Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Bài dịch kỹ năng nghe quyển Cambrige 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 37 trang )

READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8

CONQUER
IELTS TEST

READING SKILL

CAMBRIDGE IELTS
8
Mrs. Trang Ielts
/>

Contents
Quan niệm của chúng ta về thời gian phụ thuộc vào cách chúng ta đo lường nó ..1
Điều Khiển Khơng Lưu Tại Mỹ .............................................................................4
Hiện Tượng Ngoại Cảm..........................................................................................7
Sản Xuất Kính Tấm: Một Quy Trình Nổi.............................................................10
Thời Kỳ Tiểu Băng Hà .........................................................................................12
Ý nghĩa và sức mạnh của mùi hương ...................................................................15
Reading Passage 1 ................................................................................................18
Bản Chất Của Thiên Tài .......................................................................................21
Đồng Hồ Sinh Học Hoạt Động Như Thế Nào? ....................................................24
Mảnh Đất Toán Học .............................................................................................27
Kiểm Soát Sinh Học Các Loài Vật Gây Hại ........................................................30
Thu Thập Mẫu Vật Kiến .......................................................................................33


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
Quan niệm của chúng ta về thời gian phụ thuộc vào cách chúng ta đo lường nó
A
According to archaeological evidence, at least 5,000 years ago, and long before the advent of the Roman


Empire, the Babylonians begain to measure time, introducing calendars to co-ordinate communal activities, to
plan the shipment of goods and, in particular, to regulate planting and harvesting. A. Theo bằng chứng khảo cổ
học thì cách đây ít nhất 5000 năm, tức rất lâu trước khi đế chế La Mã xuất hiện, người Babylon đã bắt đầu đo
lường thời gian, đưa ra những bộ lịch để sắp xếp hoạt động cộng đồng, lên kế hoạch vận chuyển hàng hóa bằng
thuyền và đặc biệt là để điều chỉnh thời gian trồng trọt, thu hoạch. They based their calendars on three natural
cycles: the solar day, marked by the successive periods of light and darkness as the earth rotates on its axis; the
lunar month, following the phases of the moon as it orbits the earth; and the solar year, defined by the changing
seasons that accompany our planet's revolution around the sun. Họ xây dựng bộ lịch của mình dựa trên ba chu
kỳ tự nhiên: ngày mặt trời, được đánh dấu bằng các khoảng sáng tối kế tiếp nhau khi Trái đất quay xung quanh
trục; tháng mặt trăng, tính theo các giai đoạn của mặt trăng khi nó di chuyển xoay quanh Trái đất; và năm mặt
trời, được xác định bằng sự giao mùa theo sau vận động xoay quanh mặt trời của Trái đất.
B
Before the invention of artificial light, the moon had greater social impact. Trước khi ánh sáng nhân tạo
ra đời, mặt trăng có tác động sâu sắc hơn về mặt xã hội. And, for those living near the equator in particular, its
waxing and waning was more conspicuous than the passing of the seasons. Và đặc biệt là với những người sống
gần đường xích đạo thì hiện tượng tròn – khuyết của mặt trăng còn gây chú ý nhiều hơn cả hiện tượng giao
mùa. Hence, the calendars that were developed at the lower latitudes were influenced more by the lunar cycle
than by the solar year. Vậy nên loại lịch ra đời ở các vĩ độ thấp chịu tác động của chu kỳ mặt trăng nhiều hơn là
của năm mặt trời. In more northern climes, however, where seasonal agriculture was practised, the solar year
became more crucial. Thế nhưng ở những vùng đất lệch về phía bắc nhiều hơn, nơi mà cư dân sản xuất nơng
nghiệp theo mùa thì năm mặt trời lại có vai trị quan trọng hơn. As the Roman Empire expanded northward, it
organised its activity chart for the most part around the solar year. Khi đế chế La Mã mở rộng về phía bắc, họ
đã tổ chức biểu độ hoạt động ở phần lớn khu vực này xoay quanh năm mặt trời.
C
Centuries before the Roman Empire, the Egyptians had formulated a municipal calendar having 12
months of 30 days, with five days added to approximate the solar year. Nhiều thế kỷ trước khi đế chế La Mã ra
đời, người Ai Cập đã đề ra một bộ lịch riêng của mình gồm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, và thêm vào đó 5
ngày để xấp xỉ một năm mặt trời. Each period of ten days was marked by the appearance of special groups of
stars called decans. Cứ mỗi mười ngày sẽ được đánh dấu bằng sự xuất hiện của những chòm sao đặc biệt, gọi là
“decans”. At the rise of the star Sirius just before sunrise, which occurred around the all-important annual

