực hiện với mong muốn
nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện về DLCĐ tại huyện Con Cng, từ
đó mở ra những phương hướng cho việc phát triển du lịch bền vững tại điểm
đến này.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở lý luận về du lịch và du lịch cộng đồng, đề tài nghiên cứu về
tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch cộng đồng tại huyện Con Cuông Nghệ An. Từ đó đưa ra các giải pháp phát triển du lịch cộng đồng góp phần

nâng cao đời sống của cộng đồng địa phương và hướng đến phát triển du lịch
bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch cộng
đồng tại huyện Con Cuông.


3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi không gian: đề tài giới hạn phạm vi khơng gian là tồn bộ các
tiềm năng, điều kiện và hoạt động du lịch cộng đồng tại huyện Con Cuông, tỉnh
Nghệ An
+ Phạm vi thời gian: Đề tài đánh giá thực trạng phát triển du lịch huyện
Con Cuông trong thời gian từ năm 2015 đến 2022.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đã tổng hợp, phân
tích các nhóm tài liệu sau:
- Nhóm tài liệu nghiên cứu về du lịch cộng đồng
Trên thế giới, đã có một số cơng trình nghiên cứu về du lịch cộng đồng,
trong đó có “Tourism Community Realationship” năm 1996 của các tác giả
Philip, Gianna Moscardo và Glenn đã nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng
và du lịch. Peter (1986) với cơng trình “Tourism: A community Approach” đã
dùng cách tiếp cận về sinh thái và cộng đồng để nghiên cứu du lịch, tăng lợi ích
tổng thể trên nhiều phương diện cho cộng đồng bằng việc xác định đầu tư các
sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương. Rhonda Phillips (2012) với
“Tourism, Planning and Community Development” đã cho rằng bên cạnh
những lợi ích thực thấy về kinh tế, du lịch cộng đồng cịn đóng góp vào việc
bảo tồn văn hóa và các tài nguyên, nâng cao năng lực của cộng đồng.
Ở Việt Nam, các đề tài về du lịch cộng đồng xuất hiện vào cuối thập kỷ
90 với một số cơng trình nổi bật như “Du lịch cộng đồng - lý thuyết và vận

dụng” của TS. Võ Quế (2006), Nxb Khoa học và Kỹ thuật; ThS. Bùi Thị Hải
Yến (chủ biên 2012) với “Du lịch cộng đồng”, Nxb Giáo dục Việt Nam... Ngồi
ra, cịn có một số đề tài nghiên cứu nổi bật như “Phát triển du lịch cộng đồng
ở khu vực vườn Quốc gia Cát Tiên tỉnh Đồng Nai” tác giả Vũ Đức Cường năm
2014 đã có sự đóng góp bổ sung về cơ sở lý luận và thực tiễn trong phát triển
du lịch cộng đồng tại Việt Nam. Đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động du
lịch cộng đồng tại các xã thuộc vùng đệm vườn Quốc gia Cát Tiên, tỉnh Đồng
Nai. Qua đó đề xuất một số giải pháp phù hợp với thực tế địa phương nhằm


nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong hoạt động du lịch cộng đồng; biến du
lịch cộng đồng thành công cụ đắc lực trong phát triển kinh tế địa phương, góp
phần bảo vệ tài nguyên và phát huy những giá trị văn hóa bản địa. “Phát triển
du lịch cộng đồng huyện KonPlong, tỉnh Kon Tum” năm 2017 của tác giả Lê
Thành Diễn đã dựa trên cơ sở lý luận chung về du lịch, du lịch cộng đồng để
nghiên cứu các hoạt động phát triển du lịch tại huyện KonPlong, qua đó đề ra
các giải pháp phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện nhằm nâng cao
mức sống của cư dân địa phương, góp phần phát triển du lịch bền vững. Ngồi
ra cịn có cơng trình “Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại làng cổ Đường
Lâm, Hà Nội” năm 2018 của tác giả Phạm Thị Thanh Huyền, đề tài này đã tập
trung tìm hiểu, nghiên cứu về hình thức du lịch cộng đồng. Từ đó đánh giá tiềm
năng và thực trạng phát triển du lịch ở làng cổ Đường Lâm, đồng thời đưa ra
những biện pháp áp dụng du lịch cộng đồng vào làng cổ Đường Lâm.
- Nhóm tài liệu nghiên cứu về du lịch tỉnh Nghệ An:
Nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, Nghệ An từ lâu được biết đến là
một vùng đất giàu tài nguyên du lịch với sự phong phú, đa dạng về cảnh quan
thiên nhiên, giàu bản sắc văn hóa. Tiềm năng du lịch của tỉnh Nghệ An rất lớn
nhưng trong thực tế, Nghệ An vẫn chưa khai thác hết tiềm năng du lịch của
mình. Với sự phát triển non trẻ của ngành du lịch địa phương, các cơng trình
nghiên cứu du lịch tỉnh Nghệ An chỉ mới dừng lại ở một số báo cáo như: “Quy

hoạch tổng thể phát triển du lịch ở Bắc Bộ” do Bộ VHTTDL nghiên cứu, “Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch Nghệ An 1996-2010” và “Quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch tỉnh Nghệ An 2006-2020” do Sở Du lịch Nghệ An kết hợp
với Viện nghiên cứu phát triển du lịch. Ngồi ra cịn phải kể đến “Định hướng
phát triển các điểm, tuyến du lịch sinh thái của tỉnh Nghệ An”, tác giả Vũ Thị
Kim Luận, năm 2012. Tác giả đã tổng quan một số vấn đề lý luận về điểm,
tuyến du lịch và du lịch sinh thái, từ đó phân tích, đánh giá tiềm năng phát triển
các tuyến, điểm du lịch sinh thái ở Nghệ An, rút ra những thuận lợi, khó khăn
trong việc phát triển du lịch sinh thái của mình. Đồng thời xây dựng, định
hướng khai thác và đề xuất giải pháp phát triển các điểm, tuyến du lịch sinh


