Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ QUANG TRUNG

CĂN CỨ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – 07 – 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ QUANG TRUNG

CĂN CỨ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

ThS. LÊ HÀ HUY PHÁT

TP. HỒ CHÍ MINH – 07 – 2021


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT


NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

1

BLDS

Bộ Luật Dân sự

2

LTM

3

CISG

Luật Thương mại
Công ước Liên hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ HỦY BỎ HỢP
ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 ......................6
1.1

Khái quát chung .......................................................................................6


1.1.1
2015

Các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
....................................................................................................................6

1.1.2

Hủy bỏ hợp đồng ........................................................................................8

1.1.3

Căn cứ hủy bỏ hợp đồng ..........................................................................12

1.2

Các căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015
.................................................................................................................15

1.2.1

Hợp đồng có thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ...........................................15

1.2.2

Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng ..............................................16

1.2.3

Trường hợp khác do luật quy định ...........................................................18


1.2.4

Một số trường hợp hủy bỏ hợp đồng cụ thể .............................................18

1.3

Hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị hủy bỏ ............................................20

1.4.1

Hiệu lực của hợp đồng .............................................................................21

1.4.2

Nghĩa vụ của các bên ...............................................................................22

1.4.3

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm ......................................23

1.4.4

Hậu quả liên quan đến quyền nhân thân ..................................................26

1.4.5

Hủy bỏ hợp đồng trái quy định pháp luật.................................................27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................29

Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ CĂN CỨ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI ....................................................30
2.1
Điều kiện hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận của các bên trong pháp
luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài ................................................................30
2.1.1

Thực trạng pháp luật ................................................................................30

2.1.2

Thực tiễn xét xử .......................................................................................35

2.1.3

So sánh với pháp luật nước ngoài ............................................................37

2.1.4

Kiến nghị ..................................................................................................42

2.2
Điều kiện hủy bỏ hợp đồng do vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài .....................................43


2.2.1

Thực trạng pháp luật ................................................................................43


2.2.2

Thực tiễn xét xử .......................................................................................47

2.2.3

So sánh với pháp luật nước ngoài ............................................................50

2.2.4

Kiến nghị ..................................................................................................54

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................56
KẾT LUẬN ..............................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Căn cứ hủy bỏ hợp
đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Thạc sĩ Lê Hà Huy Phát đã hướng dẫn tận tình, ln động viên, giúp đỡ trong
suốt q trình thực hiện khóa luận này. Chúc thầy luôn nhiều sức khỏe, niềm vui và
đạt được nhiều thành cơng trong sự nghiệp giáo dục.
Bên cạnh đó tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, các cơ quan, khoa Luật Dân Sự đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tác giả nghiên cứu, hồn thành khóa luận.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả quý thầy cô trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt kiến thức trong suốt 4 năm học tập tại
trường. Được học tập dưới ngôi trường này cũng là vinh dự và may mắn của em. Kính

chúc q thầy cơ ln nhiều thành cơng, tận tâm với sự nghiệp và chúc trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phát triển, chất lượng giảng dạy và học
tập không ngừng được nâng cao, đổi mới, phát triển.
Khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu đầu tay của tác giả, do đó,
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân
thành từ q thầy cơ để bài khóa luận được hồn thiện hơn. Tác giả xin chân thành
cảm ơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan nội dung khóa luận tốt nghiệp “Căn cứ hủy bỏ hợp đồng
theo quy định của pháp luật Việt Nam” là kết quả của q trình nghiên cứu, phân tích,
tìm hiểu của bản thân tác giả dưới sự hướng dẫn tận tình của ThS. Lê Hà Huy Phát.
Mọi thông tin tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ và đúng quy định.
Tác giả xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung khóa luận này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 7 năm 2021
Sinh viên
(Đã ký)

Lê Quang Trung


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Từ lâu hợp đồng được biết đến như một giao dịch không thể thiếu của mỗi thành
viên trong xã hội. Trong đó các bên tham gia giao kết hợp đồng để trao đổi, mua bán
là một hoạt động mang tính chất thường xuyên và phổ biến. Ngày nay, nền kinh tế,

xã hội càng văn minh thì vấn đề giao kết hợp đồng càng được coi trọng hơn, nhất là
trong lĩnh vực dân sự.
Hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích hợp pháp mà họ mong muốn khi giao kết.
Thực tế cho thấy lợi ích hợp pháp mong đợi thường khơng đạt được theo ý muốn vì
hợp đồng khơng được thực hiện như dự tính. Trước hồn cảnh này, bên khơng được
thực hiện có thể hủy bỏ hợp đồng, u cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Điều này là
hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ sau khi đã ký kết hợp đồng và hợp đồng đã phát sinh hiệu
lực, các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Tuy nhiên, không phải lúc nào các
bên cũng đạt được mục đích đặt ra khi ký kết hợp đồng, điều này có nghĩa là một
trong các bên khơng thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ quy định trong hợp đồng và gây thiệt hại cho phía bên kia. Vi phạm hợp
đồng, tùy thuộc vào mức độ vi phạm và quy mô của hợp đồng, sẽ ảnh hưởng nhất
định đến các quan hệ kinh doanh, đến sự ổn định và phát triển chung của nền kinh tế.
Trong trường hợp như vậy, pháp luật của tất cả các nước cũng như các văn bản pháp
lý quốc tế quy định những biện pháp xử lý đối với bên vi phạm nhằm mục đích bảo
vệ quyền lợi của bên bị thiệt hại.
Quyền hủy bỏ hợp đồng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau, tập trung nhất là trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại hiện hành. Khi
nghiên cứu về chế định này, một trong các vấn đề quan trọng, làm tiền đề áp dụng là
điều kiện hủy bỏ hợp đồng, hay nói cách khác là các căn cứ hủy bỏ hợp đồng. Tuy
nhiên, hai đạo luật này quy định chưa được thống nhất và rõ ràng về chế tài hủy bỏ
hợp đồng nói chung và căn cứ áp dụng chế tài này nói riêng. Thực trạng đó của pháp
luật là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc áp dụng chế tài này trong
thực tiễn giải quyết tranh chấp gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Việc tìm hiểu một cách có hệ thống các quy định của Pháp luật Việt Nam hiện
hành về điều kiện áp dụng quyền hủy bỏ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự và thực tiễn
vận dụng luật là vấn đề có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. Trong khoa học pháp
lý Việt Nam thời gian qua, đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu về chế định hủy
bỏ hợp đồng, nhưng vì tầm quan trọng của vấn đề và trong bối cảnh Bộ luật Dân sự