flooding of the Nile, 12 decans could be seen spanning the heavens. Khi ngôi sao Sirius mọc ngay trước bình
minh, cũng là thời điểm quan trọng hằng năm khi sơng Nile tràn bờ, ta có thể thấy 12 decans bắc ngang qua bầu
trời. The cosmic significance the Egyptians placed in the 12 decans led them to develop a system in which each
interval of darkness (and later, each interval of daylight) was divided into a dozen equal parts. Ý nghĩa thiên
văn mà người Ai Cập đặt vào 12 decans khiến họ phát triển nên một hệ thống mà trong đó mỗi khoảng thời
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 1


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
gian trời tối (và sau này thêm cả mỗi khoảng thời gian trời sáng) được chia thành 12 phần bằng nhau. These
periods became known as temporal hours because their duration varied according to the changing length of
days and nights with the passing of the seasons. Những khoảng này được biết đến như giờ biến thiên vì độ dài
của chúng khác đi theo sự thay đổi độ dài của ngày và đêm giữa các mùa. Summer hours were long, winter
ones short; only at the spring and autumn equinoxes were the hours of daylight and darkness equal. .. Giờ vào
mùa hè thì dài cịn vào mùa đơng thì ngắn; chỉ có vào thời điểm xn phân và thu phân thì ngày và đêm mới dài
bằng nhau. Temporal hours, which were first adopted by the Greeks and then the Romans, who disseminated
them through Europe, remained in use for more than 2,500 years Giờ biến thiên, vốn được người Hy Lạp tiếp
nhận đầu tiên, sau đó là người La Mã – những người đã phổ biến chúng trên khắp Châu Âu – vẫn tiếp tục được
sử dụng trong hơn 2500 năm.
D
In order to track temporal hours during the day, inventors created sundials, which indicate time by the
length or direction of the sun's shadow. . Để theo dõi giờ biến thiên trong ngày, các nhà sáng chế đã tạo ra đồng
hồ mặt trời, thiết bị biểu thị thời gian bằng độ dài hoặc phương hướng bóng của mặt trời. The sundial's
counterpart, the water clock, was designed to measure temporal hours at night. Đồng hồ nước – thiết bị đối
xứng với đồng hồ mặt trời – được thiết kế để tính giờ biến thiên vào ban đêm. One of the first water clocks was
a basin with a small hole near the bottom through which the water dripped out. Một trong những đồng hồ nước

đầu tiên là một cái chậu với một lỗ nhỏ ở gần đáy, từ đó nước sẽ nhỏ xuống. The falling water level denoted the
passing hour as it dipped below hour lines inscribed on the inner surface. Mực nước hụt xuống sẽ biểu thị giờ
đã qua vì nó hạ xuống dưới đường thể hiện giờ được khắc ở mặt bên trong. Although these devices performed
satisfactorily around the Mediterranean, they could not always be depended on in the cloudy and often freezing
weather of northern Europe. Tuy rằng những thiết bị này hoạt động rất tốt ở vùng Địa Trung Hải nhưng khơng
phải lúc nào nó cũng được dùng đến trong thời tiết nhiều mây và thường rét mướt ở phía bắc Châu Âu.
E
The advent of the mechanical clock meant that although it could be adjusted to maintain temporal hours,
it was naturally suited to keeping equal ones. Sự xuất hiện của đồng hồ cơ học cho thấy rằng mặc dù chúng ta
có thể điều chỉnh để giữ giờ biến thiên nhưng bản chất loại đồng hồ này phù hợp để tính những khoảng giờ
bằng nhau. With these, however, arose the question of when to begin counting, and so, in the early 14th
century, a number of systems evolved. Tuy nhiên, bước tiến này lại làm dấy lên câu hỏi rằng nên bắt đầu đếm
từ khi nào và do đó, vào đầu thế kỷ 14, một số hệ thống đã phát triển. The schemes that divided the day into 24
equal parts varied according to the start of the count: Italian hours began at sunset, Babylonian hours at sunrise,
astronomical hours at midday and 'great clock' hours, used for some large public clocks in Germany, at
midnight. Các kế hoạch chia một ngày thành 24 phần bằng nhau có nhiều điểm khác biệt về thời điểm bắt đầu
tính: giờ của người Ý bắt đầu lúc mặt trời lặn, giờ của người Babylon lại từ lúc mặt trời mọc, giờ theo thiên văn
học bắt đầu vào giữa trưa và giờ của “đồng hồ lớn”, được dùng trong một số đồng hồ công cộng loại lớn ở Đức,
thì lại vào nửa đêm. Eventually these were superseded by 'small clock', or French, hours, which split the day
into two 12-hour periods commencing at midnight. Cuối cùng những cách trên bị thay thế bởi giờ theo “đồng
hồ nhỏ”, hay theo kiểu Pháp, chia một ngày thành hai khoảng, mỗi khoảng có 12 giờ và bắt đầu tính từ nửa
đêm.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 2