thái nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch sinh thái ở tỉnh Nghệ An.
Năm 2014, cơng trình “Phát triển Du lịch nông thôn tại Nghệ An, nghiên
cứu trường hợp: Bản Hoa Tiến 2, xã Châu Tiến, Quỳ Châu” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Thanh đã nghiên cứu về tiềm năng du lịch nông thôn và hiện trạng
phát triển du lịch nông thôn tại bản Hoa Tiến 2, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu,
tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở đó góp phần nâng cao khả năng khai thác phát triển
du lịch nông thôn Nghệ An theo hướng phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, cịn có cơng trình “Phát triển du lịch tỉnh Nghệ An giai
đoạn 2000-2010” năm 2012 của tác giả Hà Thị Thuần đã vận dụng lý luận và
thực tiễn về phát triển du lịch, đề tài tập trung đánh giá tiềm năng và phân tích
thực trạng du lịch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2000-2010. Từ đó, đề xuất các giải
pháp phát triển tới năm 2020 nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch tỉnh
Nghệ An, phát triển du lịch có hiệu quả và bền vững.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để có kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đã tiến hành các phương pháp
nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp thu thập thơng tin và phân tích tài liệu: phương pháp
này dùng để thu thập các thông tin lý luận về du lịch và DLCĐ cũng như các

thơng tin du lịch của Nghệ An nói chung huyện Con Cng nói riêng. Từ đó,
nhóm tác giả đã tiến hành xây dựng tổng quan nghiên cứu vấn đề; lý luận về
du lịch cộng đồng và tổng quát về tiềm năng và thực trạng du lịch tại huyện
Con Cuông.
- Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế: Để phân tích, đánh giá được
hiện trạng và tiềm năng phát triển du lịch của huyện Con Cng, nhóm tác giả
đã tiến hành 1 đợt khảo sát vào tháng năm 2022. Thông qua hoạt động khảo sát,
nhóm tác giả đã đánh giá được hiện trạng về tài nguyên du lịch và khả năng
phát triển du lịch cộng đồng của Con Cng. Qua đó, đưa ra các đề xuất về giải
pháp cho phát triển DLCĐ tại đây.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Do điều kiện dịch bệnh hạn chế di
chuyển, nhóm tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tuyến người dân địa phương


về nhận thức cũng như nhu cầu tham gia vào hoạt động DLCĐ tại Con Cng
để từ đó đánh giá được tiềm năng phát triển DLCĐ cũng như những vấn đề về
phát triển DLCĐ tại đây.
5. Bố cục đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch và du lịch cộng đồng
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại
huyện Con Cuông - tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại huyện Con Cuông
- tỉnh Nghệ An


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ
DU LỊCH CỘNG ĐỒNG


1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm cộng đồng
Cộng đồng là một khái niệm về tổ chức xã hội đã được nhiều nhà nghiên
cứu đưa ra trong các cơng trình khoa học với ngữ nghĩa khác nhau. Theo Fichter
cộng đồng bao gồm 4 yếu tố sau: (1) tương quan cá nhân mật thiết với nhau,
mặt đối mặt, thẳng thắn chân tình, trên cơ sở các nhóm nhỏ kiểm sốt các mối
quan hệ cá nhân; (2) có sự liên hệ chặt chẽ với nhau về tình cảm, cảm xúc khi
cá nhân thực hiện được các cơng việc hoặc nhiệm vụ cụ thể; (3) có sự hiến dâng
về mặt tinh thần hoặc dấn thân thực hiện các giá trị xã hội được cả xã hội
ngưỡng mộ; (4) có ý thức đồn kết tập thể.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, cộng đồng được hiểu là “Một tập đồn
người rộng lớn, có những dấu hiệu chung về thành phần giai cấp, về nghề
nghiệp, về địa điểm sinh tụ và cư trú. Cũng có những cộng đồng xã hội bao
gồm cả một dòng giống, một sắc tộc, một dân tộc”.
Theo Nguyễn Hữu Nhân: “Cộng đồng là những cộng đồng được gọi tên
như đơn vị làng, bản, xã, huyện,..., những người chung về lý tưởng xã hội, lứa
tuổi, giới tính, thân phận xã hội. Khái niệm cộng đồng có hai nghĩa:
- Là một nhóm dân cư cùng sinh sống trong một địa phương nhất định, có
cùng giá trị và tổ chức xã hội cơ bản.
- Là một nhóm dân cư có cùng mối quan tâm.”
Như vậy, một cộng đồng là một nhóm xã hội của các cá thể sống chung
trong cùng một mơi trường thường là có cùng các mối quan tâm chung. Trong
cộng đồng người đó là kế hoạch, niềm tin, các mối ưu tiên, nhu cầu, nguy cơ và
một số điều kiện khác có thể có và cùng ảnh hưởng đến đặc trưng và sự thống
nhất của các thành viên trong cộng đồng.


Cộng đồng được hình thành trên cơ sở các mối liên hệ giữa cá nhân và tập
thể dựa trên cơ sở tình cảm là chủ yếu; ngồi ra cịn có các mối liên hệ tình cảm
khác. Cộng đồng có sự liên kết cố kết nội tại không phải do các quy tắc rõ ràng

thành văn, mà do các quan hệ sâu hơn, được coi như là một hằng số văn hóa.
1.1.2. Khái niệm du lịch
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), một tổ chức
thuộc Liên Hợp Quốc, Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người
du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm
hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề
và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng khơng q một
năm, ở bên ngồi mơi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có
mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động
trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
Theo định nghĩa của Luật du lịch Việt Nam thì du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người (cá nhân hoặc tập thể) đến những nơi
khơng thuộc khu vực mình cư trú thường xuyên nhằm mục đích tham quan, vui
chơi, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định (khơng bao gồm
mục đích cơng việc).
Ngành du lịch có mối liên kết mạnh mẽ với các nhóm ngành khác (nhất là
về dịch vụ) như: ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, giao thơng, giải trí. Có thể nói,
chúng có mối quan hệ cùng tiến, cùng lùi với nhau. Ngành du lịch hiện mang
lại rất nhiều cơ hội việc làm, mức thu nhập tốt dành cho người lao động.
Dưới góc độ kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn
thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Theo quan điểm của MC.
Intosh (Mỹ) thì du lịch là: "Tổng hợp các hiện tượng và mối quan hệ nảy sinh
từ sự tác động qua lại giữa du khách, các nhà cung ứng sản phẩm du lịch, chính
quyền và cộng đồng địa phương trong q trình thu hút và tiếp đón du khách".
Trong đó:


• Du khách: Những người đi tìm các trải nghiệm và thoả mãn về vật chất
và tinh thần khác nhau. Ước muốn của các đối tượng này sẽ xác định địa
điểm du lịch được lựa chọn và các hoạt động được thực hiện tại địa điểm

đó.
• Sản phẩm dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp cho cơ sở du lịch
và khách du lịch: Các nhà kinh doanh xem du lịch là một cơ hội để kiếm
lợi nhuận bằng cách cung cấp sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
• Chính quyền sở tại: Xem du lịch chủ yếu là một hoạt động kinh tế có
mang lại thu nhập cho dân chúng, ngoại tệ cho quốc gia và tiền thuế cho
ngân quỹ.
• Dân chúng địa phương: Xem du lịch là cơ hội tạo việc làm, thu nhập và
giao lưu văn hóa
Hoạt động du lịch có thể phân nhóm theo các nhóm khác nhau tùy thuộc
tiêu chí đưa ra. Hiện nay đa số các chuyên gia về du lịch Việt Nam phân chia
các loại hình du lịch theo các tiêu chí cơ bản dưới đây.
Phân theo môi trường tài nguyên
- Du lịch thiên nhiên
- Du lịch văn hóa
Phân loại theo mục đích chuyến đi
- Du lịch tham quan
- Du lịch giải trí
- Du lịch nghỉ dưỡng
- Du lịch khám phá
- Du lịch thể thao
- Du lịch lễ hội
- Du lịch tôn giáo
- Du lịch nghiên cứu (học tập)
- Du lịch hội nghị


- Du lịch thể thao kết hợp
- Du lịch chữa bệnh

- Du lịch thăm thân
- Du lịch kinh doanh
1.1.3. Khái niệm du lịch cộng đồng
Khái niệm du lịch cộng đồng (DLCĐ) bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 20,
có các cách nhìn nhận và hiểu biết khác nhau về khái niệm này, các khái niệm
và định nghĩa khác nhau thường tùy thuộc vào tác giả, khu vực địa lý hoặc
nghiên cứu/ dự án cụ thể.
Du lịch cộng đồng thực chất là đối tượng nghiên cứu và triển khai các loại
hình du lịch. Ngày nay, DLCĐ được hiểu là một hình thức kinh doanh du lịch
dựa trên những giá trị về văn hóa của cộng đồng. Nó được thực hiện và phát
triển bởi cộng đồng dân cư, do cộng đồng quản lý, tổ chức và khai thác. Ngày
nay, du lịch cộng đồng phát triển bền vững tại một số vùng miền, đặc biệt nó
phù hợp với cộng đồng dân tộc thiểu số.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu cũng như một số tổ chức trên thế giới đưa ra
các khái niệm về du lịch cộng đồng:
Theo Handbook, “DLCĐ là loại hình du lịch có sự tham gia trực tiếp của
CĐĐP phát triển kinh tế địa phương, đồng thời góp phần bảo tồn văn hóa, thiên
nhiên bền vững, nâng cao nhận thức và tăng cường quyền lực cho cộng đồng.
Cộng đồng được chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch, nhận được sự hợp tác, hỗ
trợ từ chính quyền địa phương, chính phủ và từ các hoạt động hỗ trợ quốc tế,
nhằm mục đích khai thác bền vững các tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn
tại địa phương để giới thiệu tới khách du lịch”.
Theo Đỗ Thanh Hoa trong “Phát huy vai trò của CĐĐP phát triển du lịch
bền vững” cho rằng “DLCĐ là một hình thái du lịch, trong đó chủ yếu những
người dân địa phương đứng ra phát triển quản lý du lịch. Kinh tế địa phương
sẽ thu được phần lớn lợi nhuận từ hoạt động du lịch”.
Theo Nguyễn Văn Thanh trong “Đào tạo DLCĐ, du lịch sinh thái với bảo
vệ mơi trường” thì “DLCĐ là phương thức phát triển du lịch, trong đó cộng



đồng dân cư là chủ thể trực tiếp tham gia phát triển du lịch, bảo vệ tài nguyên
môi trường về cả tự nhiên và nhân văn tại các điểm, khu du lịch và đồng thời
được hưởng quyền lợi từ các hoạt động du lịch mang lại”.
Vai trò cầu du lịch của cộng đồng được đề cập đến trong bài viết “Phát
triển DLCĐ trong bối cảnh kinh tế thị trường” của TS. Nguyễn Văn Lưu, “tính
cộng đồng trong tạo cung du lịch có thể hiểu là sự liên kết nhiều quá trình, hoạt
động du lịch riêng biệt thành quá trình KT - XH, tồn tại, hoạt động và phát
triển liên tục với tư cách một ngành kinh tế như một hệ thống hữu cơ”. Đó là
q trình kinh tế khách quan phù hợp với quá trình phát triển cao của lực lượng
sản xuất xã hội trong và ngoài ngành Du lịch. Dưới góc độ cầu du lịch, cộng
đồng hóa du lịch, du lịch đại chúng là quá trình chuyển đổi nhu cầu du lịch từ
nhu cầu đơn lẻ cao cấp của một số ít người thuộc tầng lớp thượng lưu trở nên
phổ biến, thiết yếu của đa số quần chúng nhân dân.
Các khái niệm về DLCĐ nói trên khác nhau về cách diễn đạt, ngơn từ,
song tựu chung đều có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, DLCĐ là một loại hình, một hình thái du lịch, ở đó có sự tham
gia trực tiếp và đóng vai trị chủ yếu của CĐĐP vào các giai đoạn, các khâu
trong quá trình phát triển du lịch, nhằm mục tiêu bảo tồn và khai thác bền vững
các nguồn tài nguyên môi trường. Lợi nhuận từ hoạt động du lịch sẽ được phân
chia cho cộng đồng.
Thứ hai, cộng đồng tham gia vào phát triển du lịch với vai trò cung du lịch
và hưởng lợi từ các hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, cộng đồng cịn đóng vai
trị quan trọng trong việc cầu du lịch.
Dựa trên cơ sở lý luận được nhiều tổ chức và nhà nghiên cứu đề ra, cũng
như từ thực tế phát triển du lịch cộng đồng trên thế giới và Việt Nam, DLCĐ
có thể hiểu là một phương thức phát triển du lịch bền vững, ở đó CĐĐP tham
gia trực tiếp và chủ yếu trong quá trình phát triển du lịch. Dựa trên sự hợp
tác, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân, chính quyền địa phương và chính phủ,
nhận được nguồn thu lợi nhuận từ hoạt động du lịch. Từ đó phát triển cộng
đồng, bảo tồn và khai thác tài nguyên du lịch bền vững, đáp ứng được nhu