1


năm 2015 mới được ban hành, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định về hợp đồng nói
chung và căn cứ áp dụng quyền hủy bỏ hợp đồng dân sự nói riêng là rất cần thiết.
Nhận thức rõ điều đó, tác giả chọn đề tài “Căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo quy
định của pháp luật Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp, chun nghành luật dân
sự của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Trong các đầu sách

Hiện nay, có một số đầu sách được xuất bản viết về chế định hợp đồng trong
pháp luật dân sự Việt Nam và có liên quan đế đề tài, cụ thể: Cuốn sách “Luật hợp
đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 2” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật năm 2017; Giáo trình “Pháp luật về hợp đồng
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (tái bản lần 1, có sửa đổi bổ sung), Nhà xuất
bản Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam năm 2019; Cuốn sách Bình luận khoa học Bộ
luật Dân sự 2005 tập II của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư Pháp,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2005 …
2.2 Trong các khóa luận, luận văn
Bên cạnh đó cũng có một số cơng trình nghiên cứu được cơng bố, và trong
những chừng mực nhất định có liên quan đến đề tài như: Luận án tiến sĩ “Chế độ hợp
đồng trong nền kinh tế thị trường ở giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Hữu Nghị,
Hà Nội (1996); Luận án tiến sĩ: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật
Việt Nam”, tác giả Lê Minh Hùng (2010); Luận văn thạc sĩ luật “Hủy bỏ hợp đồng
theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Ngọc Nhiên Hà (2017),
Học viên khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; Luận văn
thạc sĩ luật “Chế tài hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả

Hoàng Cao Minh (2018), Viện đại học Mở Hà Nội; Luật văn thạc sĩ luật “Hủy bỏ hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Dương Văn Đức (2017), Trường đại học
Kinh tế - Luật; Luận văn thạc sĩ luật “Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Minh Loan (2014), Trường đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh; Khóa luận tốt nghiệp “Hủy bỏ hợp đồng và Đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005” của tác
giả Võ Thị Thanh (2012), Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn
tốt nghiệp “Chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Hoa (2015),
Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,…

2


2.3 Các tạp chí, bài báo
Ngồi ra cịn có nhiều bài báo đăng trên các tạp chí khoa học như: Bài viết
“Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015” của tác giả Võ
Sỹ Mạnh đăng trên Tạp chí Kinh tế Đối ngoại số 86/2017; Bài viết “Ảnh hưởng của
khoa học pháp lý thế giới đối với việc xây dựng khái niệm vi phạm hợp đồng trong
luật tư Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Thanh Hằng đăng trên Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Luật học Tập 32 Số 4 (2016); bài viết “Bình luận về các biện pháp xử lý
vi phạm hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015” của tác giả Nguyễn Thùy Trang
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lí số 03 (106)/2017; Bài viết “So sánh các quy
định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại Việt Nam 2005
và Công ước Viên năm 1980” của tác giả Phan Thị Thanh Thủy đăng trên Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3/2014…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều có đề cập đến các chế tài
được điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng Việt Nam nói chung và quyền hủy bỏ hợp
đồng nói riêng, như một phần nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, phần lớn các cơng
trình tập trung nghiên cứu quyền hủy bỏ hợp đồng dưới góc độ trách nhiệm vật chất
do vi phạm hợp đồng, nhất là quy định này trong pháp luật thương mại. Các tác giả

chủ yếu so sánh trường hợp hợp đồng bị hủy bỏ với các trường hợp chấm dứt hợp
đồng khác còn chế định hủy bỏ hợp đồng trong pháp luật dân sự, cụ thể là các điều
kiện hủy bỏ hợp đồng chưa được nghiên cứu một cách độc lập. Vì vậy, việc nghiên
cứu căn cứ để áp dụng quyền hủy bỏ hợp đồng và các vấn đề xoay quanh theo pháp
luật Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện
nay, giúp tạo tiền đề áp dụng thống nhất chế định này trong thực tế.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng các quy định hiện hành
xoay quanh về căn cứ hủy bỏ hợp đồng của pháp luật Việt Nam, tập trung là pháp
luật dân sự, khóa luận cịn tìm hiểu chế định này trong pháp luật nước ngồi, các văn
bản pháp luật quốc tế, hệ thống pháp luật Thơng luật (Common Law) (gọi chung là
pháp luật nước ngồi). Từ những nghiên cứu trên, tác giả đưa ra quan điểm của mình
và một số kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ hủy bỏ
hợp đồng trong pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật Dân sự năm 2015 nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề lý luận về chế định chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng
theo pháp luật Việt Nam như: điều kiện áp dụng, hậu quả pháp lí.
3


Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng các quy định của pháp
luật về quyền hủy bỏ hợp đồng trên cơ sở nghiên cứu các căn cứ để áp dụng quyền
này. Tìm hiểu các quy định về căn cứ hủy bỏ hợp đồng trong pháp luật nước ngoài.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về căn cứ hủy bỏ hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật Dân sự năm 2015 nói riêng.
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015
về chế định huỷ bỏ hợp đồng, tập trung vào quy định về căn cứ áp dụng quyền hủy
bỏ hợp đồng. Cụ thể làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận như: Khái niệm, bản
chất, sự cần thiết của việc áp dụng quyền này và các căn cứ để áp dụng khi có xảy ra
vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng dân sự. Việc khái quát về các trường hợp
chấm dứt hợp đồng, hậu quả pháp lí khi hợp đồng bị hủy bỏ ở một mức độ nhất định
chỉ nhằm làm rõ hơn quy định về căn cứ hủy bỏ hợp đồng.
Phân tích các quy định của pháp luật về điều kiện áp dụng của quyền hủy bỏ
hợp đồng. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn áp dụng quyền này vào việc giải quyết
một số vụ việc tranh chấp cụ thể, cũng như tìm hiểu quy định này trong pháp luật
nước ngoài và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về quy định của pháp luật.
4.2 Phạm vi
Vì đối tượng nghiên cứu như trên nên phạm vi nghiên cứu của khóa luận này
tập trung vào quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bên cạnh đó tác giả có liên hệ
đến luật chuyên nghành như Luật Thương mại năm 2005, trong pháp luật nước ngoài
(Pháp, Anh, Mỹ,…), văn bản pháp luật quốc tế như Công ước của Liên hợp quốc năm
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,… và hệ thống pháp luật Thơng luật
(Common Law). Ngồi ra tác giả cịn phân tích về thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng qua một số vụ việc cụ thể có liên quan để đưa ra kiến nghị đối với một số
điều kiện hủy bỏ hợp đồng.
5.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu

Khóa luận tốt nghiệp này đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích các quy định pháp luật, từ đó đưa ra

những đánh giá bằng việc tổng hợp những vấn đề đã phân tích nhằm làm sáng tỏ vấn
đề lý luận cơ bản về hợp đồng, các trường hợp chấm dứt hợp đồng, và quyền hủy bỏ
hợp đồng cụ thể là căn cứ áp dụng và hậu quả pháp lý.

