Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THÚY NGÂN

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

ĐẮK LẮK, NĂM 2021

1


Cơng trình được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trang Thị Tuyết
Phản biện 1: TS. Lê Toàn Thắng


Phản biện 2: TS. Đặng Thị Hoài
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính
Quốc gia
Địa điểm: Tại Tây Nguyên Phòng họp 204 Phân viện Học viện hành chính quốc
gia Khu vực Tây Nguyên
Số 02 Trương Quang Tuân, Tân Lập, Tp. Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
Thời gian: vào hồi 16 giờ 17 tháng 01 năm 2022

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kỳ một quốc gia nào, doanh nghiệp cũng là
một đơn vị cơ sở, một tế bào của cả nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Sự phát triển của doanh nghiệp sẽ giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào
phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu,
tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xố đói, giảm
nghèo. Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân
như: Cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. Doanh
nghiệp phát triển là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế trong quá trình hội nhập. Có thể nói vai trị của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững
về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước có vị trí, vai trị quan trọng, được khẳng định cả trong chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước lẫn trong thực tiễn. Doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua
đã có đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định vai trò then chốt và là lực lượng vật

chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của DNNN, Đảng và nhà nước đã coi
đổi mới DNNN là một trong những trọng tâm trọng của tái cơ cấu nền kinh tế. Tại Hội nghị Trung ương 3
Khóa XI (2011), BCH Trung ương Đảng đã xác định một trong ba trụ cột của tái cơ cấu nền kinh tế là tái cơ
cấu DNNN, trong đó trọng tâm là tái cơ cấu các tập đồn, Tổng cơng ty nhà nước. Theo đó, ngày 17/07/2012
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 929/QĐ-TTg phê duyệt Đề án: “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập
đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) tiếp
tục khẳng định một trong các nhiệm vụ trọng tâm là chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại DNNN [20].
Chính phủ, các Bộ ban ngành đã ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, minh bạch hơn;
nội dung các văn bản pháp luật đã thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước. Các cơ chế, chính sách sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa, đa dạng hóa
sở hữu các doanh nghiệp nhà nước, phân loại, sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, về đầu tư vốn
được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu quản lý; phân công, phân cấp rõ ràng các quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp, qua đó nâng cao tính cơng khai, minh bạch, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong
việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước.
Đắk Lắk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Ngun có điều kiện kinh tế xã hội cịn khó khăn, do đó
DNNN chính là một lực lượng kinh tế quan trọng, có vai trị là trụ cột trong phát triển kinh tế xã hội tại địa
phương. Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, doanh nghiệp nhà nước vốn ít, quy mô nhỏ, hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Trước năm 2015 một số đơn vị lỗ nghiêm trọng
dẫn đến giải thể, phá sản như: Công ty chế biến Gỗ Tùng Lâm, Cao Lâm, Xí nghiệp cà phê Việt Đức, Công
ty Vật liệu xây dựng và Thi công cơ giới…. Một số đơn vị phải có các cơ chế mạnh của Chính phủ mới đủ
điều kiện chuyển đổi hình thức sở hữu, vốn nhà nước bị thâm hụt như: Cơng ty Bơng Đắk Lắk, Cơng ty Mía
đường Đắk Lắk, Công ty cao su 10/3, Công ty Xây dựng số I, Công ty Xuất nhập khẩu và Dịch vụ tổng hợp
2/9, Cơng ty khống sản Đắk Lắk.
3


Tình hình trên đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết, trong đó, một yêu cầu cấp thiết là phải
sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Do vậy,

học viên đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”
làm đề tài luận văn thạc sĩ chun ngành Quản lý cơng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
- Sách Cải cách doanh nghiệp nhà nước (Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, nhà xuất bản Tài chính năm 2003).
- Đề tài “Đổi mới, sắp xếp và vấn đề quản trị DNNN ở Việt Nam”
- Sách “Cổ phần hóa DNNN - những vấn đề lý luận và thực tiễn” Lê Hồng Hạnh chủ biên, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2004).
- Ngơ Quang Minh (2013), “Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay”:
- Bài viết nghiên cứu "Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước nằm duy trì
tăng trưởng kinh tế 2012”,
- Luận án tiến sĩ: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước
trên địa bàn Thành phố Hà Nội”
- Luận văn thạc sĩ “Quản lý kinh tế của cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước - Thực
trạng và kiến nghị”
- Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”
Như vậy, cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học đã công bố nghiên cứu về chủ đề DNNN, tái
cấu trúc các DNNN, quản lý DNNN. Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống về QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Đề tài đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN đối với các DNNN trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quản lý nhà nước đối với DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Đề tài nghiên cứu QLNN đối với DNNN của chính quyền tỉnh
Đắk Lắk trên 5 nội dung: (1) Xây dựng các chiến lược, kế hoạch định hướng cho sự phát triển của DNNN;
(2) Tổ chức thực thi hệ thống văn bản pháp lý quy định về DNNN; (3) Ban hành và thực thi các chính sách
quản lý DNNN; (4) Bộ máy QLNN đối với DNNN và (5) kiểm tra, thanh trá, giám sát đối với hoạt động của

DNNN trên địa bàn tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài thu thập dữ liệu, số liệu trong khoảng thời gian 5 năm từ
năm 2016 đến năm 2020 và định hướng giải pháp đến năm 2025.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn nghiên cứu về QLNN của chính quyền tỉnh Đắk Lắk
đối với DNNN trên địa bàn tỉnh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm hồn thiện
cơng tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

4


4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một cách hệ có thống những vấn đề lý luận về doanh nghiệp nhà nước và quản lý nhà
nước về doanh nghiệp nhà nước của chính quyền cấp tỉnh;
- Khảo cứu mơ hình và thực tiễn quản lý nhà nước về doanh nghiệp nhà nước ở một số địa phương,
từ đó có so sánh, đánh giá nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho tỉnh Đắk Lắk;
- Phân tích đánh giá thực trạng QLNN về DNNN của chính quyền tỉnh Đắk Lắk trên các khía cạnh:
Định hướng phát triển DNNN; các quy định pháp lý cho DNNN; thực thi chính sách QLNN, bộ máy QLNN
của chính quyền tỉnh đối với DNNN và kiểm tra, thanh trá, giám sát hoạt động của DNNN. Qua đó, luận văn
cũng chỉ ra những thành công và những hạn chế trong công tác QLNN của chính quyền tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác QLNN về DNNN trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp phân tích tổng hợp:
- Phương pháp thống kê:
- Phương pháp diễn giải và quy nạp.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Thứ nhất, luận văn là cơng trình nghiên cứu tổng thể những vấn đề lý luận về DNNN và QLNN về
DNNN, thực trạng QLNN về DNNN của chính quyền cấp tỉnh.
Thứ hai, luận văn đã phân tích, lập luận về sự phát triển của hệ thống DNNN của tỉnh Đắk Lắk, các
yếu tố chi phối công tác QLNN về DNNN.
Thứ ba, luận văn đã nhận diện những hạn chế, bất cập trong công tác QLNN về DNNN ở tỉnh Đắk
Lắk trong những năm qua đồng thời đã phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến
những hạn chế nêu trên.
Thứ tư, luận văn đề xuất nhằm hoàn thiện QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong
thời gian tới. Phương hướng và những giải pháp được đề xuất có tính khả thi cao, góp phần vào việc hồn
thiện cơng tác QLNN về DNNN của chính quyền cấp tỉnh nói chung.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Sau khi hồn thành, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý và hoạch định
chính sách phát triển DNNN của chính quyền tỉnh Đắk Lắk đồng thời luận văn có thể trở thành tài liệu tham
khảo cho các giảng viên và học viên nghiên cứu ở các khối đại học kinh tế, đại học khoa học hành chính và
cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề QLNN đối với DNNN trên phạm vi cả nước nói chung.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước của chính quyền cấp tỉnh.
5


Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh Đắk Lắk đối với DNNN trên địa bàn
tỉnh

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
của chính quyền tỉnh Đắk Lắk.