cầu du lịch phong phú và có chất lượng cao của du khách để mọi tầng lớp
dân cư đều có thể sử dụng sản phẩm du lịch cộng đồng.
1.2. Điều kiện hình thành và đặc điểm của du lịch cộng đồng
1.2.1. Điều kiện hình thành du lịch cộng đồng
1.2.1.1. Tài nguyên du lịch
Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2017, “Tài nguyên du lịch là cảnh quan
thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản
phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, đáp ứng nhu cầu du lịch”.
Tài nguyên du lịch có thể chia làm hai nhóm: tài nguyên du lịch tự nhiên
và tài nguyên du lịch nhân văn:
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố hợp phần tự nhiên, các
hiện tượng tự nhiên và quá trình biến đổi của chúng, tạo nên các điều kiện
thường xuyên tác động đến sự sống và hoạt động của con người sử dụng vào
mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm cảnh quan thiên nhiên,
các yếu tố địa chất, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác
như cảnh đẹp, núi, sông, biển,... tạo nên những nét riêng biệt hấp dẫn khách du
lịch, mang lại hiệu quả cao trong việc phát triển du lịch.
Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch có nguồn gốc
nhân tạo, nghĩa là do con người sáng tạo ra, bao gồm toàn bộ những sản phẩm
có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sáng tạo ra có giá trị phục
vụ du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm di sản văn hóa vật thể, phi vật
được sử dụng vào mục đích du lịch. Đó là những truyền thống văn hóa của địa
phương, là phong tục, tập quán, là các lễ hội, văn nghệ dân gian, các di tích lịch
sử, cách mạng, khảo cổ và những cơng trình sáng tạo của con người.
Tài ngun du lịch là cơ sở phát triển các sản phẩm và dịch vụ du lịch, là
tiền đề để hình thành bất kì loại hình du lịch nào. Một trong những tiêu chí quan
trọng để đo lường mức độ hấp dẫn của điểm du lịch đó là tài nguyên du lịch,
tài nguyên càng phong phú và độc đáo thì càng thu hút khách du lịch. Để hình

thành điểm đến du lịch, khu du lịch thì yêu cầu cơ bản phải là khu vực có tài
nguyên du lịch được khai thác, phát triển thành các sản phẩm du lịch.


Du lịch cộng đồng được xác lập trên một địa điểm xác định với những giá
trị tài nguyên sẵn có, là sự hòa quyện của các giá trị tự nhiên và giá trị nhân
văn. Du lịch cộng đồng được hình thành và phát triển dựa trên những giá trị
văn hóa bản địa. Vì thế, những điểm đến có nguồn tài nguyên nhân văn gắn liền
với yếu tố bản địa là điều kiện cơ bản để phát triển du lịch cộng đồng. Những
giá trị văn hóa bản địa này có thể là: nghệ thuật xây dựng, kiến trúc, trang trí
nhà cửa, nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật ẩm thực, văn hóa nghệ
thuật, văn hóa ứng xử, phong tục tập quán, lễ hội, các giá trị văn học, thơ ca,
văn hóa nghệ thuật, ngơn ngữ, chữ viết, các di tích lịch sử văn hóa, trang phục
truyền thống, kinh nghiệm sản xuất và bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên, các
hương ước, bài thuốc dân gian,...
Việt Nam được xem là đất nước “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”, vừa
có cảnh quan thiên nhiên phong phú, độc đáo, vừa có nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng. Nền văn hóa phong phú bởi những phong tục tập quán của các
dân tộc, bên cạnh đó cịn là những khác biệt văn hóa thú vụ giữa các vùng miền.
Đó là chính là cơ sở vững chắc để có thể hình thành và phát triển du lịch cộng
đồng. DLCĐ tại Việt Nam chủ yếu gắn liền với văn hóa các dân tộc thiểu số,
đây cũng là hướng khai thác chính trong phát triển du lịch cộng đồng ở Việt
Nam nhằm kết hợp thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Cả cộng đồng 54 dân
tộc đều gắn bó mật thiết trong quá trình lịch sử lâu dài, vừa chống lại những kẻ
thù xâm lược vừa xây dựng cuộc sống hạnh phúc và ln ln tơn trọng quyền
của con người nói chung trên trái đất.
Mỗi dân tộc có tiếng nói, chữ viết và bản sắc văn hóa riêng được quyền
duy trì bền vững để cùng phát triển nền văn hóa chung của cộng đồng, trong đó
con người Việt Nam là một yếu tố tài nguyên cơ bản trong loại hình du lịch
cộng đồng và trong các loại hình du lịch khác.

1.2.1.2. Cộng đồng dân cư
Như đã đề cập trong phần 1.1, DLCĐ là loại hình du lịch gắn liền với cộng
đồng dân cư (CĐDC). CĐDC tại địa phương là một trong những bên tham gia
có vai trị quan trọng bậc nhất, quyết định sự hình thành, tổ chức và phát triển


du lịch cộng đồng. Vì đây là loại hình du lịch mà CĐDC đóng vai trị chủ đạo,
nên nếu thiếu đi họ thì hoạt động du lịch gần như khơng thể tiến hành. Tuy
nhiên, cộng đồng ở đây phải là những người dân địa phương đang sinh sống
trong khu vực hoặc liền kề khu vực phát triển du lịch. Những doanh nghiệp hay
lao động từ nơi khác đến không được xem là cộng đồng.
Trên cơ sở pháp lý, sự tham gia của cộng đồng dân cư trong phát triển du
lịch được quy định tại Điều 7 Luật Du lịch 2017 như sau:
(1). Cộng đồng dân cư có quyền tham gia và hưởng lợi ích hợp pháp từ
hoạt động du lịch; có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch, bản sắc văn hóa
địa phương; giữ gìn an ninh, trật tự, an tồn xã hội, vệ sinh mơi trường để tạo
sự hấp dẫn du lịch.
(2). Cộng đồng dân cư được tạo điều kiện để đầu tư phát triển du lịch, khôi
phục và phát huy các loại hình văn hóa, nghệ thuật dân gian, ngành, nghề thủ
công truyền thống; sản xuất hàng hóa của địa phương phục vụ khách du lịch,
góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương”.
Trên thực tế họ là những người am hiểu về điều kiện tự nhiên, những
thuận lợi, khó khăn, những yếu tố về lịch sử, về tài nguyên thiên nhiên nơi họ
sinh sống,.. chính họ là những người đã sáng tạo nên những giá trị văn hóa trên
địa bàn. Những giá trị văn hóa bản địa này chính là nguồn TNDL, là sản phẩm
du lịch độc đáo.
Bên cạnh đó, họ chính là chủ thể tham gia vào q trình hoạt động du lịch,
trực tiếp phục vụ du khách. Các hoạt động kinh doanh du lịch gồm kinh doanh
lưu trú, ăn uống từ cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có như nhà ở, phịng cho th
được tu sửa, trang bị lại phù hợp với nhu cầu của du khách; kinh doanh ăn uống