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8

F
The earliest recorded weight-driven mechanical clock was built in 1283 in Bedfordshire in England.
Chiếc đồng hồ cơ khí có vật nặng sớm nhất được ghi chép lại đã ra đời năm 1283 ở Bedfordshire, Anh quốc.
The revolutionary aspect of this new timekeeper was neither the descending weight that provided its motive
force nor the gear wheels (which had been around for at least 1,300 years) that transferred the power; it was the
part called the escapement. Điểm đột phá trong loại đồng hồ kiểu mới này không phải nằm ở vật nặng được treo
ngược xuống để cung cấp động lực hay các bánh răng ở phía sau (vốn đã xuất hiện được gần 1300 năm) giúp
truyền tải lực mà là ở một bộ phận gọi là “hồi”. In the early 1400s came the invention of the coiled spring or
fusee which maintained constant force to the gear wheels of the timekeeper despite the changing tension of its
mainspring. Đầu thập niên 1400 đánh dấu sự phát minh ra lò xo dạng trôn ốc hay bánh côn giúp giữ nguồn lực
cố định truyền đến bánh răng sau của đồng hồ mặc cho sự thay đổi độ căng ở lò xo chính. By the 16th century,
a pendulum clock had been devised, but the pendulum swung in a large arc and thus was not very efficient. Đến
thế kỷ 16, một loại đồng hồ quả lắc đã được chế tạo nhưng biên độ dao động của quả lắc lớn và do đó nó tỏ ra
không thật sự hiệu quả.
G
To address this, a variation on the original escapement was invented in 1670, in England. Để giải quyết
vấn đề này, người ta đã tạo ra một biến thể của bộ phận hồi ban đầu vào năm 1670 ở Anh quốc. It was called
the anchor escapement, which was a lever-based device shaped like a ship's anchor. Nó được gọi là loại hồi có
móc – một dụng cụ hoạt động bằng lực địn bẩy và có hình dáng như mỏ neo của con thuyền. The motion of a
pendulum rocks this device so that it catches and then releases each tooth of the escape wheel, in turn allowing
it to turn a precise amount. Chuyển động của con lắc làm rung chuyển dụng cụ này để nó bắt và nhả từng răng
của bánh răng hồi, từ đó cho phép nó xoay một lượng nhất định. Unlike the original form used in early
pendulum clocks, the anchor escapement permitted the pendulum to travel in a very small arc. Không giống
như dạng nguyên thủy sử dụng trong các đồng hồ quả lắc thời kỳ đầu, bộ phần hồi có móc cho phép quả lắc
chuyển động theo một biên độ rất nhỏ. Moreover, this invention allowed the use of a long pendulum which
could beat once a second and thus led to the development of a new floor-standing case design, which became
known as the grandfather clock. Thêm vào đó, phát minh này cịn cho phép sử dụng quả lắc dài, có thể đánh
một lần mỗi giây và do đó đưa đến việc phát triển nên dạng thùng máy mới được thiết kế để đứng trên sàn mà
chúng ta gọi là đồng hồ tủ (grandfather clock).
H

Today, highly accurate timekeeping instruments set the beat for most electronic devices. Ngày nay, các
loại thiết bị hiển thị giờ với độ chính xác cao đã giữ nhịp cho nhiều loại dụng cụ. Nearly all computers contain a
quartz-crystal clock to regulate their operation. Gần như tất cả máy vi tính đều chứa một chiếc đồng hồ bằng
hợp chất thạch anh-thủy tinh để điều chỉnh hoạt động của chúng. Moreover, not only do time signals beamed
down from Global Positioning System satellites calibrate the functions of precision navigation equipment, they
do so as well for mobile phones, instant stock-trading systems and nationwide power-distribution grids. Thêm
vào đó, tín hiệu thời gian được chiếu xuống từ các vệ tinh thuộc Hệ thống Định vị Toàn cầu không chỉ định
chuẩn chức năng cho thiết bị định vị chính xác mà cịn cho cả điện thoại, hệ thống giao dịch cổ phiếu tức thời
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 3


