Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thành tựu kinh tế Việt Nam 2015 và những thách thức trong giai đoạn 2016-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.23 KB, 9 trang )

THÀNH TỰU KINH TẾ VIỆT NAM 2015
VÀ NHỮNG THÁCH THỨC TRONG GIAI ĐOẠN 2016-2020
GS.TS. Trần Minh Đạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Tóm tắt
Năm 2015 đã trơi qua, bức tranh kinh tế Việt Nam, nhìn một cách khái
qt, có nhiều gam màu sáng (thành công) đáng ghi nhận, nhưng chưa phải đã
hết gam màu tối (thách thức) và do đó, phía trước cũng cịn nhiều thách thức liên
quan đến cả triển vọng ngắn và dài hạn. Bài viết này tập trung vào nhận diện
những thành công và những thách thức của nền kinh tế Việt Nam hiện nay qua đó
cũng có những gợi ý ở mức độ định hướng cho việc khắc phục - vượt qua những
thách thức để các cơ quan của Đảng và Nhà nước có thể tham khảo trong hoạch
định chính sách và đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát
huy thành tựu năm 2015 tiếp tục đà tăng trưởng hoàn thành mục tiêu do Đại hội
XII của Đảng đặt ra.

1. Những thành công nổi bật
Trước hết, phải kể đến sự tăng trưởng trên mức mong đợi của nền kinh tế.
Theo thông tin mới nhất từ Tổng cục Thống kê, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
năm 2015 đạt 6,68% (Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 311 (4812) - thứ Ba 29/12/2015). Mức tăng này vượt xa so với mục tiêu đề ra là 6,2%. Mức tăng
trưởng này cũng là mức cao so với thế giới và khu vực.
Thành công thứ hai phải kể đến là mức lạm phát thấp nhất trong vịng 14
năm qua. Mức lạm phát khơng chỉ ở dưới ngưỡng chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội kỳ
vọng (dưới 5%) mà theo công bố mới nhất trong buổi họp báo của Tổng cục
Thống kê (24/12/2015), con số này năm nay chắc chắn khơng đến 1%. Thậm chí
mức lạm phát năm 2015 còn thấp hơn cả mức 0,8% của năm 2001, cao hơn mức
“âm” 0,6% của năm 2000 và mức 0,1% của năm 1999.
Hai con số, hai thành công trên nói lên nhiều điều. Cụ thể, tương quan giữa
mức tăng trưởng kinh tế và lạm phát của năm 2015, là năm thứ 2 khẳng định:
Không nhất thiết phải đánh đổi lạm phát cao để có được tăng trưởng kinh tế cao.


75


Năm 2014, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế là 6,28%, trong khi tỷ lệ
lạm phát chỉ ở mức 1,84%. Năm nay sự tương quan của những con số này là:
GDP trên 6,5%, mà lạm phát chỉ ở mức 0,63% (Theo thông báo của Tổng cục
Thống kê, Báo Thanh niên số 359 (7307) Thứ sáu 25.12.2015). Quan hệ của 2
con số này cho phép các cơ quan lãnh đạo và điều hành nền kinh tế đất nước cũng
như các nhà khoa học Việt Nam có thêm bằng chứng thực tiễn khẳng định rằng
để có tốc độ tăng trưởng cao khơng nhất thiết phải có lạm phát cao và càng
không nhất thiết tốc độ lạm phát phải cao hơn tốc độ tăng trưởng. Từ bằng chứng
thực tiễn này cộng thêm bằng chứng đối nghịch là lạm phát cao cũng khơng thể
có tăng trưởng cao của những năm 2008 (23% và 5,6%), năm 2012-2013 (trên
6% và 5 - 6%). Bằng chứng thực tiễn cho quan hệ này là điều hết sức có ý nghĩa
cho chỉ đạo điều hành nền kinh tế nước ta trong tương lai. Về mối tương quan
này, cũng cần phải nói thêm rằng, theo kinh nghiệm của các nước NICS và nhiều
quốc gia trên thế giới, giữ cho được lạm phát thấp là điều có ý nghĩa tiên quyết
và là điều luôn phải ưu tiên. Lạm phát là một chỉ tiêu hết sức tổng hợp về tính ổn
định và là chuẩn mực của tính tốn hiệu quả không chỉ của điều hành kinh tế vĩ
mô mà cả của hoạt động kinh doanh. Lạm phát thấp trước hết là một động lực rất
lớn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần giảm chi phí đầu vào, nâng cao năng
lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Lạm phát thấp cũng phản ánh sự ổn định
của đồng tiền - ổn định thước đo giá trị của mọi tính tốn và cân nhắc khi ra các
quyết định kinh tế cả về phương diện sản xuất kinh doanh cũng như tiêu dùng,
đặc biệt tạo ra niềm tin đối với điều hành của Chính phủ.
Việc có được mức lạm phát thấp như năm 2015, thực ra có các nguyên nhân
khách quan và chủ quan, có những nguyên nhân ngắn hạn và những nguyên nhân
dài hạn - từ những năm trước đó. Theo lý giải của Tổng cục Thống kê có 5
nguyên nhân chủ đạo làm cho lạm phát năm nay của Việt Nam đạt mức thấp:
Nguồn cung lương thực dồi dào; giá nhiên liệu thị trường thế giới giảm sâu; mức