6


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
1.1. Doanh nghiệp nhà nước của chính quyền tỉnh
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
“DNNN là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay kiểm sốt thuộc về chính phủ, và phần lớn thu
nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hóa và dịch vụ”.
“DNNN là một tổ chức kinh tế tự quyết thuộc quyền sở hữu của nhà nước, do nhà nước kiểm sốt và
thường được các Chính phủ sử dụng như một cơng cụ chính sách để thực hiện các mục đích phát triển KT XH và điều tiết nền kinh tế thông qua việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động SXKD”.
Ở Việt nam, “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt
động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao”.
Như vậy, theo Luật DNNN 1995, xét về quan hệ sở hữu vốn thì Luật mới chỉ chấp nhận loại DNNN mà chủ
sở hữu duy nhất năm giữ 100% vốn của doanh nghiệp là Nhà nước.
Luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 12 năm 2003, trong điều 1 quy định: “DNNN
là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức
dưới hình thức cơng ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Khoản 22 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định:“DNNN là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở
hữu trên 50% vốn điều lệ”. Năm 2014 Quốc hội ban hành Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7
năm 2015, tại khoản 8 Điều 4 quy định: “DNNN là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”. Theo
quy định tại Luật này DNNN lại được quy định giống Luật Doanh nghiệp năm 1995.
Theo quy định tại điều 88, Luật DN 2020, DNNN DNNN được tổ chức quản lý dưới hình thức cơng
ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần, bao gồm: Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;
Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ đề cập đến các DNNN có cổ phần chi phối và DNNN nắm
giữ từ lớn hơn 50% đến 100% vốn điều lệ.
1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp nhà nước
Theo quy định tại Luật DN 2005, 2014, 2020, bản thân DNNN khơng phải là một loại hình doanh
nghiệp, ở giác độ pháp lý mà nó chỉ cách gọi để phân biệt vốn trong DN thuộc sở hữu của nhà nước hay của
các thành phần kinh tế khác. DNNN cũng được tổ chức dưới các loại hình doanh nghiệp theo quy định của
các văn bản này.
Hiện nay, theo quy định tại Luật DN 2020, DNNN bao gồm những loại sau đây:
DNNN được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, bao gồm:
(1) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;
(2) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết, trừ doanh nghiệp quy định.
Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 88
Luật Doanh nghiệp 2020 bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ
của TĐKT nhà nước, công ty mẹ của TCT nhà nước, công ty mẹ trong nhóm cơng ty mẹ - cơng ty con;
7


- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ.
Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết
theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 88 Luật Doanh nghiệp 2020 bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50%
vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của TĐKT, công ty mẹ của TCT nhà nước,
cơng ty mẹ trong nhóm cơng ty mẹ - công ty con;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà
nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
- Đặc điểm pháp lý:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, “doanh nghiệp” được hiểu là "Tổ
chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích kinh doanh”.
- Đặc điểm về sở hữu:
- Đặc điểm về hình thức của doanh nghiệp và mơ hình tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước:
- Đặc điểm về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản:
1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
Một là, DNNN giữ vai trò chủ đạo và vị trí then chốt của nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”, kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo khơng phủ định cạnh
tranh mà còn là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Quá trình đổi mới, hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu khách quan phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy
luật kinh tế thị trường. Điều đó cho thấy, dù kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhưng sự cạnh tranh của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không kém phần quyết liệt. Các doanh nghiệp,
TĐKT nhà nước hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm và
khơng làm được, hoặc đóng vai trị dẫn dắt, khai phá những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, như:
quốc phòng, an ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, hạ tầng giao thông,… tham gia cung ứng các sản phẩm
dịch vụ cơng ích nhưng vẫn bảo đảm tn thủ nguyên tắc thị trường, bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Đảng ta chủ trương các DNNN phải: “hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực
quốc tế; lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”. Đảng và Nhà nước ta không ưu ái DNNN và phân biệt đối xử với các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. DNNN hoạt động theo cơ chế tự chủ sản xuất, kinh doanh,
cạnh tranh bình đẳng, cơng khai, minh bạch, chịu sự điều tiết của các quy luật kinh tế thị trường và thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình cổ phần hóa, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống
DNNN, Chính phủ chủ trương thoái vốn và nhường lại thị phần ở các lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác có khả năng hoạt động đạt hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, như: thương mại tiêu
dùng, dịch vụ, du lịch, vận tải, v.v. Đồng thời, thực hiện nghiêm chủ trương “Xóa bỏ cơ chế can thiệp hành
chính trực tiếp, bao cấp dành cho DNNN, đối xử bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh,
tài chính, thuế,…” gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường. Khi

xây dựng và phát triển chế độ kinh tế xã hội, một quốc gia có chế độ chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa
8


như Việt Nam phải xây dựng một hệ thống doanh nghiệp có tính chất “nịng cốt” của nền kinh tế, hệ thống
đó có vai trị định hướng chính trị xã hội cho toàn bộ nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ DNNN bảo đảm
những điều kiện phát triển, bảo đảm những cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sứ mạng đó thể
hiện trước hết ở chỗ DNNN hiện đang nắm giữ các ngành công nghiệp then chốt, xương sống của nền kinh tế
và toàn bộ ngành cơng nghiệp quốc phịng.
Hai là, DNNN góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy toàn bộ q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Thông qua việc được đầu tư các trang thiết bị, máy móc cơng nghệ hiện đại trong sản
xuất sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Việc các TĐKT nhà nước, các TCT nhà nước đang
nắm giữ một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; khai thác, chế biến dầu khí; điện
tử, cơng nghệ thơng tin, thép, xi măng, dệt may, da giày... tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn,
cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa đất nước. Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam cơ bản trở thành nước cơng nghiệp
theo hướng hiện đại, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành
cơng nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị tồn cầu; tầm nhìn đến năm 2045,
Việt Nam trở thành nước cơng nghiệp phát triển hiện đại thì vai trị của DNNN là vô cùng quan trọng.
Ba là, DNNN là công cụ, lực lượng vật chất để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường. Các doanh
nghiệp, TĐKT nhà nước nắm giữ tỷ trọng đa số hoặc có vị trí chi phối một số ngành, lĩnh vực nền tảng của
nền kinh tế, DNNN cịn là cơng cụ, lực lượng vật chất quan trọng bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ
sở hạ tầng, an sinh xã hội,… tạo cơ sở nền tảng vững chắc để Việt Nam thực hiện thành công tái cấu trúc nền
kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Trong đó, tỷ trọng GDP chỉ là tiêu chí
đánh giá vị trí, vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân. Không giống như cả các thành phần
kinh tế khác, ngoài mục tiêu lợi nhuận, KTNN còn phải đảm nhận thêm mục tiêu phi lợi nhuận (mục tiêu
cộng đồng) khó có thể đo đếm. Vai trò chủ đạo của khu vực KTNN trong thời gian tới sẽ ngày càng được tập
trung vào các nội dung và mục tiêu: ngành, lĩnh vực then chốt, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng, điều tiết và ổn định kinh tế vĩ mô…

Bốn là, Các DNNN còn đảm nhận những trách nhiệm, những nhiệm vụ xã hội rất lớn, đồng thời thúc
đẩy sự phát triển các vùng kinh tế lạc hậu. Với mục tiêu xây dựng một xã hội, cơng bằng, dân chủ, vì dân,
những nghĩa vụ xã hội đặt ra cho nhà nước không chỉ nặng nề mà ngay trong những bước phát triển, những
nhiệm vụ đó đã phải từng bước được giải quyết. Do vậy DNNN thường phải đảm nhận những mục tiêu xã
hội, đầu tư vào những lĩnh vực ít lãi, hoặc thu hồi vốn lâu nhưng có ý nghĩa xã hội lớn. Đặc biệt, trong những
lĩnh vực cơng ích, những lĩnh vực có vai trị phục vụ cho tồn bộ nền kinh tế quốc dân như kết cấu hạ tầng,
bảo vệ mơi trường, đảm bảo an ninh quốc phịng... Với các lĩnh vực này khơng thể kinh doanh đơn thuần vì
mục tiêu lợi nhuận. Đảm bảo các mục tiêu xã hội là nhiệm vụ phổ biến của các DNNN của hầu hết các nước
trên thế giới. Nhưng có thể nói ở nước ta, nhiệm vụ đó nặng nề khó khăn hơn nhiều. Điều đó do điều kiện
lịch sử đặc thù và định hướng con đường phát triển chi phối.
Năm là, DNNN là nơi tạo ra việc làm cho xã hội, góp phần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực,
giúp người lao động có thu nhập và cuộc sống ổn định. Chủ trương đổi mới kinh tế đã kích thích, giải phóng
sức sản xuất ở các thành phần kinh tế phát triển. Nhưng các thành phần kinh tế với bản chất kinh tế vốn có
của nó, nếu khơng có những tác động điều chỉnh có hiệu lực bằng các biện pháp kinh tế, nếu khơng có thực
lực, những sức mạnh kinh tế để khống chế và điều tiết, thì khó có thể định hướng hoạt động kinh tế của toàn
xã hội. Những sức mạnh, những trung tâm thực lực kinh tế cùng sống, cùng hoạt động trong một môi trường
9


thị trường với các thành phần kinh tế trong sản xuất kinh doanh chính là các DNNN, đó là một đội quân chủ
lực hùng mạnh mà nhà nước sử dụng để tác động và điều khiển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần.
DNNN ngồi việc hồn thành các mục tiêu do nhà nước đề ra còn trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ
thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội; đóng góp vào ngân sách nhà nước, tham gia xuất khẩu,
từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
1.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước của chính quyền cấp tỉnh
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
QLNN đối với DNNN là phương thức tác động của Nhà nước đối với các DNNN thông qua hệ thống
luật pháp, các quy định, cách thức, phương tiện để DNNN hoạt động, thực hiện theo các mục tiêu kinh tế –
xã hội mà Nhà nước đề ra.
1.2.2. Sự cần thiết khách quan của Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước

Thứ nhất, Nhà nước quản lý DNNN để hướng hoạt động của DNNN phù hợp với lợi ích của nhà
nước.
Trong khi điều hành hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, đồng
thời nhà nước cũng tạo ra những đảm bảo cho lợi ích của mình. Khi tiến hành các hoạt động quản lý, trước
hết nhà nước cần đến các nguồn lực tài chính để chi tiêu cho bộ máy quản lý, xây dựng chính sách và thực
thi các chính sách. Một nguồn thu đủ để chi và tích lũy của nhà nước là bằng đóng góp từ thuế của các doanh
nghiệp. Hoạt động quản lý của nhà nước nhằm duy trì một xã hội tương đối ổn định để phát triển phụ thuộc
vào cách thức mà nhà nước quản lý kinh tế, doanh nghiệp. Phương pháp quản lý của nhà nước là tác động
vào các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và các chủ thể khác thông qua hệ thống công cụ quản lý mà nhà
nước xây dựng. Việc xây dựng công cụ quản lý và tổ chức điều hành quản lý các doanh nghiệp xuất phát từ
lợi ích của nhà nước. Do đó, ngay từ khi hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, nhà nước cũng thể hiện
ý chí, nguyện vọng của mình trong việc cung cấp dịch vụ cơng, đảm bảo sự kiểm sốt doanh nghiệp, áp dụng
chính sách thuế hướng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Cũng giống như
nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhà nước quản lý các DNNN để hướng các DN này
hoạt động phù hợp với lợi ích của nhà nước
Thứ hai, Nhà nước quản lý các DNNN để thực hiện các chức năng quan trọng liên quan trực tiếp tới
hoạt động kinh doanh của DNNN
Nhà nước phải định ra và quán triệt thực hiện chiến lược phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
phải định ra chính sách kinh tế, bao gồm chính sách khoa học kỹ thuật, chính sách ngành nghề, chính sách
phát triển khu vực, chính sách tiền lương, lao động,… tiến hành qui hoạch và thực hiện điều tiết vĩ mô đối
với nền kinh tế quốc dân. Chức năng này của nhà nước chủ yếu do các ban ngành, các cơ quan nhà nước thi
hành, nhưng nếu khơng có sự tham gia phối hợp của DNNN thì khả năng thực thi là rất thấp. Điều này tuy có
liên quan đến tất cả các doanh nghiệp nhưng DNNN giữ vị trí chủ chốt do những tiềm năng về vốn, và những
lĩnh vực mà nó đang nắm giữ đem lại, hay nói cách khác do vai trò của DNNN trong nền kinh tế đem lại.
Phải thừa nhận, DNNN đã và đang là một trong những công cụ quan trọng, là lực lượng tin cậy để nhà nước
thực hiện chức năng kinh tế, chính sách kinh tế và xã hội, chiến lược và qui hoạch phát triển kinh tế, điều tiết
nền kinh tế quốc dân. Nếu kinh tế nhà nước không gánh vác được nghĩa vụ trách nhiệm này thì trên một mức
độ rất lớn, đã tự làm mất đi giá trị tồn tại và phát triển của mình. Chính vì vậy, Nhà nước khơng thể khơng
hồn tồn can thiệp vào DNNN, DNNN phải hồn thành mục tiêu kinh doanh và phương hướng phát triển
mà Nhà nước đã qui định. Nhà nước phải thực hiện chức năng người sở hữu đối với DNNN. Điều này có liên

quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh sản xuất của DNNN.
10


Nhà nước còn phải thực hiện chức năng quản lý kinh tế, điều này liên quan trực tiếp tới tất cả các
doanh nghiệp. Như vậy, sự quản lý của Nhà nước đối với DNNN là một yêu cầu cần thiết và không phân biệt
nền kinh tế. Nhưng ở mỗi nền kinh tế cụ thể, cách thức quản lý đối với DNNN lại khác nhau và cách thức
này phụ thuộc vào địi hỏi khách quan hay nói cách khác phụ thuộc vào sự vận hành của nền kinh tế (các qui
luật kinh tế chi phối). Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đang địi hỏi sự bình đẳng, sự tự do cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu hay thành phần kinh tế. Vì vậy, sự quản lý
của Nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng phải nhằm thoả mãn các địi hỏi của nền
kinh tế hiện tại, có như vậy, thì kinh tế thị trường mới phát huy được những ưu thế của nó. Khắc phục những
mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường cũng được xác định là một trong những nhiệm vụ của Nhà nước khi
thực hiện chức năng quản lý kinh tế. Nhưng xét trên phương diện pháp lý, Nhà nước quản lý xã hội phải
bằng pháp luật, nên để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống pháp
luật chung để phòng ngừa và hạn chế, chứ không thể sử dụng một thành phần kinh tế (vốn được coi là bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác) để làm công cụ gây ảnh hưởng tới các thành phần kinh tế khác.
Vì vậy, để giải quyết những hạn chế của nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần thực hiện thơng qua
các hình thức như chính sách hỗ trợ, thuế, hạn mức... chứ khơng nên sử dụng các DNNN, bởi lẽ mục tiêu
hoạt động của DNNN là kinh doanh chứ không phải là giải quyết các vấn đề xã hội. Chính vì vậy, điều quan
trọng hiện nay trong việc quản lý đối với DNNN là phải tìm ra một cơ chế quản lý hợp lý, chứ khơng phải đi
tìm lý do khẳng định sự cần thiết của quản lý đối với DNNN.
Thứ ba, quản lý để bảo toàn và phát triển nguồn vốn của nhà nước tại các DNNN.
Các DNNN được nhà nước giao một nguồn lực rất lớn, nắm giữ trong tay số vốn được nhà nước trao
cho quyền quản lý và sử dụng. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn
vốn đó khơng được sử dụng đúng mục đích dẫn đến thất thốt lãng phí. Chính phủ thành lập Ủy ban Quản lý
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu nhưng trên nguyên tắc không can
thiệp vào các việc thuộc thẩm quyền của doanh nghiệp; doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh
bình đẳng với doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật khơng để xảy
ra thất thốt, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước.

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
1.2.3.1. Xây dựng và thực thi chiến lược, kế hoạch phát triển hệ thống DNNN trên địa bàn tỉnh.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp và QLNN đối với doanh nghiệp
1.2.3.3. Ban hành thực thi các chính sách quản lý DNNN của chính quyền cấp tỉnh
1.2.3.4. Tổ chức bộ máy QLNN đối với DNNN
1.2.3.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở chính
quyền cấp tỉnh
- Quan điểm của nhà nước đối với công tác QLNN đối với DNNN. Quan điểm của nhà nước về
QLNN đối với doanh nghiệp là nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động QLNN đối với
DNNN. Sở dĩ như vậy là vì nhân tố này sẽ quyết định tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp; nội dung
các văn bản pháp luật phục vụ cho công tác QLNN đối với DNNN; trình độ của cán bộ QLNN đối với doanh
nghiệp. Chẳng hạn: nếu một nhà nước quan niệm nên tạo sự chủ động cao cho doanh nghiệp thì việc xây
dựng văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý cũng được thực hiện theo hướng tạo sự chủ động cho doanh
nghiệp, bộ máy quản lý gọn nhẹ, chấm dứt sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp...