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
và đường dây tải điện trên khắp cả nước. So integral have these time-based technologies become to day-to-day
existence that our dependency on them is recognised only when they fail to work. Những công nghệ dựa vào
thời gian này đã trở nên thiết yếu với sự sinh tồn hằng ngày tới mức chúng ta chỉ nhận thấy sự phụ thuộc của
mình khi chúng ngừng hoạt động.

Điều Khiển Không Lưu Tại Mỹ
A
An accident that occurred in the skies over the Grand Canyon in 1956 resulted in the establishment of
the Federal Aviation Administration (FAA) to regulate and oversee the operation of aircraft in the skies over
the United States, which were becoming quite congested. Tai nạn xảy ra trên vùng trời ở Grand Canyon năm
1956 đã đẫn đến việc thành lập Cục Hàng không Liên bang (FAA) để giám sát và điều chỉnh hoạt động của
máy bay trên vùng trời ở khắp nước Mỹ, vốn đang trở nên khá đông đúc. The resulting structure of air traffic
control has greatly increased the safety of flight in the United States, and similar air traffic control procedures
are also in place over much of the rest of the world. Theo sau đó, bộ máy điều khiển không lưu đã gia tăng đáng

kể mức độ an toàn của các chuyến bay tại Mỹ và nhiều quy trình điều khiển khơng lưu tương tự đã được áp
dụng ở hầu hết các nước.
B
Rudimentary air traffic control (ATC) existed well before the Grand Canyon disaster. Hệ thống điều
khiển không lưu (ATC) thô sơ đã tồn tại khá lâu trước thảm kịch ở Grand Canyon. As early as the 1920s, the
earliest air traffic controllers manually guided aircraft in the vicinity of the airports, using lights and flags,
while beacons and flashing lights were placed along cross-country routes to establish the earliest airways. Ngay
từ thập niên 1920, những người điều khiển không lưu đầu tiên đã hướng dẫn máy bay trong phạm vi sân bay
một cách thủ công bằng đèn và cờ trong khi cột mốc và đèn nhấp nháy được đặt dọc theo các tuyến đường
xuyên quốc gia để tạo nên tuyến đường hàng không đầu tiên.However, this purely visual system was useless in
bad weather, and, by the 1930s, radio communication was coming into use for ATC. Tuy nhiên hệ thống chỉ
dựa vào trực quan này khơng có tác dụng trong thời tiết xấu và đến thập niên 1930 người ta bắt đầu áp dụng
sóng vơ tuyến vào ATC. The first region to have something approximating today‟s ATC was New York City,
with other major metropolitan areas following soon after. Khu vực đầu tiên có ATC gần giống với ngày nay là
thành phố New York và những đô thị lớn khác đã nhanh chóng tiếp bước.
C
In the 1940s, ATC centres could and did take advantage of the newly developed radar and improved
radio communication brought about by the Second World War, but the system remained rudimentary. Trong
thập kỷ 1940, những trung tâm ATC đã có thể và thực sự tận dụng hệ thống radar mới được phát triển cũng như
việc liên lạc qua sóng vơ tuyến đã được nâng cấp mà Thế chiến II mang lại, nhưng hệ thống vẫn còn thô sơ. It
was only after the creation of the FAA that full-scale regulation of America‟s airspace took place, and this was
fortuitous, for the advent of the jet engine suddenly resulted in a large number of very fast planes, reducing
pilots‟ margin of error and practically demanding some set of rules to keep everyone well separated and
operating safely in the air. Mãi đến khi FAA ra đời thì sự quản lý tồn diện trên bầu trời nước Mỹ mới diễn ra
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 4



READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
và tình cờ là sự xuất hiện của động cơ phản lực đột nhiên dẫn đến một lượng lớn máy bay có tốc độ rất nhanh,
giảm thiểu tỷ lệ sai số biên của phi công và thực tế đòi hỏi một bộ quy tắc để giữ máy bay tách biệt và hoạt
động an toàn trên không trung.
D
Many people think that ATC consists of a row of controllers sitting in front of their radar screens at the
nation‟s airports, telling arriving and departing traffic what to do. Nhiều người nghĩ rằng ATC bao gồm một
dãy nhân viên kiểm sốt khơng lưu ngồi trước màn hình radar tại sân bay và hướng dẫn cho các chuyến bay đến
- đi cần phải làm gì. This is a very incomplete part of the picture. Đây là một phần rất không hoàn chỉnh trong
bức tranh chung. The FAA realised that the airspace over the United States would at any time have many
different kinds of planes, flying for many different purposes, in a variety of weather conditions, and the same
kind of structure was needed to accommodate all of them. FAA nhận ra rằng bầu trời nước Mỹ lúc nào cũng có
nhiều loại máy bay với nhiều mục đích khác nhau, hoạt động trong nhiều điều kiện thời tiết và cần phải có một
cấu trúc phức tạp tương tự để điều tiết tất cả chúng.
E
To meet this challenge, the following elements were put into effect. First, ATC extends over virtually
the entire United States. Để giải quyết thách thức trên, người ta đã áp dụng các yếu tố sau. Đầu tiên ATC mở
rộng gần như trên khắp nước Mỹ. In general, from 365m above the ground and higher, the entire country is
blanketed by controlled airspace. Nhìn chung tính từ độ cao 365m trở lên so với mặt đất thì tồn bộ đất nước
được bao trùm bởi một khơng phận có điều khiển. In certain areas, mainly near airports, controlled airspace
extends down to 215m above the ground, and, in the immediate vicinity of an airport, all the way down to the
surface. Ở một số khu vực nhất định, chủ yếu là gần sân bay, vùng không phận này mở rộng xuống mức 215m
cách mặt đất và ngay trong địa phận của sân bay thì nó trải dài xuống tới bề mặt đất. Controlled airspace is that
airspace in which FAA regulations apply. Khơng phận có điều khiển được hiểu là vùng không gian mà FAA áp
dụng quy định của mình. Elsewhere, in uncontrolled airspace, pilots are bound by fewer regulations. Ở những
vùng khác, khơng có điều khiển thì phi cơng ít bị ràng buộc bởi quy định hơn. In this way, the recreational pilot
who simply wishes to go flying for a while without all the restrictions imposed by the FAA has only to stay in
uncontrolled airspace, below 365m, while the pilot who does want the protection afforded by ATC can easily
enter the controlled airspace. Bằng cách này, những phi cơng giải trí – người chỉ đơn thuần muốn đi máy bay

trong một lúc mà không chịu bất kỳ sự giới hạn nào của FAA – chỉ phải ở trong vùng trời khơng có điều khiển,
tức dưới 365m, trong khi phi công nào muốn nhận được sự bảo vệ của ATC có thể dễ dàng đi vào khơng phận
có điều khiển.
F
The FAA then recognised two types of operating environments. Sau đó FAA nhận ra hai loại mơi
trường hoạt động. In good meteorological conditions, flying would be permitted under Visual Flight Rules
(VFR), which suggests a strong reliance on visual cues to maintain an acceptable level of safety. Trong điều
kiện khí tượng học tốt, việc bay có thể được cho phép theo Bộ quy tắc bay bằng mắt thường (VFR) – những
hướng dẫn phụ thuộc mạnh mẽ vào tín hiệu trực quan để giữ độ an toàn ở mức chấp nhận được. Poor visibility
necessitated a set of Instrumental Flight Rules (IFR), under which the pilot relied on altitude and navigational
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 5


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
information provided by the plane‟s instrument panel to fly safely. Tầm nhìn kém địi hỏi phải có Bộ quy tắc
bay bằng thiết bị (IFR), theo đó phi cơng dựa vào độ cao và thơng tin định vị mà bảng đồng hồ của máy bay
cung cấp để bay một cách an toàn. On a clear day, a pilot in controlled airspace can choose a VFR or IFR flight
plan, and the FAA regulations were devised in a way which accommodates both VFR and IFR operations in the
same airspace. Vào một ngày quang đãng, phi công trong vùng trời có điều khiển có thể chọn khơng trình theo
kiểu VFR hoặc IFR và quy tắc của FAA được tạo ra theo cách thích ứng với cả q trình hoạt động kiểu VFR
lẫn IFR trong cùng một không phận. However, a pilot can only choose to fly IFR if they possess an instrument
rating which is above and beyond the basic pilot‟s license that must also be held. Tuy nhiên, một phi cơng chỉ
có thể chọn bay kiểu IFR trong trường hợp họ sở hữu chứng chỉ bay bằng thiết bị, vốn vượt xa bằng phi công
cơ bản – một loại chứng chỉ cũng cần phải có.
G
Controlled airspace is divided into several different types, designated by letters of the alphabet. Không