4


- Phương pháp so sánh: so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với nhau và với
pháp luật trên thế giới, tập vào các quy định về căn cứ hủy bỏ hợp đồng, hậu quả pháp
lý khi hợp đồng bị hủy bỏ trong pháp luật dân sự Việt Nam với quy định trong pháp
luật nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu vụ việc: đưa ra ví dụ thực tế để phân tích việc áp dụng luật
cũng như bình luận về các bản án, nhằm đánh giá việc áp dụng pháp luật vào thực
tiễn, bổ sung cơ sở cho các quan điểm cũng như kiến nghị của tác giả.
- Phương pháp phân tích đánh giá: phân tích nội dung của quy định pháp luật để đánh
giá và tìm ra những hạn chế của nó chưa phù hợp, nhằm đưa ra một số kiến nghị cụ
thể.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
khóa luận có kết cấu gồm hai chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2015; và
- Chương 2: Quy định về căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật nước ngoài.

5


Chương 1


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ HỦY BỎ

HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
1.1 Khái quát chung
1.1.1 Các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2015
Ngày nay, khi các mối quan hệ về tài sản, các mối quan hệ về nhân thân càng
ngày càng phát triển trong xã hội dân sự1 những nhu cầu về trao đổi tài sản, hàng hóa
cũng ngày càng phát triển theo. Khi ý chí của các bên trong việc trao đổi đó gặp nhau
ở một số điểm chung nhất định, họ muốn tiến tới thực hiện ý chí của nhau ở những
điểm trùng lặp đó.
Nhưng việc đơn thuần để các bên tiến hành những điểm chung đó là chưa đủ,
cần có một cơ chế để giúp việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau, hay
nói cách khác là ràng buộc lẫn nhau khi họ thực hiện ý chí của mình, và từ đó hợp
đồng ra đời.
Thuật ngữ “hợp đồng” đã được ghi nhận trong Bộ luận Dân sự năm 2015 (BLDS
năm 2015), cụ thể theo Điều 385 thì “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng hiện nay được
hiểu theo rất nhiều nghĩa, nếu theo nghĩa khách quan là một chế định pháp lý quan
trọng của Bộ luật Dân sự, còn theo nghĩa chủ quan là một giao dịch dân sự.
Vậy có thể tham khảo một định nghĩa chung nhất về mặt lý luận: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa
vụ của các bên trong việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu, sử dụng
tài sản và các lợi ích khác, làm một việc hay khơng làm một việc để thõa mãn lợi ích
nhất định của các bên hoặc của người thứ ba được chỉ định trong hợp đồng.2
Nhưng sự ràng buộc giữa các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng không tồn tại
mãi. TS. Hồ Thị Vân Anh viết: “Hợp đồng dân sự cũng trải qua các giai đoạn phát
sinh, phát triển và chấm dứt. Tuy nhiên, khác với các sự vật, hiện tượng khác, hợp
đồng dân sự bao giờ cũng được phát sinh từ những hành vi có ý thức của các chủ thể.
Vì vậy, các sự kiện làm chấm dứt một hợp đồng dân sự không phải là các biến sinh


Trần Hữu Quang (2012), Tính đặc thù của xã hội dân sự và các nhân tố ảnh hưởng, quyết định đến hình thái
riêng biệt của xã hội dân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam, tr. 2-6.
2
Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và Bồi Thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 112.
1

6


do sự vận động của tự nhiên mà đó là những sự kiện được xuất hiện từ hành vi có
thức của các chủ thể hoặc do pháp luật quy định”.3
Chấm dứt hợp đồng là kết thúc việc thực hiện các thoả thuận của các bên khi
tham gia vào quan hệ hợp đồng, làm cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia hợp đồng ngừng hẳn lại, bên có nghĩa vụ khơng có trách nhiệm tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ và bên có quyền khơng thể buộc bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ được nữa. Vậy trong trường hợp nào thì hợp đồng sẽ chấm dứt?
BLDS năm 2015 quy định theo hướng liệt kê các trường hợp chấm dứt hợp
đồng, tại Điều 422 quy định gồm:
Thứ nhất, hợp đồng đã được hoàn thành. Đây được coi là trường hợp chấm dứt
hợp đồng lý tưởng nhất, khi mà các bên đều đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng.
Nếu các bên trong quan hệ hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa
vụ và mỗi bên đều đã đáp ứng được quyền dân sự, đạt được những mục đích khi tham
gia vào giao dịch dân sự của mình thì hợp đồng được coi là hồn thành. Ở một góc
độ nhìn nhận khác, hợp đồng được coi là đã hoàn thành khi các bên trong hợp đồng
đã thực hiện đúng và đầy đủ những nghĩa vụ theo hợp đồng.4
Thứ hai, hợp đồng chấm dứt heo thỏa thuận của các bên. Bản chất của hợp đồng
dân sự là sự thống nhất ý chí và thỏa thuận của các bên từ khâu xác lập, thực hiện cho

đến chấm dứt hợp đồng. Do đó, pháp luật dân sự luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các
bên trong quan hệ hợp đồng nên pháp luật cho phép các bên có quyền thỏa thuận
chấm dứt hợp đồng vào bất cứ lúc nào, nhưng không được gây thiệt hại đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Trường hợp pháp luật quy định các bên không được thỏa thuận chấm dứt hợp đồng
thì các bên khơng được phép thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.
Thứ ba, hợp đồng chấm dứt khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao
kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực
hiện. Hợp đồng dân sự được xác lập mà các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh theo
hợp đồng gắn liền với nhân thân thì khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân
hoặc chủ thể khác chấm dứt sẽ được coi là căn cứ chấm dứt hợp đồng.5

Hồ Thị Vân Anh, “Một số bất cập trong quy định về chấm dứt hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam”,
/>eiFLaB-jCe-KOJSautAai2fyf0OHzRRa4, truy cập lần cuối ngày 27/4/2021.
4
Hồ Thị Vân Anh, tlđd (3).
5
Nguyễn Đức Anh, “Những quy định về Chấm dứt hợp đồng dân sự theo Bộ luật dân sự”,
/>truy
cập lần cuối ngày 05/5/2021.
3