11


- Sự hiệu quả của bộ máy QLNN đối với DNNN. Hoạt động QLNN đối với DNNN phụ thuộc vào tổ
chức bộ máy quản lý. Nếu bộ máy quản lý được tổ chức tốt, bố trí hợp lý, khoa học sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật. Ngược lại, bộ máy quản lý cồng
kềnh, chồng chéo giữa các cơ quan quản lý sẽ làm cản trở sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trình
độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ QLNN đối với doanh nghiệp cũng là một trong những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới cơng tác QLNN đối với doanh nghiệp. Bởi vì, bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp là cơ quan
trực tiếp tiến hành hoạt động quản lý doanh nghiệp. Do đó, sự am hiểu của cán bộ quản lý về ngành nghề lĩnh
vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng nắm bắt tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới việc cán bộ quản lý đó có phân tích và đưa ra được những kết luận đúng đắn hay khơng, có
dự thảo ra được những chính sách quản lý đúng đắn hay khơng. Thêm vào đó, phẩm chất đạo đức của cán bộ
quản lý sẽ quyết định việc họ có thực hiện quản lý đúng theo lương tâm trách nhiệm hay không.

- Đội ngũ cán bộ quản lý DNNN. Thực tế hoạt động của DNNN thời gian qua cũng cho thấy, việc
giao các bộ, ngành, địa phương làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN có những điểm chưa phù hợp.
Cơ chế này còn bộc lộ khiếm khuyết, hạn chế hiệu quả trong thực hiện quyền chủ sở hữu, quản lý và sử dụng
vốn, tài sản nhà nước cũng như công tác cán bộ. Bộ chủ quản vừa làm chức năng QLNN về chuyên môn, vừa
là chủ sở hữu vốn nhà nước, chi phối nhân sự cấp cao của DN, cùng các kế hoạch, quy hoạch, chiến lược
phát triển, nghĩa là "vừa đá bóng, vừa thổi cịi". Do đó, cần tách bạch chức năng QLNN và chức năng đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII, Chính phủ đã quyết
định thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10/2018, mục
tiêu quản lý các tập đồn, TCT có quy mơ lớn, quan trọng thuộc diện chuyển giao từ các bộ, UBND cấp tỉnh
theo quy định của pháp luật. Ðây là giải pháp nhằm tạo đột phá, thay đổi cơ bản trong việc quản lý DN có
vốn đầu tư của Nhà nước, với kỳ vọng bảo đảm công khai, minh bạch trong đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
nhà nước, tăng cường trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước
tại DN; chú trọng phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm, yếu tố gia đình, "sân sau" chi phối hoạt động
DNNN, nhất là trong quá trình đẩy mạnh cổ phần hóa.
- Sự phù hợp của hệ thống luật pháp và khung khổ pháp lý. Để tối đa hố lợi nhuận, các doanh
nghiệp có thể bất chấp những lợi ích chung của tồn xã hội. Để hạn chế mặt tiêu cực đó, bên cạnh “bàn tay
vơ hình”- các quy luật của thị trường cịn có “bàn tay hữu hình”- sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của
nhà nước thể hiện qua những chính sách quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, qua hệ thống pháp luật...Các
chính sách quản lý của nhà nước trực tiếp tác động tới hoạt động QLNN đối với doanh nghiệp. Một hệ thống
chính sách quản lý đúng đắn, đầy đủ sẽ đem lại hiệu quả quản lý cao và ngược lại, một hệ thống chính sách
quản lý chưa đầy đủ, khơng đồng bộ, cịn thiếu sót sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản lý.
- Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan để thực thi chính sách. Hiện nay, cơ chế được hiểu là cách thức,
theo đó một q trình được thực hiện cịn phối hợp là một phương thức, một hình thức, một quy trình kết hợp
hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy
đủ, hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung. Phối hợp
được thực hiện trong suốt quá trình quản lý, từ hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc tổ chức
thực thi cơ chế, chính sách, pháp luật. Tóm lại, có thể hiểu “cơ chế phối hợp” chính là “phương thức tổ chức
hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm thực
hiện mục tiêu chung”. Trong lĩnh vực QLNN đối với doanh nghiệp, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan quản lý các cấp có vai trị quan trọng, quyết định hiệu quả quản lý, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh

nghiệp là đối tượng quản lý và vừa là mục tiêu của quản lý, cụ thể: i) Thứ nhất, cơ chế phối hợp tạo cơ sở
12


cho việc thi hành luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế. ii) Thứ hai, cơ chế phối góp
phần nâng cao ý thức pháp luật, tơn trọng pháp luật, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
các quyền doanh nghiệp. iii) Thứ ba, cơ chế phối hợp phát huy được các nguồn lực để tập trung và xử lý có
hiệu quả những vấn đề khó khăn, phức tạp trong quản lý đăng ký doanh nghiệp mà đối với một người, một
cơ quan, tổ chức không thể giải quyết được.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở một số địa phương và bài
học cho tỉnh Đắk Lắk
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở một số địa phương
1.3.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An
1.3.1.2. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Đắk Lắk trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước
Một là, đánh giá đúng mức vai trò quan trọng và vị trí của DNNN trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tế chỉ ra rằng, trong quá trình phát triển kinh tế, nhà nước sẽ chỉ giữ lại các DNNN ở một số ngành,
lĩnh vực trong yếu của nền kinh tế, hoặc những lĩnh vực kinh tế tư nhân không thể làm được và không sẵn
sàng tham gia. DNNN mặc dù có vai trị hết sức quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết
công ăn việc làm và bảo đảm an sinh xã hội nhưng cũng cần xây dựng một cơ chế quản lý bình đẳng như các
loại hình DN khác. Kinh nghiệm cho thấy, các DNNN chỉ phát triển lành mạnh và hiệu quả khi chính quyền
đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng thực sự với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác.
Hai là, trong quá trình quản lý DNNN cần hoàn thiện quy định về thẩm quyền, trách nhiệm giám sát,
kiểm tra, thanh tra đối với DNNN theo hướng phân định rõ thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN.
Rà soát, sửa đổi quy định về giám sát DNNN theo hướng quy định hoạt động giám sát DNNN tập trung vào
việc theo dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở
hữu do cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm kịp thời nắm bắt, phản
ánh, đánh giá, phát hiện yếu kém, bất cập trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN.
Ba là, phát huy vai trò của xã hội trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN: Cơ quan đại

diện chủ sở hữu, người đứng đầu các cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra tổ chức đầu mối
tiếp nhận các thông tin, phản ánh, khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng
phí trong DNNN; kịp thời xử lý các thông tin, phản ánh, khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN và việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định từ hoạt động
giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN; tăng cường đối thoại, chia sẻ thông tin giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu,
cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra DNNN với các tổ chức chính trị - xã hội, hiệp hội doanh nghiệp,
hiệp hội ngành nghề, cơ quan báo chí về những nội dung liên quan đến hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh
tra DNNN.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh việc CPH các DNNN trên địa bàn, phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa
phương và các Sở, Ban, ngành. Một trong những nội dung trọng tâm của QLNN đối với các DNNN là đổi
mới, sắp xếp, cơ cấu lại các DNNN. Thơng qua tiến trình CPH, các DNNN sẽ được cơ cấu lại để hoạt động
hiệu quả.

13


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong nền kinh tế thị trường, DNNN ln có vai trị vơ cùng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội của mọi quốc gia, Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ cùng với và xu hướng tồn cầu
hóa kinh tế đang diễn ra khá mạnh mẽ. Vì vậy, QLNN đối với DNNN cần có những thay đổi để phù hợp
trong hoàn cảnh mới. Để các DNNN vận động tốt trên thị trường, phát triển đúng hướng và phát huy khả
năng thì cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước.
QLNN đối với DNNN hiện nay tập trung vào một số nội dung cơ bản:
Thứ nhất, xây dựng và thực thi chiến lược, kế hoạch phát triển hệ thống DNNN;
Thứ hai, tổ chức thục hiện các văn bản pháp lý về doanh nghiệp và QLNN đối với DNNN;
Thứ ba, tổ chức bộ máy QLNN đối với DNNN;
Thứ tư, ban hành và thực thi chính sách quản lý DNNN;
Thứ năm, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN trong nền kinh tế để có thể kiểm sốt tốt
nhất hoạt động của các doanh nghiệp, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước tại các DNNN.
Những nội dung phân tích trong Chương 1 là cơ sở lý luận tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, làm rõ

thực trạng QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong Chương 2 cũng như xây dựng phương
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong Chương 3 của
Luận văn.