phận có điểu khiển được chia thành một số loại khác nhau và gọi tên theo các ký tự trong bảng chữ cái.
Uncontrolled airspace is designated Class F, while controlled airspace below 5,490m above sea level and not in
the vicinity of an airport is Class E. Tất cả không phận trên 5490m gọi là Loại A. Lý do phân biệt giữa Loại A
và E xuất phát từ loại máy bay hoạt động trong các môi trường này. All airspace above 5,490m is designated
Class A. The reason for the division of Class E and Class A airspace stems from the type of planes operating in
them. Nhìn chung, Loại E là nơi mà chúng ta có thể tìm thấy loại máy bay hàng khơng thơng thường (mặc dù
một số ít có thể vượt lên trên mức 5490m) và máy bay thương mại có cánh quạt tuabin. Generally, Class E
airspace is where one finds general aviation aircraft (few of which can climb above 5,490m anyway), and
commercial turboprop aircraft. Trên 5490m là lãnh địa của máy bay phản lực hạng nặng vì động cơ phản lực
hoạt động hiệu quả hơn ở cao độ lớn. Above 5,490m is the realm of the heavy jets, since jet engines operate
more efficiently at higher altitudes. The difference between Class E and A airspace is that in Class A, all
operations are IFR, and pilots must be instrument-rated, that is, skilled and licensed in aircraft instrumentation.
Điểm khác biệt giữa không phận Loại A và E là trong Loại A, tất cả hoạt động đều theo kiểu IFR và phi công
phải đạt chứng nhận về thiết bị bay, tức có kỹ năng và bằng cấp về điều khiển thiết bị trên máy bay. This is
because ATC control of the entire space is essential. Sở dĩ như vậy là do cần có sự điều khiển của ATC trên
tồn bộ vùng khơng gian. Three other types of airspace, Classes D, C and B, govern the vicinity of airports. Ba
loại không phận khác gồm Loại D, C và B thống trị khu vực sân bay. These correspond roughly to small
municipal, medium-sized metropolitan and major metropolitan airports respectively, and encompass an
increasingly rigorous set of regulations. Những loại này lần lượt tương ứng với sân bay trong đơ thị loại nhỏ,
vừa và lớn, qua đó hồn thiện bộ quy tắc ngày một khắc khe. For example, all a VFR pilot has to do to enter
Class C airspace is establish two-way radio contact with ATC. Ví dụ như tất cả những gì một phi cơng bay kiểu
VFR cần làm để đi vào không phận Loại C là bật liên lạc hai chiều bằng sóng vơ tuyến với ATC. No explicit
permission from ATC to enter is needed, although the pilot must continue to obey all regulations governing
VFR flight. Không cần phải có thơng báo cho phép rõ ràng nào từ ATC để có thể đi vào, mặc dù phi công vẫn
phải tiếp tục tuân thủ tất cả quy định theo kiểu bay . To enter Class B airspace, such as on approach to a major
metropolitan airport, an explicit ATC clearance is required. VFR Để đi vào không phận Loại B, như khi đang
tiến vào một sân bay tại đô thị lớn thì cần phải có sự cho phép rõ ràng từ ATC. The private pilot who cruises

Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82

Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 6


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
without permission into this airspace risks losing their license. Phi công riêng nào bay vào khơng phận này mà
khơng có sự cho phép có thể đối mặt với nguy cơ bị tước bằng lái.