từ kinh nghiệm, kỹ năng về văn hóa ẩm thực truyền thống và nghiệp vụ, kỹ
năng qua đào tạo; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, bán hàng, giặt là, cắt tóc,
làm đẹp. Massage, vui chơi giải trí, biểu diễn văn hóa nghệ thuật phục vụ du
khách; vận chuyển, mang vác hàng hóa, kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch,
thu đổi ngoại tệ; tham gia làm việc trong các cơ sở kinh doanh lưu trú, ăn uống,
lữ hành; vận chuyển do các nhà thầu hoặc các công ty du lịch ở nơi khác đến


đầu tư, kinh doanh lữ hành,... Những trải nghiệm của khách du lịch phụ thuộc
vào chất lượng phục vụ được cung cấp bởi chính những người địa phương. Vậy
nên, hoạt động du lịch cộng đồng hiệu quả, chất lượng sản phẩm du lịch tốt
ln cần có sự tham gia hiệu quả của cộng đồng cư dân địa phương.
CĐDC còn tham gia vào việc lấy ý kiến, quản lý, giám sát, ra quyết định
giải phóng mặt bằng, nắm quyền sử dụng đất, lập và thực hiện các quy hoạch
du lịch.
CĐDC đặc biệt là các cộng đồng nghèo sống tại những vùng có điều kiện
tự nhiên, kết cấu hạ tầng khó khăn, trình độ kinh tế - văn hóa hạn chế, thì nhận
thức về du lịch của họ cũng thường hạn chế, chất lượng cuộc sống thấp, thiếu
cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn và chun mơn nghiệp vụ để có thể tham gia vào
các hoạt động có hiệu quả. Tại Việt Nam, CĐDC địa phương tham gia hoạt
động du lịch thường tạo ra các sản phẩm du lịch có chất lượng chưa cao, đơn
điệu về chủng loại, khả năng đáp ứng nhu cầu du khách còn hạn chế, hiệu quả
kinh doanh khá thấp.
Chất lượng cuộc sống thấp, đặc biệt ở những nơi các dân tộc thiểu số sinh
sống và làm du lịch, nền văn hóa của họ dễ bị xâm hại, làm tổn thương. Việc
tham gia hoạt động du lịch và tác động từ khách du lịch nếu không được quy
hoạch hợp lý, đúng đắn, khoa học sẽ dễ gây các tác động tiêu cực đến tài nguyên,
môi trường, KT - XH cũng như chất lượng cuộc sống của cộng đồng và cho
chính hoạt động du lịch.
1.2.1.3. Thị trường khách trong nước và quốc tế

Thị trường khách trong nước được gọi là khách du lịch nội địa, là những
người đi ra khỏi mơi trường sống thường xun của mình để đến một nơi khác
ở trong nước với thời gian liên tục ít hơn 12 tháng và mục đích chính của chuyến
đi để thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngồi việc
tiến hành các hoạt động nhằm đem lại thu nhập và kiếm sống ở nơi đến. Họ đi
du lịch với mục đích tìm kiếm sự đa dạng trong các lại điểm đến, phạm vi sản
phẩm dịch vụ để nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời, du lịch trong nước
được thực hành nhiều hơn trong một ít vận động (ở trong cùng một vị trí) hơn


là một cách du mục, sau này là phù hợp hơn cho các điểm đến xa hơn. Họ thăm
thường xuyên hơn và có nhiều thời gian lưu trú lặp lại, đặc biệt là với gia đình
và đặc biệt là ở các vùng nông thôn của xứ của nhiều cư dân đô thị. Phương
tiện giao thông dưới đất chủ yếu được sử dụng, rào cản đại diện bởi chi phí
chuyến đi được giảm xuống, du khách trong nước tìm kiếm về giá và chất lượng,
hoặc thường giá thấp nhất có thể, trong tất cả các phân đoạn của chuỗi giá trị
du lịch: ăn nghỉ, dịch vụ ăn uống, hoạt động du lịch, mua sắm… Do họ có thể
tìm kiếm thay thế phịng ở loại khác thay vì khách sạn bởi vì họ sẽ trở lại nhiều
lần nên họ chuẩn bị đợt nghỉ tiếp theo bằng cách thơng báo mình về các dịch
vụ ăn nghỉ tại địa phương.
Khách du lịch quốc tế là những người thăm viếng một hoặc nhiều quốc
gia ngoài quốc gia cư trú thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất là 24
giờ. Bên cạnh đó, đối với những du khách chỉ du lịch trong ngày đối tượng đó
được gọi là khách tham quan. Họ là những người trên đường đi thăm một hoặc
một số nước, khác với nước mà họ thường cư trú thường xuyên. Mục đích của
chuyến đi là thăm quan thăm viếng hoặc nghỉ ngơi không quá 3 tháng, nếu thời
hạn quá 3 tháng phải được phép gia hạn. Không được làm bất cứ việc gì để
được trả thù lao tại nước đến do ý muốn của khách hay do yêu cầu của nước sở
tại. Sau khi kết thúc đợt tham quan (hay lưu trú) phải rời khỏi nước đến tham
quan để về nước nơi cư trú của mình hoặc đi đến một nước khác.