7


Thứ tư, hợp đồng chấm dứt do bị hủy bỏ hoặc bị đơn phương chấm dứt thực
hiện. Đây là kết quả mà các bên đều không mong muốn khi giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc chung, khi hợp đồng dân sự được giao kết thì các bên phải thực hiện các
nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng. Tuy nhiên, trong hợp đồng các bên có thể thỏa
thuận hoặc pháp luật cũng có thể quy định, theo đó xuất hiện các căn cứ nhất định thì

hợp đồng dân sự có thể bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện.
Thứ năm, hợp đồng chấm dứt do không thể thực hiện được vì đối tượng của hợp
đồng khơng cịn. Mọi hợp đồng đều có đối tượng cụ thể, đây là điều khoản cơ bản
của hợp đồng (Điều 398 BLDS năm 2015). Do vậy, khi đối tượng của hợp đồng
khơng cịn thì các bên khơng thể tác động vào nó để thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Hợp đồng chấm dứt nhưng không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia quan hệ hợp đồng. Tùy trường hợp, các bên có thể chịu trách nhiệm về
việc đối tượng hợp đồng khơng cịn.
Thứ sáu, hợp đồng chấm dứt do thay đổi hồn cảnh cơ bản mà các bên khơng
thể thỏa thuận sửa đổi được. Có thể hiểu hồn cảnh thay đổi cơ bản là trường hợp
hoàn cảnh khi thực hiện hợp đồng có sự thay đổi xuất phát từ những nguyên nhân
khách quan mà các bên không thể biết trước khi giao kết hợp đồng. Mặc dù bên bị
ảnh hưởng đã thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết, trong khả năng cho phép để
giảm thiểu thiệt hại nhưng vẫn không được. Và nếu thực hiện sẽ gây thiệt hại nghiêm
trọng cho một bên (Khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015).
Cuối cùng là hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp khác do luật quy định.
Đây là trường hợp nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật Việt Nam. Bộ
luật Dân sự 2015 với tư cách là bộ luật chung sẽ đảm bảo sự điều chỉnh của các văn
bản luật chuyên ngành về lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Trong lĩnh vực lao động, Bộ luật
lao động 2012 đã có quy định về trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động mà khi áp
dụng chuyên ngành lao động sẽ phải tuân thủ.
Ta thấy khi hợp đồng bị chấm dứt, trên thực tế sẽ giúp giải phóng các bên khỏi
quan hệ hợp đồng. Các sự kiện pháp lý làm chấm dứt hợp đồng có thể căn cứ vào
thỏa thuận của hai bên hoặc theo quy định của pháp luật. Trong đó, trường hợp ln
có yếu tố vi phạm là hủy bỏ hợp đồng. Vậy theo khoản 6 Điều 422 BLDS năm 2015,
vấn đề hủy bỏ hợp đồng ta sẽ tiếp cận theo hướng là một trong những trường hợp làm
chấm dứt hợp đồng lao động, chế định này sẽ được trình bày cụ thể trong phần sau.
1.1.2 Hủy bỏ hợp đồng
Theo nguyên tắc, khi hợp đồng được giao kết khơng vi phạm những điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng do pháp luật quy định thì phát sinh cơ sở ràng buộc về mặt

8


pháp lý đối với các bên từ thời điểm giao kết, các bên phải tuân thủ hợp đồng mà
không được tự ý sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng. Đồng thời, các bên phải thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng một cách thiện chí, trung thực đúng nội dung cam kết, thoả thuận.
Tuy nhiên q trình thực hiện hợp đồng ln tiềm ẩn những nguyên nhân chủ quan
và khách quan khiến cho các nghĩa vụ hợp đồng không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ như cam kết. Khi đó, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ này, pháp luật trao cho họ quyền được tuyên
bố hủy bỏ hợp đồng6. Vậy khái niệm về thuật ngữ “hủy bỏ hợp đồng” được định
nghĩa như thế nào?
Tìm hiểu chế định này trong pháp luật Việt Nam:
Về mặt lý luận, theo Từ điển Giải thích từ ngữ Luật học thì hợp đồng bị hủy bỏ
là “hợp đồng đã được giao kết nhưng bị coi là khơng cịn hiệu lực thực hiện nữa”7.
Trong khoa học pháp lý, hủy bỏ hợp đồng được hiểu là “triệt tiêu quá khứ cũng như
tương lai của hợp đồng đã được giao kết hợp pháp và lý do triệt tiêu hợp đồng ở đây
không tồn tại vào thời điểm giao kết mà vào thời điểm thực hiện hợp đồng”8. Ở đây
ta thấy thuật ngữ “hợp đồng bị hủy bỏ” và “hủy bỏ hợp đồng” là không đồng nhất với
nhau. Ta thấy hai thuật ngữ này được sử dụng ở hai giai đoạn khác nhau trong chế
định hủy bỏ hợp đồng trong Điều 423 và Điều 427 BLDS năm 2015. Theo đó, hủy
bỏ hợp đồng là hành vi làm chấm dứt hợp đồng và dẫn đến hậu quả là hợp đồng bị
hủy bỏ, hợp đồng bị hủy bỏ cũng chính là kết quả và là giai đoạn cuối cùng của quá
trình hủy bỏ hợp đồng.9
Từ “hủy bỏ” được Viện ngôn ngữ học định nghĩa là “bỏ đi, coi là hồn tồn
khơng có hiệu lực hay giá trị nữa”10. Hiện nay, BLDS năm 2015 khơng có định nghĩa
thế nào là “hủy bỏ”. Ta thấy từ “hủy bỏ” được sử dụng trong BLDS năm 2015 ở rất
nhiều trường hợp như: hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp một bên vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ hợp đồng (điểm b khoản 1 Điều 423); hủy bỏ hợp đồng trong trường
hợp một bên giao vật khơng đồng bộ làm mục đích sử dụng của bên kia không đạt

được (điểm b khoản 1 Điều 438); bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên bán
giao hàng ít hơn số lượng đã thỏa thuận (điểm c khoản 2 Điều 437); bên thuê được
quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên cho thuê chậm giao tài sản thuê (khoản 2 Điều

Võ Sỹ Mạnh (2017), “Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo BLDS năm 2015”, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại,
số 86/2017, tr. 2.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích từ ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr. 68.
8
Đỗ Văn Đại (2013), Luật Hợp đồng: bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb. Chính trị Quốc gia,tr. 556.
9
Võ Thị Thanh (2012), Hủy bỏ hợp đồng và Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2005, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 7.
10
Viện Ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 470.
6

9


476);… Do đó từ “hủy bỏ” trong chế định hủy bỏ hợp đồng được đề cập ở đây là hủy
bỏ trong trường hợp hợp đồng đã có hiệu lực nhưng có vi phạm hợp đồng.
Về mặt pháp lý, các văn bản pháp luật hiện hành nói chung và BLDS năm 2015
nói riêng, khơng có định nghĩa thế nào là hủy bỏ hợp đồng.
Khoản 1 Điều 425 BLDS năm 2005 quy định một bên có quyền tuyên bố hủy
bỏ hợp đồng và khơng phải bồi thường thiệt hại khi có một trong các căn cứ như vi
phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định. BLDS năm 2015 tại điểm b Khoản 1 Điều 423 bổ sung thêm căn cứ “bên kia vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng”.
Nghiên cứu Luật Thương mại năm 2005 (LTM năm 2005), tại khoản 6 Điều