độ điều chỉnh giá nhóm các mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản lý như y tế, giáo
dục thấp hơn trước; tâm lý của người tiêu dùng ngày nay có sự cân nhắc kỹ càng
hơn; điều hành của Chính phủ và NHNN đã linh hoạt và chủ động hơn. Đây là
những nguyên nhân xác đáng, nhưng liệu đã bao quát hết chưa? Theo chúng tôi,
thành tựu của năm 2015, chắc chắn phải có những ngun nhân của cả một q
trình liên tục có các Nghị quyết của Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 11/NQCP của Chính phủ “Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội” ngày 24 tháng 02 năm 2011 và

76


được duy trì liên tục trong các chương trình hành động của Chính phủ suốt từ đó
cho đến nay.
Thành tựu trên đây của kinh tế Việt Nam là rất đáng phấn khởi trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu phục hồi rất chậm chạp, ngoại trừ nền kinh tế Mỹ đang
phục hồi trở lại, còn các nền kinh tế lớn của EU, Nhật Bản… vẫn chưa thoát khỏi
suy thoái. Kinh tế Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới mà nền kinh tế
Việt Nam bị phụ thuộc rất nặng nề, năm qua đã thực hiện sự phá giá nhiều lần của
đồng Nhân dân tệ và lại đang rơi vào tình trạng giảm sút đà tăng trưởng, nhưng
nền kinh tế Việt Nam, hầu như, không bị ảnh hưởng mà lại vẫn tiếp tục phục hồi
và tăng trưởng cao là điều rất đỗi tự hào. Nhưng thành tựu và niềm vui trên đây
liệu duy trì đến bao giờ? Năm 2016 và những năm tiếp theo chúng ta sẽ gặp
những thách thức nào? Để trả lời câu hỏi trên không chỉ nhìn vào thực trạng thành
cơng của năm 2015 mà cũng phải nhìn đến cả những thách thức từ những điều
chưa thành công trong suốt nhiệm kỳ 5 năm (2011-2015) trong đó có năm 2015
trong cơng tác điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ.
2. Những thách thức và gợi ý
Trong suốt thời kỳ từ 2011-2015 và năm 2015 việc điều hành kinh tế - xã
hội đất nước của Chính phủ, ngồi gam màu sáng đạt được kết quả như trên, sự
phát triển kinh tế Việt Nam năm 2015 cịn có cả những gam màu tối. Những gam