14


Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN TỈNH
ĐẮK LẮK ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh
2.1.2. Điều kiện kinh tế của tỉnh Đăk Lắk
2.1.3. Về điều kiện xã hội của tỉnh Đắk Lắk
2.2. Thực trạng phát triển của các DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Số lượng và phân bố doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
a) Về số lượng DNNN
b) Về cơ cấu phân bố DNNN trên địa bàn:
2.2.2. Quy mô lao động trong doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.3. Quy mô vốn trong các DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.4. Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3 Thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Xây dựng và thực thi kế hoạch phát triển DNNN
2.3.2. Thực trạng ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3.3. Thực trạng triển khai cơ chế, chính sách trong quản lý doanh nghiệp nhà nước trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3.4. Thực trạng đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3.5. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk
Cơng tác QLNN của chính quyền tỉnh đối với DNNN tại Đắk Lắk hiện nay được thực hiện thơng
qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó thanh tra, kiểm tra là phương thức kiểm soát chủ yếu, quan
trọng của các cơ quan QLNN. Thời gian qua, phương thức này đã mang lại nhiều kết quả tích cực đối với
các DNNN hoạt động trên địa bàn tỉnh.
Trong 5 năm qua, trên địa bàn tỉnh đã có trên dưới 40 DNNN đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra.
Về cơ bản so với giai đoạn trước, số lượt thanh kiểm tra đã giảm xuống, chỉ bằng 82% những năm trước.
Toàn tỉnh có 42 đơn vị thanh tra, kiểm tra bao gồm cả các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn.
Thanh tra tỉnh được UBND tỉnh giao chủ trì, thống nhất với các cơ quan liên quan trong việc phối hợp thanh
tra, kiểm tra doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng, và triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế
hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Quá trình kiểm tra, các cơ quan chuyên ngành đã áp dụng phần mềm “Hệ thống quản lý kế hoạch
thanh tra, kiểm tra trên địa bàn tỉnh". Qua đó, ngành Thanh tra của tỉnh Đắk Lắk đã phát hiện một số DNNN
có nhiều đơn vị vào thanh tra, kiểm tra trùng lặp. Từ đó, Thanh tra tỉnh đã đề nghị các cơ quan thanh tra,
kiểm tra phối hợp thành các đoàn thanh tra, kiểm tra, giảm được gánh nặng cho các DNNN. Các đơn vị
thanh tra, kiểm tra thực hiện việc cập nhật kết quả thực hiện thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp lên hệ thống
quản lý kế hoạch thanh tra, kiểm tra trên địa bàn tỉnh.
15


Thời gian qua, Thanh tra tỉnh đã thực hiện nghiêm Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp để khắc phục những bất cập trong
triển khai, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động. Qua đó, Thanh tra tỉnh đã phối hợp với các Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Thông tin và Truyền thông điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra đồng thời tham mưu
UBND tỉnh tổ chức các buổi tập huấn, tuyên truyền về thực hiện Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp nói
chung và DNNN nói riêng trên địa bàn đã yên tâm sản xuất kinh doanh.
2.3.6. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước đối với DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Công tác QLNN đối với các DNNN là thẩm quyền và trách nhiệm của cả chính quyền trên địa bàn
tỉnh bao gồm cả HĐND, UBND, các cơ quan chuyên môn của tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khối

Các cơ quan và DNNN tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, HĐND và UBND tỉnh đã ban hành các văn bản pháp lý
hướng dẫn, định hướng, điều tiết cho hoạt động của các DNNN, cả về phương hướng sản xuất kinh doanh,
hỗ trợ sản xuất kinh doanh trong thời kỳ khó khăn, tái cơ cấu chuyển đổi mơ hình hoạt động của DNNN;
cịn các cơ quan chun mơn của tỉnh quản lý các DNNN theo từng lĩnh vực chuyên môn thuộc thẩm quyền,
chức năng, nhiệm vụ của mình. Sở Tài chính theo dõi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
DNNN và đóng vai trị đại diện phần vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp; Sở Kế hoạch Đầu tư xây
dựng các kế hoạch về đầu tư, đấu thầu, thẩm định liên quan đến hoạt động đầu tư của các DNNN; các Sở
Lao động, Nông nghiệp, Công nghiêp, Thương mại… giám sát và điều tiết hoạt động của các DNNN theo
từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể, căn cứ vào các quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó, các DNNN trên địa
bàn tỉnh cũng ln nhận được sự quan tâm, lãnh đạo về tư tưởng của Đảng ủy Khối Các cơ quan và DNNN
tỉnh Đắk Lắk.
Có thể khẳng định rằng, về cơ bản bộ máy QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh đã phát huy tốt
vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò điều tiết, quản lý, hỗ trợ của công tác QLNN đối vơi các DNNN trên địa
bàn tỉnh. không ngừng củng cố, xây dựng và kiện toàn hoạt động của DNNN vừa mang lại hiệu quả sản
xuất kinh doanh, vừa là công cụ vật chất đắc lực của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế, khẳng định vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Bộ máy QLNN đã thể hiện tốt vai trò vai trò vừa là “huấn luyện viên” vừa là “trọng tài” của
DNNN trên địa bàn, đã chỉ đạo những biện pháp, những cơ chế để tham mưu, tháo gỡ những khó khăn cho
các DNNN, để các doanh nghiệp tập trung phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào sự phát triển chung trên
địa bàn tỉnh trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 vừa qua
2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.4.1. Những kết quả đã đạt được
Một là, các DNNN trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã có đóng góp quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh, khẳng định vai trò then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế
nhà nước. Nhiệm kỳ vừa qua, các DNNN sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực nông - lâm - thủy sản,
công nghiệp – xây dựng thương mại, dịch vụ, du lịch… tiếp tục có sự phát triển ổn định. Trong đó, hoạt
động kinh doanh xăng, dầu và khí đốt bảo đảm chất lượng, ngày càng khẳng định được uy tín thương hiệu,
góp phần quan trọng vào ổn định thị trường, đóng góp cho ngân sách địa phương. DNNN sản xuất, kinh
doanh phân phối điện ln duy trì hoạt động hiệu quả, bảo đảm 100% xã và trên 96% số hộ dân nông thôn
16



trong tỉnh được sử dụng nguồn điện ổn định. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm đạt 10%/năm và tổn
thất điện năng giảm đáng kể. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung cấp nước trong tỉnh cũng đã có nhiều cố
gắng bảo đảm nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân và phục vụ hiệu quả nhu cầu sản xuất. Hiệu quả của
công tác QLNN trước hết thể hiện ở kết quả hoạt động của các DNNN đóng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Hai là, thời gian qua, số lượng DNNN đã giảm mạnh cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, cổ phần hóa,
thối vốn nhà nước tại DNNN. Mặc dù chỉ chiếm gần 0,8% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản
xuất, kinh doanh, nhưng các DNNN vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, chiếm khoảng
25,78% tổng số vốn sản xuất, kinh doanh; 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh
nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh; quản lý, khai thác phần lớn tài sản thuộc sở hữu tồn dân
như khống sản, tài ngun, kết cấu hạ tầng một số ngành then chốt,...
Ba là, các DNNN đang giữ vai trò chi phối nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế.
Trong ngành viễn thông, thơng tin, liên lạc, Tập đồn Cơng nghiệp - Viễn thơng Qn đội (Viettel) và Tập đồn
Bưu chính Viễn thơng Việt Nam (VNPT) giữ vai trò chi phối. Viettel cũng là doanh nghiệp đầu tư hiệu quả và có
uy tín ra một số nước. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nhà nước lớn
là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
(Vietinbank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam (Agribank) với tổng tài sản và dư nợ tín dụng chiếm trên 50% tồn hệ thống ngân hàng,
đóng vai trị bảo đảm cung ứng kịp thời nguồn vốn để phát triển kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng hoạt
động sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng là lực lượng tiên phong thực hiện các chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam về lãi suất, tỷ giá nhằm giữ ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống tín dụng ngân hàng; là cơng
cụ hỗ trợ dẫn dắt thị trường và góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Bốn là, DNNN có vai trị lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích. Nhiều TĐKT, TCT
nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ an ninh - quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát
triển kinh tế với bảo đảm an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Các DNNN cũng đóng vai trị quan trọng
trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là kết cấu
hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông.
2.4.2. Một số hạn chế, yếu kém cịn tồn tại trong cơng tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Thứ nhất, thực tế, hiện nay DNNN vẫn đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện các
chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp nắm các nguồn lực quan trọng và
giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả thực hiện vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà DNNN là nòng cốt chưa rõ. Trong một số lĩnh vực, DNNN chưa thể hiện rõ
vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển,
thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. Vai trò của DNNN trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân,
phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nổi bật.
Việc DNNN tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục vụ an ninh - quốc phịng có kết quả đáng ghi
nhận, song thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm
giữ.
17