292 và Điều 312, ta thấy Luật Thương mại tiếp cận bằng cách xem hủy bỏ hợp đồng
là một chế tài nhằm hạn chế, chấm dứt thiệt hại khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng
hoặc theo thỏa thuận. Bên cạnh đó luật này cịn phân chia thành và định nghĩa “hủy
bỏ toàn bộ hợp đồng” và “hủy bỏ một phần hợp đồng”. Theo đó, “hủy bỏ tồn bộ hợp
đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn
bộ hợp đồng” và “Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa
vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực”.
Đối với BLDS năm 2015 tiếp cận theo hướng xem là một trong những hình thức
chấm dứt hợp đồng như đã trình bày ở phần trước. Bên cạnh đó, với quy định mang
tính liệt kê của BLDS hiện hành, hủy bỏ hợp đồng là biện pháp xử lý việc một bên
không thực hiện đúng nghĩa vụ là điều kiện hủy bỏ hợp đồng do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định, làm cho hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao
kết11.
Nhìn chung, về cơ bản thì cách hiểu về thuật ngữ “hủy bỏ hợp đồng” trong pháp
luật Việt Nam hiện hành là tương đối đồng nhất với nhau, là sự kiện pháp lý làm cho
các bên chấm dứt thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trong hợp đồng, hợp
đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi
thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp.12
Tìm hiểu pháp luật thực định của các quốc gia trên thế giới:
Điều 1183 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 quy định “Điều kiện hủy bỏ là điều
kiện mà khi xảy ra thì nghĩa vụ bị hủy bỏ và các bên phải khơi phục lại tình trạng ban
Ngơ Thị Minh Loan (2014), Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ luật, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10.
12
Lê Ngọc Nhiên Hà (2017), Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc
sĩ luật, Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, tr. 8,9.
11

10



đầu như chưa từng có cam kết. Điều kiện hủy bỏ khơng có hiệu lực hỗn lại việc thực
hiện nghĩa vụ, mà chỉ buộc người có quyền phải hồn trả những gì đã nhận trong
trường hợp sự kiện quy định trong điều xảy ra”.13
Cũng như một số văn bản quốc tế như Công ước Liên hợp quốc năm 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Cơng ước Viên năm 1980 hoặc CISG năm
1980). Công ước này quy định riêng biệt điều kiện tuyên bố hủy hợp đồng đối với
người bán và người mua. Quyền tuyên bố hủy hợp đồng của người bán theo CISG
năm 1980 được quy định tại Điều 49 (người bán có quyền yêu cầu tuyên bố hủy hợp
đồng khi...), của người mua được quy định tại Điều 64 (người mua có quyền yêu cầu
tuyên bố hủy hợp đồng khi...). Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế năm năm 2004 (UNIDROIT) quy định quyền hủy bỏ hợp đồng tại Điều 7.3.1,
theo đó một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu có trường hợp không thực hiện chủ
yếu của bên kia hoặc một bên thực hiện chậm trễ hợp đồng. Những nguyên tắc của
pháp luật hợp đồng Châu Âu (PECL) từ Điều 9:301 đến 9:301 quy định các trường
hợp chấm dứt hợp đồng (có vi phạm cơ bản hoặc chậm trễ thực hiện) và các hậu quả
pháp lý khi hợp đồng bị hủy bỏ.
Ta thấy các văn bản pháp luật quốc tế cũng giống như BLDS năm 2015 (Điều
423 đến Điều 427) đều không định nghĩa cụ thể về thuật ngữ “hủy bỏ hợp đồng” là
gì mà thay vào đó quy định điều kiện, căn cứ hủy bỏ hợp đồng hay nói cách khác là
quyền hủy bỏ hợp đồng và đáng chú ý là quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp
đồng.
Theo như quy định về chấm dứt hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng là một trong những
hình thức làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng được giao kết hợp pháp trước đó,
quyền hủy bỏ hợp đồng phát sinh căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng hoặc pháp luật có quy định. Hậu quả pháp lí là hợp đồng khơng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, bên nào có lỗi trong việc hủy bỏ hợp đồng thì phải bồi thường.
Bộ luật Dân sự khơng trực tiếp quy định khái niệm “hủy bỏ hợp đồng”, mà quy định
tiếp cận theo hướng quyền được hủy bỏ hợp đồng của một bên khi thỏa mãn một số
điều kiện nhất định là phù hợp với xu hướng chung của pháp luật các nước trên thế

giới.
Như vậy, hủy bỏ hợp đồng là hoàn cảnh hợp đồng đã được giao kết hợp pháp,
đang có hiệu lực và đáng lẽ ra phải được thực hiện tới cùng thì nay bị triệt tiêu hiệu
lực kể từ thời điểm giao kết. Lý do hủy bỏ hợp đồng không tồn tại vào thời điểm giao
kết mà phát sinh trong quá trình thực hiện, cụ thể là do có sự vi phạm hợp đồng của
13

Võ Sỹ Mạnh (2017), tlđd (6), tr. 2.

11


một bên theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi hợp đồng bị hủy bỏ,
các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận.14
1.1.3 Căn cứ hủy bỏ hợp đồng
Như đã phân tích ở trên, hợp đồng được đề cập tới như là một giao dịch không
thể thiếu của mỗi thành viên trong xã hội, việc giao kết hợp đồng chỉ mới tạo ra hình
thức pháp lý cho quan hệ trao đổi, cịn mục đích khi tham gia quan hệ của các bên có
đạt được hay khơng phải thơng qua việc thực hiện hợp đồng. Trên thực tế, vì nhiều
lý do khác nhau mà một trong các bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Hành vi này sẽ
làm cho lợi ích của các bên khơng cịn ngang bằng, ảnh hưởng đến mục đích khi giao
kết hợp đồng của các bên. Để hạn chế sự vi phạm và để bảo đảm việc mục đích của
các bên khi xác lập hợp đồng, pháp luật của các nước đều xây dựng những biện pháp
pháp lý và cho phép bên bị vi phạm hợp đồng áp dụng chúng khi có sự vi phạm hợp
đồng của bên kia. Một trong những biện pháp mà chúng ta đang nghiên cứu là quyền
hủy bỏ hợp đồng của bên bị vi phạm. Vậy trong những trường hợp nào thì quyền này
được phát sinh hay nói cách khác bên bị vi phạm căn cứ vào đâu để thực hiện quyền
tuyên bố hủy bỏ hợp đồng?
Về nguyên tắc, hành vi hủy bỏ hợp đồng được xem là vi phạm việc thực hiện
hợp đồng. Nhưng trong một số trường hợp nhất định, thì đây được xem là hành vi