Khách du lịch là yếu tố đóng vai trị cầu du lịch. Đặc điểm của khách hàng
DLCĐ thường là những tập khách hướng ngoại như các nhà nghiên cứu, sinh
viên, học sinh, những người thích khám phá và tìm hiểu văn hóa. Họ là những
khách du lịch có trình độ nhận thức cao, yêu thiên nhiên và yêu các giá trị văn
hóa bản địa, nhận thức được vai trị của mình trong việc bảo tồn và sẵn sàng trả
tiền cho việc bảo vệ tài nguyên môi trường.
Khách du lịch cộng đồng cũng là người có trách nhiệm với mơi trường và
xóa đói, giảm nghèo ở những vùng nghèo và những quốc gia nghèo. Họ sẽ bỏ
qua sự xa hoa, thuận tiện và đắt tiền của du lịch phổ thông để được thưởng thức
phong cảnh tự nhiên hoang sơ và văn hóa bản địa. Du khách sử dụng sản phẩm


DLCĐ thường cần cung cấp thông tin hơn là giải trí, được giáo dục hơn là tiêu
khiển.
1.2.1.4. Cơ chế chính sách hợp lý
Chính sách là một hệ thống nguyên tắc có chủ ý hướng dẫn các quyết định
và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên bố về ý định, và
được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức.
Cơ chế chính sách du lịch hợp lý chính là biểu hiện của sự tham gia có
hiệu quả của Chính phủ và nhà nước trong phát triển du lịch cộng đồng. Chính
sách phát triển du lịch được quy định tại Điều 5 Luật Du lịch 2017 có hiệu lực
từ ngày 01/01/2018. Theo đó nhà nước có chính sách huy động mọi nguồn lực
cho phát triển du lịch để bảo đảm du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước; Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch được hưởng mức ưu đãi, hỗ trợ
đầu tư cao nhất khi Nhà nước ban hành, áp dụng các chính sách về ưu đãi và
hỗ trợ đầu tư; Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí, có chính sách khuyến khích, hỗ
trợ cho các hoạt động du lịch; Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thuận lợi
về đi lại, cư trú, thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, hải quan, hoàn thuế giá trị gia
tăng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp khác cho khách du lịch.
Muốn phát triển du lịch cộng đồng trước tiên phải có sự quan tâm của các

ngành, các cấp từ trung ương tới địa phương, phải được thể chế hóa, cụ thể hóa
thành các văn bản quy phạm pháp luật và phải được hồn thiện theo tình hình
thực tế. Cần phải có các chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp, trong đó
xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, đóng góp cho sự tăng trưởng
kinh tế xã hội và góp phần xóa đói giảm nghèo đảm bảo an sinh xã hội.
Cơ chế chính sách hợp lý là hệ thống chính sách được ban hành nhằm mục
tiêu phát triển du lịch, khai thác một cách hiệu quả các tài nguyên du lịch, đảm
bảo hoạt động du lịch diễn ra một cách ổn định, tạo điều kiện và hỗ trợ cho các
bên tham gia du lịch, tạo môi trường du lịch tốt đẹp và an toàn cho khách du
lịch, bảo vệ môi trường và hướng đến du lịch bền vững.


Cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển DLCĐ cũng khơng nằm ngồi cơ chế
chính sách cho việc phát triển du lịch nói chung. Tuy nhiên, chính sách DLCĐ
nhấn mạnh hơn đến việc kết hợp các mục tiêu phát triển KT - XH, xóa đói giảm
nghèo, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
1.2.1.5. Sự hỗ trợ của chính quyền và các tổ chức, doanh nghiệp
* Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương là những người do CĐĐP tín nhiệm, bầu ra và
đại diện cho cộng đồng. Là lãnh đaho có vai trị quản lý, tăng cường sức mạnh
đoàn kết của cộng đồng, phát huy thế mạnh của cộng đồng trong các hoạt động
KT -XH. Chính quyền địa phương quản lý cộng đồng theo chủ trường, đường
lối, pháp luật của Nhà nước và Chính phủ, cũng như theo các quy hoạch phát
triển KT - XH nói chung và du lịch nói riêng. Nếu chính quyền địa phương là
những người lãnh đạo có năng lực và phẩm chất tốt, trong sạch, họ sẽ góp vai
trị quan trọng trong việc thúc đẩy DLCĐ đạt được hiệu quả cao về nhiều mặt.
Tuy nhiên, nếu họ là những người năng lực kém, nhận thức về du lịch thấp,
phẩm chất không tốt thì sẽ là rào cản lớn, gây nguy hại đến sự thành công của
của các dự án phát triển DLCĐ.

Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương được thể hiện qua các hoạt động:
+ Quản lý, tổ chức và giám sát việc lập, ra quyết định thực hiện vào quá
trình quy hoạch du lịch.
+ Tham gia xây dựng, thực thi các quy định, quy phạm về bảo vệ, tôn tạo,
khai thác TNDL và các hoạt động kinh doanh du lịch.
+ Theo dõi, giám sát, ủng hộ hoặc phản đối các kế hoạch nắm quyền sử
dụng đất; các kế hoạch bảo vệ, khai thác TNDL; các hoạt động kinh doanh du
lịch của cộng đồng; các hoạt động của du khách; các nguồn thu, chi từ du lịch
theo pháp luật và các quy định.
* Các tổ chức chính phủ và phi chính phủ
Các tổ chức chính phủ và phi chính phủ là những cơ quan, tổ chức hỗ trợ
CĐĐP trong việc thực hiện dự án phát triển du lịch. Họ không làm du lịch thay


cho cộng đồng mà đóng vai trị là người chỉ dẫn, tạo xung lực giúp cộng đồng
thực hiện quy hoạch phát triển du lịch.
Sự hỗ trợ của các tổ chức cho phát triển DLCĐ gồm:
+ Soạn thảo các quy định, văn bản, pháp lệnh,...
+ Điều tra, nghiên cứu, đánh giá, lập và thực hiện các quy hoạch phát triển
du lịch; điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch phát triển du lịch.
+ Hỗ trợ về vốn, tài chính, trang thiết bị, chuyên gia trong việc lập các quy
hoạch đào tạo nguồn nhân lực, giáo dục du lịch, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơng
trình cơng cộng, xúc tiến du lịch, bảo vệ TNDL, xây dựng các mơ hình DLCĐ.
* Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp du lịch gồm: các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, kinh
doanh lưu trú, ăn uống, kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí, kinh doanh hàng
hóa, kinh doanh vận chuyển,...
Các doanh nghiệp đóng vai trị cầu nối, kết nối khách du lịch và cộng đồng,
là người môi giới trung gian để bán sản phẩm du lịch cho cộng đồng, đồng thời
đầu tư tạo ra một số sản phẩm du lịch, đảm bảo sự đa dạng và chất lượng các