Thứ hai, hiện nay đang tồn tại những khó khăn trong thực hiện quản lý vốn nhà nước tại DNNN trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, nhất là những vướng mắc trong thực hiện sắp xếp DNNN thuộc tỉnh quản lý; các vấn
đề về quỹ đất, vốn điều lệ khi thành lập và điều chỉnh vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp thực hiện cổ phần hóa thuộc trung ương quản lý … Hiện tại, tỉnh Đắk Lắk chưa tiến hành rà soát lại
tất cả các đề án tái cấu trúc của các DNNN theo yêu cầu của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước để tiếp tục điều
chỉnh, bổ sung phù hợp với những yêu cầu mới, gắn tái cấu trúc DNNN với yêu cầu thị trường tại địa
phương, chủ động đề xuất hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, như tăng cường quyền tự
chủ của doanh nghiệp, các vấn đề trong đầu tư phát triển, sử dụng vốn, xử lý vấn đề liên quan đến nguồn
nhân lực, đất đai…
Thứ ba, Theo quy định hiện hành, vướng mắc lớn nhất hiện nay của DNNN là trong nền kinh tế thị
trường phải hội tụ nhiều điều kiện, qua nhiều bước đi, theo nguyên tắc lấy cạnh tranh làm động lực phát triển.
Nhưng nhiều tập đồn, TCT nhà nước ở Việt Nam lại được hình thành từ mệnh lệnh hành chính với “cơng
thức” ghép nhỏ thành lớn. Bởi vậy, khi đối mặt những yếu tố khơng thuận, cạnh tranh gay gắt và khó khăn,
cùng những yếu kém nội tại, một số đơn vị đã thất bại. Những thất bại này đang trở thành thách thức lớn, nếu
khơng muốn nói là lực cản đối với q trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN (DNNN)
hiện nay.
Thứ tư, những vướng mắc trong công tác thanh kiểm tra doanh nghiệp

Hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp cũng cho thấy rất nhiều hạn chế, bất cập như: Nội dung,
phạm vi thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chưa rõ ràng, chưa phù hợp, chưa sát với thực tế, có nơi, có lúc cịn
vượt khỏi phạm vi thẩm quyền quản lý; hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chưa bảo đảm tính cơng
bằng, cơng khai, minh bạch, thời gian thanh tra, kiểm tra còn kéo dài gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp;
việc ban hành kết luận thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp còn chậm, đặc biệt còn chưa làm rõ được vi phạm
của doanh nghiệp, chưa kiến nghị được biện pháp xử lý vi phạm cụ thể; vẫn còn những biểu hiện của tiêu
cực, nhũng nhiễu trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Những bất cập, hạn chế trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như nhận thức chưa
đúng và đầy đủ, quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế, q trình tổ chức thực hiện cịn nhiều bất cập.
Những bất cập chủ yếu trong quá trình tổ chức thực hiện có thể kể đến là: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đối
với hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung và thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ở một số bộ, ngành địa
phương còn chưa sát sao, quyết liệt, có nơi, có lúc cịn có tư tưởng cục bộ, không sẵn sàng phối hợp với các
cơ quan Nhà nước có liên quan khác; trình độ chun mơn, ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ của một
bộ phận cơng chức, thanh tra viên, kiểm tra viên cịn yếu kém, kỷ luật công vụ chưa nghiêm, chưa bảo đảm
sự công bằng; sự kết nối và chia sẻ thông tin trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung, trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói riêng là điểm mấu chốt trong quá trình phối hợp giữa các cơ quan có
thẩm quyền thanh tra, kiểm tra cịn chưa được thực hiện tốt. Cơ sở dữ liệu về hoạt động thanh tra, kiểm tra
nói chung, hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói riêng cịn thiếu hụt. Một số giải pháp đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp trong thời gian tới
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
18


a) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk còn nhiều khó khăn so với các địa
phương trên cả nước, ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và công
tác quản lý DNNN trên địa bàn tỉnh nói riêng. Trong giai đoạn 2015 – 2020, nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế
- xã hội chưa đạt so với mục tiêu đặt ra trong kế hoạch phát triển của tỉnh. Chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu
của tỉnh đạt thấp, chỉ đạt 2.948 triệu USD, bằng 78,3% kế hoạch; một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất

khẩu lớn gặp nhiều khó khăn về thị trường và khả năng cạnh tranh. Nguyên nhân mấu chốt là chất lượng một
số mặt hàng chủ lực của tỉnh (chủ yếu là nông sản) chưa cao, chưa tạo ấn tượng và niềm tin cho nhà nhập
khẩu, khả năng cạnh tranh thấp và dần dần sẽ mất thị phần, mất thị trường xuất khẩu. Về quy mô tái đầu tư
phát triển kinh tế của tỉnh, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 tăng bình qn
24,42%/năm, khơng đạt mục tiêu đề ra. Điều này cho thấy một sự ngại ngùng, lúng túng trong việc tìm kiếm
phương thức, lĩnh vực tái đầu tư phát triển của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, về cơ sở hạ tầng của tỉnh còn nhiều bất cập, ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của
các DNNN. Hạ tầng giao thông của tỉnh vẫn là một trong những hạn chế lớn. Tỷ lệ nhựa hóa hoặc bê tơng
hóa đường tỉnh, huyện và xã chưa đạt kế hoạch đề ra (đường tỉnh đạt 96,01%, đường huyện đạt 91,57%, mặc
dù 100% số xã có đường nhựa đến trung tâm nhưng đường xã mới đạt 64,96%); chất lượng của hệ thống
đường giao thông của tỉnh từ xấu đến rất xấu, gây hỏng hóc xe cộ, tai nạn nguy hiểm, ảnh hưởng rất lớn đến
các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, hệ thống cầu cống
trên các tỉnh lộ đến đường xã phần nhiều là đã xuống cấp; đường liên huyện còn rất hạn chế khiến các huyện
giáp nhau, gần nhau về mặt địa lý nhưng đi đến trung tâm nhau thì phải đi đường vịng rất xa. Hạ tầng phải
đi trước một bước, ưu tiên đầu tư hạ tầng, nhất là đường giao thơng thì mới dẫn dắt, kích thích phát triển các
lĩnh vực khác được.
Thứ ba, tình trạng phá rừng ở Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung đang là vấn đề nhức nhối
hiện nay, tác động không nhỏ đến các DNNN trong lĩnh vực lâm nghiệp. Giai đoạn 2015 - 2020, độ che phủ
rừng chỉ đạt 38,74%, giảm 0,5% so với năm 2015, diện tích rừng trồng khơng đạt kế hoạch. Tình trạng phá
rừng trái phép vẫn tiếp tục diễn ra; xử lý sai phạm trong việc để mất rừng, lấn chiếm đất rừng cịn chậm.
Trong khi đó, những năm 80, 90 của thế kỷ 20, tỷ lệ che phủ rừng tự nhiên của tồn Tây Ngun và Đắk Lắk
trên 50%, nay tính cả rừng trồng độ che phủ vẫn chưa đạt 40%..
b) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trình độ hiểu biết, nhận thức của người dân trên địa bàn tỉnh còn thấp, ý thức chấp hành
pháp luật của người dân còn kém. Thời gian qua, mặc dù các sở, ban, ngành, địa phương đã có nhiều nỗ lực
trong việc sắp xếp, đổi mới DNNN do tỉnh quản lý, tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện vẫn cịn
gặp khơng ít khó khăn, một vướng mắc không nhỏ là một số công ty (chủ yếu là công ty lâm nghiệp) quản lý,
sử dụng đất chưa chặt chẽ, đất của doanh nghiệp bị người dân xâm canh, lấn chiếm, tranh chấp. Toàn tỉnh có
15 cơng ty lâm nghiệp quản lý trên 195.193 ha rừng, đất lâm nghiệp, trung bình mỗi cơng ty quản lý khoảng
13.500 ha, mỗi nhân viên quản lý, bảo vệ khoảng 1.000 ha đất, trong khi đó việc sản xuất kinh doanh của các

cơng ty gặp nhiều khó khăn, số lượng dân di cư ngoài kế hoạch đến Đắk Lắk lại lớn (khoảng hơn 59.700 hộ
với 290.680 khẩu) đã trở thành một gánh nặng. Bên cạnh đó, các cơng ty nông, lâm nghiệp chưa thống nhất
19