màu tối này phản ánh qua những thách thức của nền kinh tế mà năm 2016 và
những năm tiếp theo phải tìm giải pháp vượt qua. Dưới đây liệt kê những thách
thức điển hình đang cản trở sự phát triển của đất nước trong ngắn hạn cũng như
dài hạn, đó là:
Một là, vẫn chưa có sự đổi mới đáng kể nào về tư duy lựa chọn cơ sở lý
thuyết của sự phát triển đất nước. Điều này được thể hiện ở chỗ Học thuyết Mác Lê nin vẫn là nền tảng tư tưởng chiếm trọng số áp đảo trong tư duy lãnh đạo sự
phát triển đất nước của đảng cầm quyền ngay trong giai đoạn nền kinh tế của đất
nước chưa thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, mặc dù lựa chọn cơ chế cho sự
phát triển đó là cơ chế thị trường. Như ta đã biết chủ nghĩa xã hội khoa học của
Học thuyết Mác - Lê nin và kinh tế thị trường vốn “như nước với lửa”. Điều này
đã được K.Mác khẳng định trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Chính vì điều này nên tư duy “kế hoạch hóa tập trung” vẫn ăn sâu và phát triển
“bộ rễ cọc” rất chặt chẽ từ việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo và quản lý đất nước cho
đến lãnh đạo và quản lý nền kinh tế. “Nhỏ luôn luôn quyết định to”, “ít quyết
định cho nhiều”, “thiểu số quyết định cho đa số”, “dân chủ hóa trong sự phát
77


triển” vẫn là điều “sa xỉ”. Chúng ta đang phấn đấu để có sự hịa nhập và tương
đồng với nền kinh tế thế giới. Nhưng đồng thời vì e ngại “diến biến hịa bình” vì
sợ “hịa tan”, nên chúng ta vẫn duy trì kiên định sự “dị biệt” với những điều văn
minh của nhân loại. Tôi cho rằng, tránh “diễn biến hịa bình”, tránh “hịa tan” là
hồn tồn đúng đắn và chuẩn mực. Nhưng điều đó có nghĩa là gì? Phải chăng là
chống những cái xấu, những cái tiêu cực, những cái không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của văn hóa Việt Nam…du nhập vào nước ta, cịn những cái gì
thuộc văn minh của nhân loại thì ta cần chủ động khai thác, chủ động hòa nhập.
Về tư duy lựa chọn nền tảng lý thuyết cho sự phát triển đất nước, phải chăng, đã
đến lúc ta phải chọn tất cả những lý thuyết kinh tế văn minh cho sự phát triển
trong đó có Học thuyết Mác- Lê nin. Cịn trọng số dành ưu tiên cho lý thuyết nào
là tùy thuộc vào từng giai đoạn và trình độ phát triển của đất nước. Tư duy lý luận

về sự phát triển nếu được hình thành và thay đổi theo hướng đó chắc chắn sẽ là
“nút thắt” đầu tiên và quan trọng nhất “cởi trói” cho sự phát triển tương lai của
đất nước một cách nhanh chóng và đúng quỹ đạo.
Hai là, kết quả thực hiện ba khâu đột phá chiến lược để phát triển đất nước
chưa được như kỳ vọng. Như ta đã biết, từ năm 2011 trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 Đảng ta đã đề ra ba khâu đột phá chiến lược
là: “(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; (2) Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; (3) Xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ
thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Cho đến nay đã được nửa chặng đường,
nhưng hình hài của các mục tiêu chiến lược, ngồi một số đường bộ cao tốc và
cảng hàng khơng quốc tế Nội Bài (Nhà ga T2) đã hoàn thành, còn rất mờ nhạt.
Về ba khâu trên, trước hết, phải nói đến quan niệm về thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa vẫn là phạm trù còn chưa đạt được sự đồng thuận giữa trường phải
học thuật và trường phái lãnh đạo tối cao của đảng. Ngay trong hàng ngũ lãnh đạo
cao cấp của đảng cũng khơng phải đã có được sự nhất trí hồn tồn, nếu cho phép
bày tỏ cơng khai và tự do chính kiến. Có nhiều vấn đề mang tính quy luật phổ
biến của kinh tế thị trường thế giới, nhưng giới học thuật Việt Nam vẫn “bất lực”
trước giới lãnh đạo tinh hoa của đất nước trong việc thuyết phục để họ thừa nhận
cơng khai về những luận giải của mình, mà chỉ nhận sự “phủ nhận công khai”
78


bằng cách vẫn giữ nguyên những tư duy mang tính “bảo tồn” về mơ hình chủ
nghĩa xã hội xơ-viết hoặc chấp nhận rất từ từ mang tính “nhỏ giọt” qua nhiều kỳ
Đại hội, với lý do “chưa đủ luận cứ”. Như ta đã biết, kinh tế thị trường chỉ có thể