sản phẩm du lịch cho du khách.
Các doanh nghiệp cịn sử dụng lao động địa phương trong các cơng việc
lao động nghiệp vụ: dọn vệ sinh, bảo vệ, dọn phòng, nấu ăn, chạy bàn, bán hàng,
vận hành phương tiện giao thơng và các thiết bị kỹ thuật góp phần vào việc tạo
ra việc làm và thu nhập cho CĐĐP. Bên cạnh đó, họ cịn đóng góp vào sự phát
triển kinh tế của CĐĐP thông qua việc mua nông phẩm hàng hóa của địa
phương để bán cho du khách, đóng thuế, phí mơi trường, lệ phí tham quan,...
1.2.2. Đặc điểm du lịch cộng đồng
DLCĐ vẫn là một loại hình của du lịch nói chung, đều mang những đặc
điểm cơ bản của một loại hình du lịch về tài nguyên, chủ thể tham gia, mục tiêu
phát triển. Tuy nhiên, DLCĐ còn mang những đặc điểm riêng, tạo cho nó trở
thành một loại hình du lịch độc đáo, riêng biệt, nhiều tiềm năng phát triển.
Về mặt chủ thể, DLCĐ là phương thức phát triển mà CĐĐP là chủ thể của
mọi hoạt động quản lý, khai thác và bảo tồn tài nguyên môi trường du lịch;


tham gia vào các khâu trong quá trình phát triển như: lập và thực hiện quy hoạch
du lịch, quản lý, tổ chức, điều hành, giám sát, ra quyết định phát triển du lịch,
tham gia hoạt động kinh doanh du lịch,... CĐĐP giữ vai trị chủ đạo, duy trì các
hoạt động kinh doanh du lịch và các hoạt động KT - XH có liên quan đến du
lịch và du khách. Cộng đồng dân cư địa phương phải là người sinh sống, làm
ăn trong hoặc liền kề các điểm TNDL, phải có quyền lợi và trách nhiệm tham
gia khai thác cũng như bảo tồn tài nguyên, các nguồn lực phát triển du lịch bền
vững nhằm hạn chế, giảm các tác động tiêu cực, nâng cao số lượng và chất
lượng TNDL từ các hoạt động kinh doanh du lịch.
Bên cạnh mục tiêu kinh tế như các loại hình du lịch khác, sự phát triển
DLCĐ còn gắn liền với phát triển các mục tiêu xã hội, con người. Phát triển
DLCĐ tức là công nhận quyền sở hữu hợp pháp trong việc bảo tồn, khai thác
hợp pháp và bền vững các loại tài nguyên và mơi trường vì sự phát triển của
cộng đồng, thực hiện mục tiêu phát triển du lịch gắn liền với thực hiện các mục

tiêu phát triển cộng đồng. Phát triển DLCĐ cịn được coi là một chiến lược, giải
pháp mang tính nhân văn sâu sắc, góp phần phát triển KT - XH bền vững, nâng
cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, tạo ra sự công bằng xã hội.
Phát triển DLCĐ vừa góp phần đa dạng hóa, nâng cao chất lượng tài
nguyên môi trường du lịch, các sản phẩm du lịch, đồng thời góp phần duy trì
và phát triển các ngành nghề kinh tế truyền thống của địa phương. Nguồn lợi
thu được trong phát triển DLCĐ cần đảm bảo sự công bằng trong phân chia.
Phần lớn nguồn thu từ hoạt động du lịch được giữ lại cho cộng đồng, do đó
DLCĐ cịn được xem là loại hình du lịch “do dân, vì dân”.
Về địa điểm tổ chức và phát triển DLCĐ, đó chính là nơi cư trú hoặc gần
nơi cư trú của CĐĐP. Đây là những khu vực có nguồn TNDL tự nhiên hoặc
nhân văn phong phú, hấp dẫn, có sự nhạy cảm về đa dạng sinh học; chính trị,
văn hóa xã hội đã, đang và có thể bị tác động bởi con người.
Như vậy, DLCĐ thực chất là một loại hình du lịch bền vững, có trách
nhiệm với tài ngun mơi trường và sự phát triển cộng đồng, CĐĐP chính là
chủ thể của các hoạt động khai tác, bảo tồn tài nguyên cho sự phát triển du lịch.


Nguồn lợi thu được từ hoạt động du lịch và mục đích của các hoạt động đó
nhằm hướng đến mục tiêu phát triển cộng đồng.
Tình hình phát triển du lịch cộng đồng tại Việt Nam và trên thế giới
1.2.3. Một số mơ hình và kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng tại
Việt Nam
1.2.3.1. Mơ hình phát triển du lịch cộng đồng tại Bản Lác, Mai Châu, Hịa
Bình
a. Giới thiệu chung
Bản Lác nằm cách thị trấn Mai Châu khoảng 3km, cách trung tâm thành
phố Hà Nội khoảng 135km. Bản Lác là bản làng nơi đồng bào dân tộc Thái ở
Mai Châu sinh sống đã hơn 700 năm. Trước đây, cuộc sống của người dân địa
phương phụ thuộc vào việc trồng lúa, làm nương và dệt thổ cẩm. Nhưng gần

đây, vẻ đẹp tiềm ẩn của bản Lác đã được khám phá nên cũng từ đó mọi người
trong bản đều làm về du lịch. Và từ đó bản Lác dần dần trở thành một trong
những khu vực trọng điểm về du lịch Mai Châu. Hơn thế nữa, bản Lác còn là
“điểm sáng” trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Mỗi năm có khoảng 2 triệu lượt du khách đến bản Lác, trong đó phần
nhiều là du khách nước ngồi. Mơ hình du lịch cộng đồng ở Bản Lác không chỉ
ở cảnh núi non hùng vĩ, mà còn ở con người nơi đây, bản sắc văn hóa cùng
những món ăn ngon, đậm đà vị dân tộc. Đến với Bản Lác, bạn không chỉ được
thưởng thức những món ăn ngon như xơi nếp nương, gà đồi mà còn được
thưởng thức những màn biểu diễn văn nghệ của dân tộc H’mông, dân tộc Thái,
trải nghiệm những hình thức giao lưu tập thể, đốt lửa trại…..vơ cùng hào hứng
và thú vị. Để giúp du khách đến Mai Châu được trải nghiệm cuộc sống của
đồng bào dân tộc Thái ở nơi đây, rất nhiều hộ gia đình người Thái ở bản Lác
đã mở dịch vụ homestay cho du khách đến Mai Châu có những trải nghiệm
chân thật về phong tục tập quán và văn hóa của người dân bản địa. Các hộ gia
đình với các mối liên hệ trực tiếp với các công ty du lịch tại Hà Nội có xu hướng
thu hút được nhiều khách hơn so với các hộ khác.