được pháp luật thừa nhận nhằm bảo vệ quyền lợi của một bên khi có vi phạm xảy ra.
Để tuyên bố hủy bỏ hợp đồng đúng pháp luật thì phải có căn cứ từ sự vi phạm hợp
đồng được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định sự vi phạm đó là căn cứ
hủy bỏ hợp đồng.
Trong giai đoạn giao kết hợp đồng, ở một mức độ nhất định các bên thường sẽ
dự đốn được sẽ có hành vi vi phạm phát sinh trong giai đoạn thực hiện hợp đồng.
Trên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao dịch dân sự,
BLDS cho phép các bên trù liệu các trường hợp vi phạm, từ đó được quyền thỏa thuận
về điều kiện hủy bỏ đối với hợp đồng được xác lập. Quy định này đã được ghi nhận
trong BLDS năm 2005, theo đó “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải
bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã
thoả thuận”. Bộ luật Dân sự 2015 cũng đã giữ nguyên quy định này tại điểm a khoản
1 Điều 423. Vì hợp đồng vốn dĩ được xác lập trên cơ sở các bên có những điểm chung
khi tham gia vào giao dịch dân sự, muốn ràng buộc lẫn nhau để cùng thực hiện các

14

Võ Thị Thanh (2012), tlđd (9), tr. 7.

12


cam kết, nên khi có sự vi phạm hợp đồng, thì các bên cũng có thể thống nhất ý chí
tạo cơ chế nhằm tháo gỡ sự ràng buộc bởi hợp đồng.
Trên thực tế, cũng có trường hợp các bên khơng có thỏa thuận về điều kiện hủy
bỏ. Đối với trường hợp này thì để xác định điều kiện phát sinh quyền hủy bỏ thì phải
căn cứ vào các quy định của pháp luật. BLDS năm 2015 cũng đã liệt kê một số trường
hợp từ Điều 423 đến Điều 426 điển hình như vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp
đồng, do khơng có khả năng thực hiện, do chậm thực hiện nghĩa vụ, do tài sản bị mất
mát, hư hỏng và một số trường hợp trong phần quy định về các loại hợp đồng thơng

dụng tại Chương XVI. Bên cạnh đó nhằm để đảm bảo hiệu lực của các văn bản luật
chuyên nghành trong những lĩnh vực cụ thể, BLDS năm 2015 cũng thừa nhận một
bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp
khác do luật quy định. Đây là các trường hợp pháp luật trù liệu nhằm hạn chế rủi ro
cho bên bị vi phạm, nâng cao trách nhiệm của hai bên khi thực hiện hợp đồng.
Nhận thấy một bên có quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng khi đáp ứng điều kiện
quy định từ Điều 423 đến Điều 426 BLDS năm 2015. Bên bị vi phạm không thể hủy
bỏ hợp đồng nếu không đáp ứng các căn cứ như trên, nếu vi phạm thì sẽ bị xem là
hủy bỏ hợp đồng trái pháp luật.
Vậy căn cứ hủy bỏ hợp đồng là những điều kiện mà pháp luật luật thừa nhận,
cho phép một bên trong quan hệ hợp đồng áp dụng để chấm dứt việc thực hiện nghĩa
vụ của các bên, bãi bỏ hiệu lực hợp đồng kể từ thời điểm giao kết.
Điều kiện để hủy bỏ hợp đồng chứa đựng những yếu tố sau: hợp đồng bị hủy bỏ
bắt buộc phải có sự vi phạm hợp đồng (i), hợp đồng bị hủy bỏ do ý chí của một bên
chủ thể (ii) và bên tuyên bố hủy bỏ hợp đồng phải có quyền hủy bỏ hợp đồng (iii).
Đối với yếu tố thứ nhất (i), trong chế định chấm dứt hợp đồng thì hủy bỏ hợp
đồng là điều kiện chấm dứt ln có tính chất căn cứ từ sự vi phạm khi thực hiện hợp
đồng. Theo BLDS năm 2015, vi phạm hợp đồng được hiểu là vi phạm nghĩa vụ quy
định tại khoản 1 Điều 351: “Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ khơng thực
hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nội dung của nghĩa vụ”.15
Vi phạm hợp đồng cũng là một đặc điểm cơ bản để phân biệt với quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Khoản 1 Điều 428 BLDS năm 2015 quy định “một bên
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt
hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa
Bùi Thị Thanh Hằng (2016), “Ảnh hưởng của khoa học pháp lý thế giới đối với việc xây dựng khái niệm vi
phạm hợp đồng trong luật tư Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học Tập 32, Số 4/2016, tr. 35.
15

13



thuận hoặc pháp luật có quy định”. Do đó, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng có
thể khơng cần có yếu tố vi phạm hợp đồng.
Sở dĩ có sự khác biệt nêu trên, xuất phát từ thực tiễn, hợp đồng bị chấm dứt do
đơn phương yêu cầu được xem là chấm dứt nửa chừng, hay nói cách khác là chấm
dứt khi đã thực hiện được một phần những gì đã thỏa thuân; hợp đồng đã giao kết
nhưng đang thực hiện chưa xong thì phải chấm dứt, nó cịn đang “dang dở” so với
thỏa thuận ban đầu của các bên. Trong trường hợp này, tuy có thể khơng có vi phạm
từ một bên nhưng các bên nhận thấy nếu hợp đồng tiếp tục được thực hiện sẽ gây ra
thiệt hại cho một bên hoặc các bên, chủ yếu là quyền và lợi ích hợp pháp của bên đơn
phương yêu cầu chấm dứt đã không được thực hiện hoặc không được thực hiện trong
tương lai, các bên chỉ là không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng chứ không muốn
triệt tiêu giá trị pháp lý của hợp đồng từ thời điểm giao kết, các lợi ích đối ứng đã đạt
được thì hai bên vẫn chấp nhận. Còn hủy bỏ hợp đồng nhằm hạn chế hoặc không để
gây ra hậu quả nếu tiếp tục thực hiện trong khi phía bên kia khơng chấm dứt việc vi
phạm hoặc thiếu thiện chí để giải quyết hậu quả của việc vi phạm.16
Đối với yếu tố thứ hai (ii), hủy bỏ hợp đồng được áp dụng có tính đơn phương
của bên bị vi phạm. Nếu hợp đồng chấm dứt do các bên cùng thỏa thuận hủy bỏ trong
khi thực hiện thì khơng được xem là do hủy bỏ hợp đồng mà là do ý chí của các bên.
Đây là trường hợp các bên chủ thể thể hiện sự đồng ý, thống nhất trong việc hủy bỏ
hợp đồng, các bên đều thỏa thuận từ trước hoặc tại thời điểm nào đó trong lúc thực
hiện để cùng mong muốn hủy bỏ. Đối với quyền hủy bỏ hợp đồng thì trong q trình
thực hiện, một bên thơng báo hủy bỏ hợp đồng do chính bản thân mình mong muốn,
đây là ý chí của một bên. Vì trường hợp hủy bỏ mang tính chất là quyền và biện pháp
xử lý của một bên được áp dụng khi có sự vi phạm nên ln mang tính “đơn phương”.
Đối với yếu tố cuối cùng (iii), trong khi hợp đồng đang được thực hiện, mà một
bên có mong muốn hủy bỏ hợp đồng, để thể hiện ý chí đó thì phải có quyền hủy bỏ
hợp đồng. Quyền này phải phát sinh hợp pháp thì các bên còn lại trong hợp đồng hoặc
các chủ thể khác có liên quan mới cơng nhận việc hợp đồng bị hủy bỏ là đúng, khơng