Hiện Tượng Ngoại Cảm
Can human beings communicate by thought alone? Liệu con người có thể giao tiếp với nhau chỉ bằng ý
nghĩ hay không? For more than a century the issue of telepathy has divided the scientific community, and even
today it still sparks bitter controversy among top academics. Vấn đề ngoại cảm đã gây chia rẻ cộng đồng khoa
học trong hơn một thế kỷ, và ngay cả đến ngày nay nó vẫn làm dấy lên những cuộc tranh cãi quyết liệt giữa các
học giả hàng đầu.
Since the 1970s, parapsychologists at leading universities and research institutes around the world have
risked the derision of sceptical colleagues by putting the various claims for telepathy to the test in dozens of
rigorous scientific studies. Từ thập niên 1970, nhiều nhà cận tâm lý học tại các trường đại học và viện nghiên
cứu hàng đầu trên thế giới đã trở thành trò cười trong mắt các đồng nghiệp cịn hồi nghi khi kiểm chứng hàng
loạt sự xác nhận khác nhau về hiện tượng ngoại cảm trong hàng tá cơng trình nghiên cứu nghiêm túc. The
results and their implications are dividing even the researchers who uncovered them. Kết quả đưa ra và những
điều ngụ ý bên trong thậm chí đang gây chia rẽ cả trong nội bộ giới nghiên cứu đã cố công khám phá chúng.
Some researchers say the results constitute compelling evidence that telepathy is genuine. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng kết quả đạt được tạo nên bằng chứng thuyết phục rằng hiện tượng ngoại cảm là có thật.
Other parapsychologists believe the field is on the brink of collapse, having tried to produce definitive scientific
proof and failed. Những nhà cận tâm lý khác – những người đã cố gắng và thất bại trong việc đưa ra chứng cứ
khoa học xác thực – lại tin rằng phạm trù này đang trên bờ vực sụp đổ. Sceptics and advocates alike do concur
on one issue, however: that the most impressive evidence so far has come from the so-called 'ganzfeld'
experiments, a German term that means 'whole field'. Tuy nhiên cả giới hoài nghi và những người ủng hộ đều
tán thành với nhau về một điểm: bằng chứng ấn tượng nhất cho đến giờ xuất phát từ thí nghiệm “ganzfeld”, một

thuật ngữ tiếng Đức có nghĩa là “tồn bộ trường”. Reports of telepathic experiences had by people during
meditation led parapsychologists to suspect that telepathy might involve 'signals' passing between people that
were so faint that they were usually swamped by normal brain activity. Báo cáo về hiện tượng ngoại cảm ở
những người đang trong quá trình thiền định khiến giới cận tâm lý học hồi nghi rằng ngoại cảm bao gồm “các
tín hiệu” truyền đi giữa người với người nhưng chúng lại quá yếu đến mức bị hoạt động não bình thường che
khuất. In this case, such signals might be more easily detected by those experiencing meditation-like
tranquillity in a relaxing 'whole field' of light, sound and warmth. Trong trường hợp này, có thể những ai đang
trải qua sự tĩnh tâm, thiền định, thư thái trong “toàn bộ trường” gồm cả ánh sáng, âm thanh và hơi ấm sẽ dễ
dàng xác định được tín hiệu hơn.
The ganzfeld experiment tries to recreate these conditions with participants sitting in soft reclining
chairs in a sealed room, listening to relaxing sounds while their eyes are covered with special filters letting in
only soft pink light. Thí nghiệm ganzfeld cố gắng tái tạo lại các điều kiện này với những người tham dự được
ngồi trên ghế dựa ra sau rất êm ái trong một căn phịng đóng kín, lắng nghe những âm thanh dễ chịu trong khi
mắt họ được đáp một màn lọc đặc biệt chỉ cho ánh sáng màu hồng, dịu nhẹ lọt vào. In early ganzfeld
experiments, the telepathy test involved identification of a picture chosen from a random selection of four taken
from a large image bank. Bài kiểm tra ngoại cảm trong các thí nghiệm ganzfeld lúc ban đầu bao gồm xác định
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 7


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
một bức tranh trong số bốn bức tranh được chọn ngẫu nhiên từ ngân hàng hình ảnh quy mơ lớn. The idea was
that a person acting as a 'sender' would attempt to beam the image over to the 'receiver' relaxing in the sealed
room. Ý tưởng ở đây là một người đóng vai trị như “người gửi” sẽ cố gắng phát đi hình ảnh đến cho “người
nhận” đang thư giãn trong căn phịng khóa kín.
Once the session was over, this person was asked to identify which of the four images had been used.
Một khi giai đoạn này qua đi, người này sẽ được yêu cầu xác định xem tấm ảnh nào trong số bốn tấm đã được