ra đời và phát triển, phát huy được tính ưu việt vốn có trên nền tảng của sở hữu tư
nhân và kinh tế tư nhân. Chính điều này đã được thể hiện trong tư tưởng của Học
thuyết Mác - Lê nin, được chứng minh bằng lịch sử phát triển hàng trăm năm của
kinh tế thị trường thế giới, bằng nhiều bằng chứng trong 30 năm đổi mới của đất
nước, nhưng chưa bao giờ được thừa nhận chính thức cơng khai và dứt khoát
trong các văn bản của đảng. Các văn kiện của đảng vẫn “kiên định bảo tồn” tư
duy: Kinh tế thị trường ở Việt Nam dứt khoát phải duy trì “hồn cốt” chủ nghĩa xã
hội, mà đã mang trong mình đặc trưng xã hội chủ nghĩa, thì kinh tế nhà nước
(trước đây là kinh tế quốc doanh) phải giữ vai trị chủ đạo, mà thực chất là “ẩn ý”
cơng hữu phải nền tảng, bất chấp thực tế trong 30 năm đổi mới Việt Nam đã có
những doanh nghiệp tư nhân mà chỉ có nó mới đem lại những sản phẩm, dịch vụ
tầm cỡ quốc tế. Trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, kinh tế tư
nhân chỉ được coi là một trong những động lực quan trọng và được xếp ở vị trí
thứ tư trong các thành phần kinh tế. Chính vì quan niệm như vậy nên một phần
rất lớn các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, mặc dù là sự đóng góp chung của
mọi chủ thể kinh tế, nhưng vẫn chỉ được đầu tư cho sự phát triển theo cơ chế “xin
- cho” của kinh tế nhà nước - nguồn gốc của tham nhũng và lãng phí “khơng
phanh”. Dù sớm hay muộn khơng phát triển kinh tế tư nhân đủ tầm cỡ, khơng thể
có cạnh tranh lành mạnh và hệ lụy là khơng có kinh tế thị trường phát triển và
hiện đại.
Về cải cách hành chính vẫn là một “cái phanh” quá lớn đối với sự phát triển
kinh tế xã hội. Báo chí gần đây viết khá nhiều về tình trạng người ta bỏ ra hàng
trăm triệu đồng để “chạy cho bằng được” suất biên chế với mức lương “èo uột”.
Có phải người ta mua “cái danh, cái tiếng” không? Theo tôi là không. Có thể suy
đốn rằng, người ta vào biên chế rồi tìm cách thu lại bằng những con đường
“ngồi lương”. Ở Việt Nam hiện nay, mọi nghề nghiệp có được bằng con đường
“đầu tư” ắt phải có “con đường và cơ chế” thu để bù đắp chi phí và sinh lời. Chỉ
có cơ chế hiện hành “cố tình” khơng phát hiện hoặc không muốn phát hiện mà
thôi. Đây là gốc dễ của vấn đề trì trệ, khó dễ trong thực thi công vụ, buộc người
dân và doanh nghiệp phải dùng đến sức mạnh của cơ chế “phong bì, bơi trơn”,

nếu muốn được việc. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng cải cách
chậm chạp và rất khó đối với thủ tục hành chính ở nước ta hiện nay. Trong thời
gian gần đây, Chính phủ kiên quyết nên có đổi mới được một bước về thủ tục
79