từ chối được, từ đó mới phải thực hiện các trách nhiệm như bồi thường thiệt hại, phạt
vi phạm nếu có. Quyền hủy bỏ hợp đồng căn cứ vào thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ
của các bên hoặc được pháp luật quy định, trên cơ sở đó một bên được quyền tuyên
bố hủy bỏ hợp đồng đối với bên còn lại trong điều kiện nhất định. Vì đây là quyền
được thừa nhận theo thỏa thuận của các bên và theo luật định, nên khi bên bị vi phạm

Đoàn Việt Dũng (2011), Đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luận văn
thạc sĩ luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 12,13.
16

14


thực hiện quyền này hợp pháp, thì bên vi phạm không được cản trở và không cần thiết
phải được bên vi phạm đồng ý.
1.2 Các căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015
Như đã trình bày ở các phần trước về căn cứ hủy bỏ hợp đồng có thể dựa trên
cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc được pháp luật quy định. Ở phần này sẽ nghiên
cứu về các căn cứ cụ thể nói trên. Việc tìm hiểu về căn cứ hủy bỏ hợp đồng sẽ trả lời
cho câu hỏi “Tại sao một bên chủ thể trong hợp đồng được quyền hủy bỏ hợp đồng?”.
1.2.1 Hợp đồng có thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ
Khi đề cập về căn cứ hủy bỏ hợp đồng, thì căn cứ đầu tiên thể hiện quyền tự do
ý chí trong quan hệ hợp đồng đó là sự thỏa thuận của các bên. Khi giao kết hợp đồng
dân sự các bên có quyền thống nhất ý chí là trong những trường hợp nhất định thì
một bên được quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng, vì hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự nên việc thỏa
thuận về chấm dứt hợp đồng luôn được coi trọng.
Pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều khẳng định sự thỏa thuận là yếu tố
cốt lõi của hợp đồng.17 Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều thừa nhận nền tảng
của luật hợp đồng là tự do ý chí, đây là vấn đề trọng yếu của hợp đồng.18 Do đó, ngồi

các trường hợp luật định, BLDS năm 2015 cho phép các bên có thể thỏa thuận về
trường hợp hủy bỏ hợp đồng nhằm hạn chế thiệt hại tối đa cho các bên, đồng thời
nâng cao trách nhiệm thực hiện hợp đồng.
Khi một vi phạm xảy ra, có thể là vi phạm nghiêm trọng hoặc khơng nghiêm
trọng, vi phạm một phần hay tồn bộ nghĩa vụ, nếu vi phạm này đã được các bên thỏa
thuận là điều kiện hủy bỏ hợp đồng, theo ý chí của bên bị vi phạm áp dụng quyền này
thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ. Đối với trường hợp này để một vi phạm trở thành căn cứ
hủy bỏ hợp đồng thì:
Thứ nhất, về hình thức, vi phạm này phải được thỏa thuận trong hợp đồng.
Trong các giai đoạn từ khi đàm phán, thương lượng, giao kết hợp đồng, các bên có
thể dự báo trước các vi phạm có thể xảy ra. Khi xảy ra các vi phạm đó, các bên nhận
thấy nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ gây thiệt hại cho các bên, chủ yếu là bên bị
vi phạm và mong muốn ngừng hẳn lại việc thực hiện hợp đồng đã giao kết, nên các
bên được quyền thỏa thuận về các hành vi này với ý nghĩa là các điều kiện làm hợp
đồng bị hủy bỏ. Một vi phạm là điều kiện hủy bỏ hợp đồng có giá trị ràng buộc về
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư Pháp (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005 tập
II, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, tr. 94.
18
Đoàn Việt Dũng (2011), tlđd (18), tr. 12.
17

15


mặt pháp lý khi nó được các bên cơng nhận là điều khoản trong hợp đồng, thể hiện
sự thống nhất trí của các chủ thể.
Thứ hai, về nội dung, khi thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng thì thỏa
thuận này không được trái đạo đức xã hội và trái với các quy định của pháp luật. Đây
là một trong những nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015 tại khoản 2 Điều 3. Theo
nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng được quyết

định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, khơng có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào kể cả
Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Pháp luật cho phép
các bên được định đoạt sự tồn tại của hợp đồng khi cho phép các bên thỏa thuận về
căn cứ hủy bỏ hợp đồng. Nhưng việc thỏa thuận này phải nằm trong khuôn khổ pháp
luật và đạo đức xã hội.
Vậy tiền đề, cơ sở để một bên hủy bỏ hợp đồng khi bên đối tác vi phạm hợp
đồng là sự vi phạm đó phải được các bên thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hợp đồng.
Trong trường hợp pháp luật không quy định, bên bị vi phạm tuyên bố hủy bỏ hợp
đồng nhưng không rơi vào các điều kiện hủy bỏ trong hợp đồng, hoặc các bên khơng
có thỏa thuận thì được coi là chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, lúc này bên bị vi phạm
sẽ trở thành bên vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại.
1.2.2 Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng
Trong trường hợp khi thực hiện hợp đồng, một bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp
đồng (vi phạm hợp đồng), nhưng không phải là điều kiện hủy bỏ hai bên đã trù liệu
trong hợp đồng và pháp luật cũng khơng quy định, thì để bên bị vi phạm được quyền
hủy bỏ hợp đồng thì hành vi đó phải là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp
đồng. Vậy để cấu thành vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng thì hành vi đó được
quy định như thế nào?
Theo khoản 1 Điều 425 BLDS năm 2005, một bên chỉ có quyền hủy bỏ hợp
đồng khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nếu các bên có thỏa thuận trong hợp
đồng hoặc các trường hợp khác quy định trong pháp luật. Cách xây dựng các quy
định về hủy bỏ theo BLDS này dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng là một hợp đồng
có thể sẽ khơng bao giờ bị hủy bỏ nếu nó nằm ngồi các loại hợp đồng điển hình quy
định tại BLDS và đồng thời các bên đã quên không thoả thuận điều kiện để hủy bỏ.
Ngoài ra, ngay cả trong các loại hợp đồng điển hình tại BLDS năm 2005 cũng khơng
quy định về điều kiện hủy bỏ trong một số trường hợp. Nghĩa là các bên không thỏa
thuận hành vi vi phạm là điều kiện hủy bỏ và pháp luật cũng khơng quy định thì
khơng có cơ sở để một bên hủy bỏ hợp đồng.