Vé vào cửa để thăm bản Lác được bán tại UBND Huyện, khách muốn vào
bản phải mua vé tại đây. Nguồn thu được từ hoạt động bán vé sẽ do cơ quan
quản lý cấp Huyện thu giữ, sau đó có cơ chế phân chia lợi ích một cách hợp lý
đối với cộng đồng dân cư trong bản. Giá của các nhà nghỉ tại gia tại Bản Lác
dao động từ 50.000VND/người/đêm – 100.000 /người/đêm bao gồm ăn, uống,
tùy thuộc vào số lượng đồn khách. Trong phát triển sản phẩm thủ cơng, Bản
Lác đã tạo điều kiện cho du khách được trực tiếp xem tận mắt mô phỏng các
công đoạn trong nghề thủ cơng một cách miễn phí. Sau đó sẽ thu phí ở việc bán
sản phẩm thủ cơng. Cách làm này rất hay bởi vì việc xem miễn phí sẽ thu hút
sự chú ý nhiều du khách hơn, giống như một kênh quảng bá sản phẩm, từ việc
xem thì du khách có khả năng cao sẽ mua các sản phẩm thủ công. Vậy nên số

lượng sản phẩm thủ công được bán ra ở Bản Lác rất lớn, trở thành một trong
những nguồn thu chính của người dân trong bản.
Cuối năm các hộ gia đình này phải chuyển 10% doanh thu của họ cho
các cơ quan quản lý Huyện. Số tiền này sẽ dùng vào các mục đích khác do
chính quyền quyết định. 90% thu nhập được tạo ra có xu hướng sử dụng cho
mục đích tiêu dùng hoặc nâng cấp nhà.
b. Sự tham gia của cộng đồng
Có sự phối hợp giữa người dân và các doanh nghiệp lữ hành trong hoạt
động du lịch. Người dân chịu trách nhiệm về các hoạt động trong bản như đón
tiếp, cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Còn việc vận chuyển khách đến Bản Lác
do cơng ty lữ hành. Có một người được làng cử ra để làm nhiệm vụ kiểm tra số
lượng khách, người này được cộng đồng trả lương.
Trong làng khơng có đơn vị nào đứng ra điều khiển, quản lý hoạt động du
lịch, chủ yếu các hộ tự quản lý hoạt động của mình. Các hộ này cũng tự liên hệ,
hợp tác với các doanh nghiệp du lịch. Khi có các vấn đề xảy ra, các hộ sẽ cùng
nhau tìm ra phương án giải quyết. Tuy là những nguyên tắc không được quy
định cụ thể bằng văn bản, nhưng nếu ai vi phạm nguyên tắc này, sẽ phải chịu
trách nhiệm trước người có quyền lực cao nhất làng.
c. Phát triển và tiếp thị sản phẩm:


Người dân trong bản tự cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho du khách, từ
chỗ nghỉ đến việc ăn uống, hướng dẫn du lịch hay biểu diễn văn nghệ,... và
nhiều dịch vụ bổ sung khác. Ngoài ra, du khách có thể thuê máy ảnh hoặc xe
đạp, xe máy của người dân để sử dụng.
Tuy nhiên, khi lượng khách du lịch sinh thái lựa chọn nghỉ lại bản và muốn
đi trekking thì có phần nào ảnh hưởng và mang đến những tác động đối với văn
hóa và mơi trường bản địa.
Hiện tại, các công ty lữ hành chủ yếu chịu trách nhiệm mọi hoạt động
làm tiếp thị và quảng bá. Tuy nhiên, đôi khi tỉnh cũng giới thiệu và quảng bá

Mai Châu thông qua các phương tiện thông tin và truyền hình địa phương.
d. Lập kế hoạch và hợp tác
Tuy hoạt động du lịch rất phát triển nhưng hiện nay ở Bản Lác chưa có
quỹ bản và chưa xây dựng được ban quản lý riêng biệt, kế hoạch phát triển du
lịch cụ thể cũng chưa có.
Mối quan hệ giữa cộng đồng với các doanh nghiệp có phần liên kết hơn
giữa cộng động và chính quyền các cấp. Người dân có nhu cầu học tập ngoại
ngữ và các kỹ năng khác từ các tổ chức doanh nghiệp nhưng họ chưa biết cách
liên hệ. Vẫn cịn một vài hạn chế trong trình độ nguồn nhân lực tại đây cần có
bên trung gian hỗ trợ giải quyết.
Người dân tại bản đều ý thức được rằng để làm du lịch hiệu quả thì họ
phải bảo vệ các đặc trưng về văn hóa, phong tục tập quán và tín ngưỡng, các
thiết chế cổ truyền như nhà sàn,... Đây là những nguyên liệu để “chế biến”
thành những sản phẩm và dịch vụ du lịch thu hút khách. Vậy nên trong hoạt
động du lịch, người dân bản ln có ý thức giữ gìn văn hóa, cho dù chưa có các
quy hoạch hay chiến lược du lịch nào hướng dẫn. Trong các cuộc họp thôn bản,
bà con thường đề cập về vấn đề vệ sinh môi trường và nước sạch phục vụ du
lịch. Đối với sự phát triển du lịch ở đây, vai trò của người dân là không thể phủ
nhận, người Thái luôn được đánh giá là dân tộc thiểu số có tài làm du lịch. Như
vậy, xây dựng năng lực và đào tạo là rất rất cần thiết. Việc này đòi hỏi sự quan
tâm sát sao hơn nữa của các tổ chức và ban ngành hữu quan.


×