hành chính thuế và hải quan, nhưng người dân và doanh nghiệp cịn phải chịu bao
nhiêu “cái gơng” khác của tất cả các dịch vụ thuộc về thủ tục hành chính và đến
bao giờ chính phủ mới cải cách hết được được, nếu khơng có cơ chế cơng khai,
dân chủ, minh bạch trong tuyển dụng, giám sát mức độ hoàn thành cơng việc và
đào thải cán bộ hành chính yếu kém và biến chất. Đơn cử như tình trạng cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở, chỉ rộ lên khi Quốc hội chuẩn bị chất
vấn. Khi đó, cán bộ cấp dưới báo cáo các thông tin mang nặng “chủ nghĩa thành
tích” cho cán bộ cấp trên, cấp hành chính địa phương cũng làm tương tự như vậy
với cơ quan hành chính cấp trên về tỉ lệ hồn thành, sau đó tình trạng lại ngun
như cũ. Thậm chí, người ta găm sổ đỏ của dân để vòi vĩnh. Rõ ràng nền hành
chính như vậy chưa phải là nền hành chính phục vụ dịch vụ mà vẫn có những
hiện tượng là nền hành chính “bảo kê”, nền hành chính “kiếm chác”, “trục lợi”,
nên khơng thể cải cách nhanh chóng được. Chính vì tất cả thực trạng trên nên
Việt Nam vẫn tiếp tục được xếp hạng là quốc gia có thứ hạng cao trong phòng
chống tham nhũng, mà trong những ngày gần đây Ban chỉ đạo phòng chống tham
nhũng cũng phải thừa nhận sự yếu kém của công tác này trong những năm qua.
Đây vẫn tiếp tục là một gam màu tối dài hạn của nền kinh tế và do đó nó cịn tiếp
tục cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam không chỉ năm 2016 mà cịn lâu
và xa hơn nữa, nếu khơng cải cách triệt để từ gốc rễ. Con đường và giải pháp để
thoát khỏi tình trạng trên chỉ có thể là nâng cao quyền lực của nhân dân một cách
thực chất, kiểm soát chặt thu nhập của quan chức, đánh thuế tài sản thừa kế. Tất
nhiên, đây khơng hề là việc dễ, vì bọn tham nhũng hiện nay rất tinh vi và ranh
mãnh, chúng biến tài sản tham nhũng dưới dạng “núp danh”. Điều này, nên học
tập kinh nghiệm của Trung Quốc - Tập Cận Bình.

Về đột phá chiến lược thứ ba: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Rõ ràng không thấy dấu hiệu nào của sự phát
triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì giáo dục đào tạo vẫn loay hoay
với đề bài đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân. Trên thực tế
chúng ta vẫn chưa có một triết lý rõ ràng về hướng đi cho một nền giáo dục đẳng
cấp, chưa có một mơ hình tham khảo đủ sức thuyết phục. Bộ Giáo dục & Đào tạo
chỉ loay hoay với việc quản lý những hoạt động thường niên của ngành giáo dục
đã tạo nên “sức nóng” bởi những cải tiến, đổi mới thiếu cân nhắc triệt để những
tác động dây chuyền. Học sinh thì, hầu như, buộc phải trang bị hết kiến thức của
nhân loại “càng sớm càng tốt”. Con của cán bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo, hình
như, chủ yếu được đưa đi đào tạo ở nước ngoài (bậc đại học) để biến thành
“nguồn nhân lực chất lượng cao”, còn con em đại đa số dân chúng thì được đào
80


tạo ở các trường trong nước và sau tốt nghiệp một tỷ lệ không nhỏ, không kiếm
nổi việc làm. Phải chăng, cần phải có một triết lý giáo dục phù hợp hơn cho từng
cấp học. Đối với bậc tiểu học nên tập trung vào giáo dục “làm người”, đối với bậc
trung học cơ sở kết hợp giữa giáo dục “làm người và trang bị kiến thức cơ bản,
cấp học trung học phổ thông nặng về trang bị kiến thức cơ bản, cịn ở bậc đại học
thì tập trung cho kiến thức nghề. Hơn nữa, ở bậc đại học cần có cấu trúc lại, vì số
trường hiện nay quá nhiều, do nhiều năm “thả phanh” trong bối cảnh điều kiện
học tập và giảng dạy q nghèo nàn. Muốn có trình độ trị đẳng cấp quốc tế thì
thầy cũng phải đẳng cấp quốc tế và điều kiện học tập và giảng dạy cũng phải đạt
đẳng cấp quốc tế.
Rõ ràng là, nhìn vào bức tranh hiện nay thì “ba trụ cột” cịn lâu mới có sức
“đột phá”, nếu khơng có một chiến lược rõ ràng, cụ thể, kiên quyết, thực chất và
nhanh chóng hơn.
Ba là, kết quả tái cấu trúc nền kinh tế và thay đổi mơ hình tăng trưởng chưa
đạt được kết quả rõ ràng và đáng kể. Nhìn một cách trực diện, đối mặt với xu