được diện tích đất giao về địa phương quản lý nên chậm phê duyệt phương án sử dụng đất, điển hình như
Cơng ty TNHH MTV Lâm nghiệp Thuần Mẫn, do phương án sử dụng đất điều chỉnh nhiều lần chưa xong
nên việc chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên đến nay vẫn chưa hồn thành.
Thứ hai, trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý của đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan
chuyên môn của tỉnh chưa đồng đều, đặc biệt trong lĩnh vực cổ phần hóa, tái cơ cấu các DNNN. Chẳng hạn,
trong q trình xây dựng phương án cổ phần hóa ở Cơng ty TNHH MTV Cà phê - Ca cao Tháng 10 thì số
lượng cổ phần tương ứng với giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp lại không đủ bán ưu đãi cho
người lao động nên đã làm cho tiến độ cổ phần hóa kéo dài. Trong khi đó, 3 công ty thuộc diện giải thể đang
chậm trễ do đối chiếu, thu hồi nợ chậm. Ngoài ra, áp lực về công nợ cũng khiến cho việc sắp xếp, đổi mới
DNNN gặp nhiều khó khăn. Dư nợ của 25 cơng ty nông – lâm nghiệp thuộc diện sắp xếp, đổi mới tại các
ngân hàng thương mại là trên 452.901 triệu đồng, trong đó, dư nợ ngắn hạn là 224.354 triệu đồng, chiếm
49,54%; dư nợ trung và dài hạn là 228.547 triệu đồng, chiếm 50,46%.
- Những hạn chế trong công tác thanh kiểm tra doanh nghiệp xuất phát từ những bất cập trong các
quy định pháp lý hiện hành. Thứ nhất, Quy định của pháp luật hiện hành không phân biệt rõ hoạt động thanh
tra chuyên ngành và hoạt động kiểm tra chuyên ngành. Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của
Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh
tra chuyên ngành thực chất đã sử dụng thuật ngữ “thanh tra chuyên ngành” để đặt tên cho hoạt động kiểm tra
chuyên ngành của các cơ quan QLNN. Quy định này đã làm cho việc phân biệt giữa hai hoạt động “thanh tra
chuyên ngành” và “kiểm tra chuyên ngành” càng trở nên phức tạp hơn. Sau khi có Nghị định số
07/2012/NĐ-CP, hàng loạt các nghị định về tổ chức hoạt động thanh tra của các ngành, lĩnh vực được ra đời,
xuất hiện thêm nhiều cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành không nằm trong quy định ban
đầu của Nghị định 07. Hơn nữa, những quy định hiện hành về thẩm quyền thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp
tạo ra sự chồng chéo, trùng lặp về thẩm quyền thanh tra, kiểm tra giữa các ngành, các cấp, đặc biệt là trong
hoạt động kiểm tra chuyên ngành”. Theo quy định pháp luật hiện hành, thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp
được xác định trong các văn bản pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm

quản lý về ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp cũng được thể hiện trong các văn
bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến điều kiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tiêu chuẩn, kỹ
thuật, chuyên mơn về ngành, lĩnh vực cụ thể. Điển hình của tình trạng chồng chéo về thẩm quyền có thể kể
đến là lĩnh vực quản lý về an toàn thực phẩm. Trong các lĩnh vực QLNN khác cũng xảy ra tình trạng chồng
chéo về thẩm quyền thanh tra, kiểm tra giữa cơ quan QLNN ở trung ương và cơ quan QLNN ở địa phương,
hoặc giữa các cơ quan QLNN ở địa phương với nhau. Chồng chéo về thẩm quyền thanh tra, kiểm tra bắt
nguồn từ chính sự chồng chéo về thẩm quyền QLNN hiện nay. Chủ trương phân cấp quản lý đã được triển
khai thực hiện ở nước ta, tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn những điểm chưa hợp lý cần tiếp tục được tháo gỡ.
Ngoài ra, những quy định về căn cứ để tiến hành thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp cịn chưa rõ ràng, chưa có
cơ sở. Theo quy định tại Luật Thanh tra năm 2010, hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành
được thực hiện theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc thanh tra đột xuất. Đối với hoạt động kiểm tra,
mặc dù không có quy định chung, song thực tiễn cho thấy các cơ quan có thẩm quyền cũng tiến hành kiểm
tra doanh nghiệp theo kế hoạch và đột xuất. Kiểm tra định kỳ, kiểm tra chuyên đề được thực hiện căn cứ vào
20


kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành và không quá một lần trong một năm về cùng
nội dung đối với một đối tượng kiểm tra. Tuy nhiên, đây chỉ là những quy định chung mang tính chất định
tính nhiều hơn là dựa trên những căn cứ rõ ràng, cụ thể có thể định lượng được. Trên thực tế, căn cứ để tiến
hành thanh tra, kiểm tra phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của cơ quan QLNN

21


TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong những năm qua, số lượng DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ngày một ngày một giảm đi là kết quả
của công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa DNNN. Các DNNN trên địa bàn tỉnh dưới sự lãnh đạo, quản lý của chính
quyền tỉnh đã cố gắng bảo đảm vai trị của mình trong nền kinh tế của tỉnh, sự phát triển khu vực DNNN đã
và đang góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển tỉnh Đắk Lắk trở thành trở thành trung tâm kinh
tế chính trị của vùng Tây Nguyên. Chính quyền tỉnh Đắk Lắk đã rất chú trọng đến công tác QLNN đối với

DNNN trên địa bàn tỉnh, tập trung vào các nhiệm vụ: công tác hoạch định kế hoạch và tạo môi trường pháp lý;
thực thi các quy định, các VBQPPL liên quan đến QLNN đối với DNNN; khuyến khích, hỗ trợ tạo mơi trường
hoạt động cho DNNN ; kiểm tra, thanh tra, hậu kiểm và xử lý vi phạm. Có thể thấy, chính quyền tỉnh Đắk
Lắk đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong công tác QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh. Chương
2 của luận văn đã nêu bật được thực trạng về vai trị của chính quyền tỉnh Đắk Lắk đối với hoạt động và phát
triển của các DNNN ở tỉnh. Với các công tác định hướng, điều tiết, hỗ trợ, giám sát của các cơ quan QLNN ở
tỉnh, DNNN trên địa bàn tỉnh đã khắc phục khó khăn, đi tiên phong trong các chương trình đầu tư vào các
khu vực và lĩnh vực ít sinh lời, tạo sức lan tỏa và động lực phát triển để thu hút các thành phần kinh tế khác
tham gia; đóng góp tích cực vào chương trình CNN, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Các DNNN của tỉnh đã
đóng góp đáng kể vào việc ổn định đời sống của người dân trên địa bàn, không chỉ giúp người nghèo và đối
tượng chính sách có cơ hội nâng cao chất lượng sống, mà còn đảm bảo những điều kiện thiết yếu cho người
dân, như nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, giải quyết việc làm, cho vay phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số, miền núi... Nếu khơng có đầu tư của DNNN, khó có thể cải thiện điều kiện sống của
dân cư, khơi dậy và phát huy tiềm năng của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới

22


Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
CỦA CHÍNH QUYỀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Dự báo tình hình kinh tế vĩ mơ trong nước và xu hướng quốc tế ảnh hưởng đến quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
3.2. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn của
tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025
3.2.1. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ
chế thị trường, thích ứng với xu hướng hội nhập
3.2.2. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước và nâng cao năng lực, phẩm chất
của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước

3.2.3. Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước phải tiến hành đồng bộ với cải
cách cơ chế, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước của chính quyền
tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025
3.3.1. Hồn thiện cơng tác quy hoạch và kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhà nước trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.3.2. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý nhà nước về doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn tỉnh
3.3.3. Thúc đẩy q trình cổ phần hóa, tái cấu trúc DNNN trên địa bàn tỉnh theo lộ trình kế
hoạch
3.3.4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh
3.3.5. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững,
góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
3.3.6. Giải pháp hồn thiện cơng tác thanh kiểm tra đối với các doanh nghiệp nhà nước trên dịa
bàn tỉnh Đắk Lắk
3.3.7. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh đối với doanh nghiệp nhà nước
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, QLNN đối với DNNN được đặt ra tại ; Quyết định
số 612/QĐ-UBND ngày 08/3/2016 của UBND tỉnh, tại hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk
(khóa XVI) trở nên "nóng" hơn bao giờ hết, sau hàng loạt vụ việc cán bộ, đảng viên nắm giữ các chức vụ
quan trọng trong các DNNN "dính chàm". Nhiệm vụ đó địi hỏi chiến lược bài bản, dài hơi trong tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đi đôi với
cơ cấu lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân cấp, phân quyền rõ ràng. Ngoài những tiêu
chuẩn chung được đề ra tại Quy định số 89-QÐ/TW của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định
hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý, người được giao quyền lãnh đạo, quản lý DNNN
cần những tiêu chuẩn có tính đặc thù.
Tạo đột phá trong cơng tác cán bộ ở DNNN, một số đơn vị đã nghiên cứu, từng bước triển khai
thực hiện thí điểm chủ trương thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, QLNN; người đứng đầu lựa chọn,
23



giới thiệu cán bộ quy hoạch để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải
chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy
hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình;
xây dựng quy định chế tài xử lý cán bộ khơng hồn thành nhiệm vụ…
Trong DNNN phải thực hiện Quy định số 69-QÐ/TW của Ban Bí thư, tất cả cán bộ có chức, quyền
trong DNNN phải là cấp ủy viên, do đó đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Ðảng. Ðồng thời, tăng cường
phối hợp các cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán... nhằm tạo rào cản hữu hiệu cảnh báo, răn
đe, ngăn chặn, phịng ngừa tha hóa quyền lực trong DNNN. Từ thực tế các vụ việc tiêu cực xảy ra trong các
DNNN gần đây cho thấy, cơ chế kiểm soát nội bộ hoạt động khơng hiệu quả thậm chí bị vơ hiệu hóa trong
DN. Hạn chế này cần được khắc phục triệt để theo hướng, ban kiểm soát, kiểm soát viên phải thật sự là
công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN, hoạt động độc lập và không chịu sự lãnh
đạo, chỉ đạo hoặc chi phối về lợi ích của HÐQT/HÐTV và ban điều hành DN; cần thiết lập các hệ thống
quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phịng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp
luật, rủi ro, xung đột lợi ích, lợi ích nhóm, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tiêu cực, tham nhũng.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm tính minh bạch, cơng khai của DNNN và trách nhiệm giải trình của người
quản lý DN, nhất là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn của Nhà nước, chi phí, kết quả kinh doanh,
phân phối lợi nhuận, công tác cán bộ, các giao dịch lớn, giao dịch với người có liên quan đến người quản lý,
tài sản và thu nhập của người quản lý theo các chuẩn mực quốc tế và quy định của pháp luật. Hồn thiện chế
độ kế tốn, kiểm tốn và hệ thống báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Các cấp ủy cần xây
dựng cơ chế để đảng viên và người lao động tham gia giám sát người có chức, quyền trong DNNN; cụ thể
hóa và thực hiện đúng quy định, quy chế về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nghiêm túc chế độ
kê khai tài sản của cán bộ hằng năm… Tuy nhiên, nếu khơng có sự sâu sát của cấp ủy, sự tự giác, nghiêm túc
thực hiện của cán bộ, đảng viên thì các chế tài cũng chỉ là những quy định có hiệu lực trên giấy, khi hầu hết
các trường hợp vi phạm chỉ được xem xét nếu có đơn thư tố cáo chính thức.
Ðể nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, quản lý DNNN đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, nâng cao tính
Ðảng, ý thức tuân thủ pháp luật; lãnh đạo, điều hành DNNN sản xuất, kinh doanh hiệu quả, đạt từ 70 đến 80%
số cán bộ có khả năng làm việc trong cơ chế thị trường có định hướng XHCN, như mục tiêu Nghị quyết T.Ư
7, khóa XII và hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (khóa XVI) đề ra, cần sự vào cuộc tập trung,
đồng bộ, quyết liệt và kiên trì của các cơ quan Ðảng, Nhà nước. Thế nhưng, trước hết vẫn là sự tự giác rèn

luyện, phấn đấu, tu dưỡng của chính những cán bộ, đảng viên, người được chọn và có triển vọng được chọn
(quy hoạch) vào các vị trí lãnh đạo, điều hành DNNN. Khi người được lựa chọn nhận thức đúng, đủ, ý thức
trách nhiệm cao, trui rèn khả năng tự miễn trước mọi cám dỗ tầm thường, là một giải pháp hữu hiệu, có tác
dụng ngăn ngừa suy thoái từ bên trong trước khi phải đưa ra các chế tài xử lý.
3.4. Một số kiến nghị, đề xuất đối với Đảng và nhà nước Trung ương
Một là, sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp
luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Nghiên cứu, rà soát sửa
đổi cơ chế quản lý, giám sát và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện sở hữu nhà nước,
hồn thiện mơ hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp một
cách rõ ràng hơn, phù hợp với bối cảnh, tình hình hiện nay, làm cơ sở cho các DNNN hoạt động, tận dụng
được thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN.
Hai là, tăng cường vai trò và tôn trọng quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu và quyền của doanh
nghiệp theo quy định. Hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo quyền chủ động lớn hơn, trách nhiệm rõ ràng
24


hơn cho tập đoàn, TCT nhà nước, kể cả chế độ lương, thưởng gắn với kết quả kinh doanh, cũng như khung
mức độ rủi ro trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để tạo tâm lý an tâm và thúc đẩy tìm kiếm hiệu quả đầu tư.
Ba là, rà sốt, xây dựng cơ chế, chính sách hoặc các quy định cụ thể để tách bạch việc thực hiện sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ cơng ích do Nhà
nước đặt hàng cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, thực hiện việc giám sát và đánh giá doanh nghiệp trong các
hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng chuẩn mực quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp có vốn nhà nước bình đẳng như các doanh nghiệp khác; tránh việc can thiệp của nhiều cơ quan quản
lý vào hoạt động kinh doanh đơn thuần của doanh nghiệp.
Bốn là, xây dựng và hồn thiện khn khổ pháp lý (luật, pháp lệnh) đồng bộ để thực hiện xử lý các
doanh nghiệp, dự án thua lỗ. Cần nghiên cứu để có quy định cụ thể ưu tiên cho các cơng trình, dự án trọng
điểm quốc gia, có sức lan tỏa lớn, các ngành, lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ lâu dài; củng cố, phát triển một
số TĐKT nhà nước có quy mơ lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một
số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Năm là, rà sốt và hồn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện

phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp. Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả
các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia về DNNN; có chế tài xử lý nhằm bảo đảm tính hiệu quả trong việc phối hợp quản lý, sắp xếp doanh
nghiệp giữa các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tốn kịp thời phát hiện các vi
phạm, xử lý nghiêm minh đối với các vi phạm tạo sự “răn đe” để nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp. Tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, báo chí và của nhân dân đối
với hoạt động của DNNN.
Sáu là, nâng cao hiệu quả hoạt động và quản trị, sức cạnh tranh của DNNN: Rà soát, xác định, tập
trung vào kinh doanh những ngành, nghề kinh doanh chính và những ngành, nghề liên quan phục vụ trực tiếp
ngành, nghề kinh doanh chính. Xây dựng lộ trình và thực hiện thối vốn tại các doanh nghiệp có vốn góp,
bảo đảm cơng khai, minh bạch, đem lại lợi ích cao nhất cho Nhà nước. Tiếp tục đổi mới quản trị doanh
nghiệp; rà soát điều lệ hoạt động, quy chế quản lý nội bộ, làm việc, phương pháp quản trị tại doanh nghiệp.
Nghiên cứu cơ chế đối với ban kiểm soát, kiểm soát viên theo hướng hoạt động độc lập, khơng để xảy ra tình
trạng thao túng toàn bộ hoạt động doanh nghiệp, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm soát nội bộ
doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp phải bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật, nguyên tắc thị
trường, nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, nguyên tắc quản lý tài chính.
Bảy là, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với DNNN trong thời gian tới. Nghiên cứu
hoàn thiện mơ hình tổ chức đảng, mơ hình các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp. Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ chủ chốt doanh nghiệp, nâng cao tính đảng và ý thức tuân thủ
pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao vai trò
lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong DNNN đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng
Đảng./.

25


×