16



Trong quy định của BLDS năm 2015, quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên kia vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã trở thành quyền luật định.Theo khoản 2 Điều 423
BLDS năm 2015, “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ dân sự là việc không thực hiện
đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của
việc giao kết hợp đồng”. Đây là quy định mới được bổ sung so với BLDS năm 2005
trên cơ sở kế thừa quy định “vi phạm cơ bản” trong LTM năm 2005. Theo khoản 13
Điều 3 LTM năm 2005, “vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây
thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc giao
kết hợp đồng”. Hậu quả của hành vi “vi phạm cơ bản” và “vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ” tương đối giống nhau, đều “làm cho bên kia không đạt được mục đích của
việc giao kết hợp đồng”. Nhận thấy hai thuật ngữ trên đều có nội hàm tương đối giống
nhau và cùng mang lại một hậu quả, vậy nên chăng pháp luật dân sự và pháp luật
thương mại có quy định chung là “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ”, vừa đảm bảo
thống nhất về thuật ngữ, vừa thuận tiện cho các bên khi xác lập, thực hiện hợp đồng
dân sự nói chung, hợp đồng thương mại nói riêng.19 Phần này tác giả xin được trình
bày cụ thể tại Chương 2.
CISG năm 1980 cũng có đề cập đến thuật ngữ “vi phạm cơ bản hợp đồng”. Tại
Điều 25 CISG 1980 cũng quy định: “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là
vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại,
trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp
đồng.”. Ta thấy trên tinh thần thì “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ” trong BLDS năm
2015 và “vi phạm cơ bản” trong LTM năm 2005 cũng có cách hiểu khá tương đồng
với pháp luật quốc tế. Cách quy định này của CISG năm 1980 khiến “vi phạm cơ
bản” và hậu quả của nó là việc mất những lợi ích mà bên bị vi phạm “chờ đợi trên cơ
sở hợp đồng” trở nên cụ thể và dễ xác định hơn so với hậu quả không rõ ràng của
việc “không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng” như quy định của LTM
năm 2005. Đồng thời, Điều 25 cũng giải phóng trách nhiệm cho bên vi phạm cơ bản
nếu vi phạm đó được thực hiện trong những hồn cảnh không tiên liệu được hoặc

chứng minh được là không tiên liệu được, thuộc về trường hợp bất khả kháng.20
Việc BLDS năm 2015 ghi nhận điều kiện vi phạm nghiêm trọng hợp đồng làm
căn cứ cho việc hủy bỏ hợp đồng là quyền luật định đã phần nào giúp bên bị vi phạm
có thể áp dụng linh hoạt hơn khi mục đích giao kết của mình khơng cịn được bảo
Nguyễn Thùy Trang (2017), “Bình luận về các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03 (106)/2017, tr.26.
20
Phan Thị Thanh Thủy (2014), “So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương
mại Việt Nam 2005 và Cơng ước Viên 1980”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học (tập 30), Số 3 (2014),
tr. 54.
19

17


đảm nữa. Theo đó vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng phải đáp ứng hai điều
kiện: có sự vi phạm hợp đồng và dẫn đến hậu quả một bên khơng đạt được mục đích
giao kết hợp đồng.
1.2.3 Trường hợp khác do luật quy định
Khi quy định về các căn cứ hủy bỏ hợp đồng, BLDS năm 2015 liệt kê: “Trường
hợp khác do luật quy định”. Với tư cách là luật “chung”, BLDS năm 2015 có vai trị
đảm bảo cho sự ổn định của các văn bản pháp luật khác, nhằm để tạo sự thống nhất
khi áp dụng các văn bản pháp luật chuyên nghành, vì dân sự ở đây bao hàm tất cả vấn
đề khác trong xã hội như thương mại, lao động, bảo hiểm,…
Căn cứ vào quy định của pháp luật ở đây được hiểu là các quy định của BLDS
năm 2015 cũng như các luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại, Luật kinh
doanh bảo hiểm, Luật nhà ở,… có quy định về hủy bỏ hợp đồng trong những trường
hợp cụ thể như: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng đặt
cọc, hủy hợp đồng công chứng, hủy hợp đồng kinh tế, hủy hợp đồng lao động,… thì
nếu các bên khơng có thỏa thuận sẽ căn cứ vào các quy định này để xác định quyền

hủy bỏ hợp đồng của một bên trong quan hệ hợp đồng.
Đây cũng là quy định nhằm giảm đi “gánh nặng” trong phạm vi điều chỉnh của
Bộ luật Dân sự, khi luật này bao hàm quá nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Bởi
vì trong những lĩnh vực nhất định cần thiết có những văn bản pháp luật chuyên nghành
điều chỉnh sẽ giúp quan hệ pháp luật đó được điều chỉnh sâu sắc hơn, cụ thể hơn
Một số trường hợp khác do BLDS năm 2015 quy định như: Trong hợp đồng
mua bán tài sản, nếu bên bán giao vật không đúng số lượng (Điều 437), giao vật
không đồng bộ (Điều 438), giao vật không đúng chủng loại (Điều 439)… thì bên mua
được quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại; Đối với hợp đồng trao
đổi tài sản, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại khi
một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc khơng
được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia (Điều 455);…
1.2.4 Một số trường hợp hủy bỏ hợp đồng cụ thể
BLDS năm 2015 ngoài những căn cứ hủy bỏ hợp đồng như đã phân tích ở trên,
thì có quy định một số trường hợp hủy bỏ hợp đồng cụ thể, đây là những trường hợp
chung nhất khi áp dụng quyền hủy bỏ trong một số trường hợp thường xuyên xảy ra
trên thực tế.
Thứ nhất là trường hợp hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ. Theo
khoản 1 Điều 424 BLDS năm 2015 thì việc huỷ bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa
18


×