hướng hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới và khu vực, nền kinh tế Việt Nam
càng tỏ ra yếu thế về năng lực cạnh tranh để đón bắt cơ hội và vượt qua thách
thức. Bên cạnh đó, do tác động khơng ngừng nghỉ của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới làm lộ diện một cách rõ hơn những khiếm khuyết trong việc lựa
chọn mơ hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn và lao động của nền kinh tế nước
ta dẫn đến đòi hỏi tất yếu phải tái cấu trúc lại và kết hợp với lựa chọn mơ hình tăng
trưởng theo chiều sâu. Đây là quyết định sáng suốt và kịp thời của Đảng và Nhà
nước ta. Chủ trương này được triển khai một cách liên tục suốt từ năm 2014-2015
trên ba lĩnh vực đầu tư, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp nhà nước. Do đó,
thành tựu phát triển kinh tế của năm 2015 ít nhiều có đóng góp của q trình này.
Tuy nhiên, nói một cách cơng bằng, kết quả của tái cấu trúc vẫn chưa thực sự có
chuyển biến rõ rệt. Chẳng hạn, tái cấu trúc đầu tư, đặc biệt là đầu tư công vẫn
chưa hé lộ một một chủ thuyết rõ ràng là tái cấu trúc như thế nào để đảm bảo đầu
tư đúng hướng, nâng cao hiệu quả đầu tư và giảm bội chi ngân sách. Đầu tư công
vẫn dàn trải, sử dụng đầu tư cơng kém hiệu quả, thất thốt lãng phí cịn lớn.
Khơng ít các cơng trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách rồi bỏ không hoặc
không phát huy hiệu quả như mong đợi. Liên quan đến tái cấu trúc hệ thống các
tổ chức tín dụng, trước hết phải nhìn tồn hệ thống ngân hàng, thì trong suốt 4
năm (2011 - 2015) dưới sự điều hành kiên quyết của Chính phủ và giám sát chặt
chẽ của NHNN thị trường tiền tệ đạt được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận như:
Chống được hiện tượng “vàng hóa” và “đơ la hóa”, tỉ giá được điều hành linh
81


hoạt, đảm bảo sự ổn đinh của giá trị đồng tiền trước nhiều áp lực, kéo được lãi
suất tiền vay từ 18,3% (2011) có lúc vượt lên 20-25% xuốn thấp như hiện nay,
tốc độ tăng trưởng tín dụng có những ngân hàng, lên tới 23-50% ở một số thời
điểm nay đã trở về mức 17-18% như hiện nay. Tuy nhiên, trong điểm yếu của
của tái cấu trúc các tổ chức tín dụng, thì ngồi việc sát nhập mua lại với giá “0”
đồng một số ngân hàng kinh doanh kém thì một trong những vấn đề “nóng” và
nhiệm vụ nặng nề của hệ thống này đó là tình trạng nợ xấu. Mặc dù, theo thông

báo của NHNN, nợ xấu đã được kéo từ mức 17,2% (2012) xuống dưới 3%,
nhưng hình như nội tình của khoản nợ này vẫn chỉ dừng ở việc “găm lại” ở đâu
đó chứ khơng phải đã được khắc phục triệt để. Đây chắc chắn phải là công việc
cần tháo gỡ nốt của năm 2016. Nhưng dù sao, cũng phải thừa nhận việc tái cấu
trúc các tổ chức tín dụng có sự thành cơng nổi bật nhất trong 3 lĩnh vực được
lựa chọn để thực hiện tái cấu trúc.
Cuối cùng, đó là việc tái cấu trúc DNNN. Có thể nói cơng việc này đạt được
kết quả thấp nhiều so với kỳ vọng. Đến nay chưa có đánh giá mới nhất, nhưng
chắc chắn hai chủ đề trọng tâm mà Chính phủ nêu ra là thối vốn và cổ phần hóa
đều khơng hồn thành mục tiêu. Đây cũng vẫn sẽ là những công việc của năm
2016 và những năm tiếp theo. Thời gian của công việc này dài hay ngắn tùy thuộc
vào quyết tâm và kiên quyết của Chính phủ. Vì cho đến nay chưa thấy lãnh đạo
nào bị cách chức do khơng hồn thành mục tiêu thối vốn và cổ phần hóa như
“lời đe” Thủ tướng đã từng đặt ra. Trên đây ta mới điểm qua từng nội dung của
tái cấu trúc. Nếu gắn các nội dung này với lựa chọn mơ hình tăng trưởng thì các
kết quả đạt được ở trên chắc chắn còn xa so với yêu cầu. Nhưng cũng khó đánh
giá với yêu cầu “2 trong 1” này. Bởi cho đến nay kể cả định hướng, lựa chọn
“đường đi, nước bước” cho việc tái cấu trúc và mơ hình tăng trưởng nền kinh tế
vẫn là điểm nghẽn. Câu chuyện, hầu như chỉ dừng ở việc đề xuất chuyển từ mơ
hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu là
“chấm hết”. Cũng đã có những “hé lộ” về việc lựa chọn những ngành nghề “mũi
nhọn” để thực hiện tái cấu trúc và “hàm ý” cho mơ hình tăng trưởng, trong từng
ngành, từng lĩnh vực cũng đã có những định hướng tái cấu trúc, nhưng những chủ
trương, đề xuất, định hướng đó chưa biến thành những đề án cụ thể, hoặc nếu có
đề án nhưng khơng có hoặc chưa chuẩn bị, chưa tạo được nguồn lực, động lực và
cách thức tổ chức thực hiện theo đuổi đến cùng. Nên nhìn chung, hình hài của mơ
hình tăng trưởng và nền kinh tế sau tái cấu trúc cịn rất mờ nhạt. Chính vì vậy, tái
cấu trúc của những năm qua chỉ dừng ở việc tập trung khắc phục những “lệch
lạc” trong quá khứ và đối phó với những tình huống mới phát sinh. Đây chắc
82



chắn phải là những công việc của năm 2016 và những năm tiếp theo. Chỉ có tập
trung nhận diện rõ nét mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu cần có các cấu trúc
như thế nào, từ đó có các đề án cụ thể về mục tiêu, kế hoạch, lộ trình, nguồn lực,
tổ chức thực hiện quyết liệt và theo đuổi đến cùng thì mới hy vọng thành cơng.
Thực ra thì, chúng ta khơng có lựa chọn nào khác khi Việt Nam đã chính thức đặt
chân vào Cộng đồng ASEAN và thời hiệu có hiệu lực của các hiệp định thương
mại tự do: TPP, Việt Nam - EU… khơng cịn xa, cho nên ngay từ đầu năm 2016
phải bắt tay ngay vào những chủ đề này kết hợp với triển khai nhiệm vụ theo tinh
thần của Văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Bốn là, kinh tế vĩ mô vẫn tiềm ẩn những bất ổn nội sinh: Bội chi ngân sách
vẫn cao, nợ cơng vẫn tiếp tục tăng và chưa có quy chế kiềm chế và kiểm soát hữu
hiệu, nhập siêu vẫn cao (Năm 2015 là 3,2 tỷ USD), xuất khẩu của hệ thống doanh
nghiệp FDI vẫn chiếm tỉ lệ áp đảo (Năm 2015 là 115,1 tỷ USD/162,4 tỷ USD =
70,78% - Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 310 - thứ Hai - 28/12/2015), nền kinh tế
vẫn phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc mà chưa tìm được “lối thốt” (Năm 2015
nhập siêu từ Trung Quốc 32,3 tỷ USD - Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 311- thứ
Ba - 29/12/2015)… Đây cũng là những áp lực đe dọa sự ổn định của kinh tế vĩ mơ
và do đó tới tăng trưởng kinh tế nước ta trong năm. Chính phủ nhiệm kỳ mới cần
có những giải pháp quyết liệt hơn, lộ trình cụ thể hơn để hóa giải từng hạn chế trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia, 2011, trang 106
2.Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ
3.Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 307, 308 - 309, 310 và 311
4. Báo Thanh niên, số 359 (7307)

83




×