sử dụng. Random guessing would give a hit-rate of 25 per cent; if telepathy is real, however, the hit-rate would
be higher. Việc đoán ngẫu nhiên sẽ đưa tới tỷ lệ đoán trúng là 25%; tuy nhiên nếu hiện tượng ngoại cảm có thật
thì tỷ lệ đốn trúng sẽ cao hơn nhiều. In 1982, the results from the first ganzfeld studies were analysed by one
of its pioneers, the American parapsychologist Charles Honorton. Năm 1982, một trong những nhà tiên phong
trong nghiên cứu ganzfeld là nhà cận tâm lý người Mỹ Charles Honorton đã phân tích kết quả của các thí
nghiệm đầu tiên. They pointed to typical hit-rates of better than 30 per cent - a small effect, but one which
statistical tests suggested could not be put down to chance. Chúng chỉ ra rằng tỷ lệ đoán trúng thường cao hơn
30% - một tác động nhỏ nhưng lại là số liệu mà theo nhiều cuộc kiểm tra thống kê là không thể quy cho sự tình
cờ.
The implication was that the ganzfeld method had revealed real evidence for telepathy. Điều ngụ ý ở
đây là phương pháp ganzfeld đã làm lộ ra bằng chứng xác thực về hiện tượng ngoại cảm. But there was a
crucial flaw in this argument - one routinely overlooked in more conventional areas of science. Nhưng lại có
một lỗi quan trọng trong nhận định này – một lỗi thường bị bỏ qua trong những phạm trù phổ biến hơn của
khoa học. Just because chance had been ruled out as an explanation did not prove telepathy must exist; there
were many other ways of getting positive results. Chỉ vì cách giải thích này loại bỏ sự tình cờ khơng có nghĩa là
nó chứng minh được cho sự tồn tại của hiện tượng ngoại cảm ; vẫn còn rất nhiều cách khác để đạt được kết quả
khả quan như vậy.These ranged from 'sensory leakage' - where clues about the pictures accidentally reach the
receiver - to outright fraud. Nó trải rộng từ “sự rị rỉ cảm giác” – khi đầu mối về bức tranh tình cờ đến tai người
nhận – đến sự gian lận trắng trợn. In response, the researchers issued a review of all the ganzfeld studies done
up to 1985 to show that 80 per cent had found statistically significant evidence. Để đáp lại, giới nghiên cứu đưa
ra một bản tái xem xét tất cả nghiên cứu ganzfeld tính đến năm 1985 nhằm chỉ ra rằng 80% trong số đó đã phát
hiện những bằng chứng có giá trị thống kê về hiện tượng ngoại cảm. However, they also agreed that there were
still too many problems in the experiments which could lead to positive results, and they drew up a list
demanding new standards for future research. Tuy nhiên họ cũng đồng ý rằng còn rất nhiều rắc rối trong q
trình thí nghiệm có thể dẫn đến kết quả khả quan và họ đề ra một danh sách tiêu chuẩn mới cần phải có cho
cơng tác nghiên cứu trong tương lai.
After this, many researchers switched to autoganzfeld tests - an automated variant of the technique
which used computers to perform many of the key tasks such as the random selection of images. Sau sự kiện
này, nhiều nhà nghiên cứu chuyển hướng sang dạng kiểm tra autoganzfeld – một biến thể tự động hóa của
phương pháp trên, sử dụng máy tính để thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng như chọn ngẫu nhiên một hình

ảnh. By minimising human involvement, the idea was to minimise the risk of flawed results. Bằng cách giảm
thiểu tối đa sự tham dự của con người, cách thức này nhắm đến việc giảm thiểu thấp nhất khả năng cho ra kết
quả sai lệch. In 1987, results from hundreds of autoganzfeld tests were studied by Honorton in a 'meta-analysis',
a statistical technique for finding the overall results from a set of studies. Năm 1987, Honorton tiến hành “phân
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 8


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
tích tổng hợp” – một phương pháp thống kê dùng để tìm ra kết quả chung từ một loạt nghiên cứu – để nghiên
cứu kết quả từ hàng trăm cuộc kiểm tra autoganzfeld. Though less compelling than before, the outcome was
still impressive. Tuy ít thuyết phục hơn trước đây nhưng kết quả thu được vẫn rất ấn tượng.
Yet some parapsychologists remain disturbed by the lack of consistency between individual ganzfeld
studies. Thế nhưng nhiều nhà cận tâm lý học vẫn cịn lúng túng về sự khơng tương thích giữa các cuộc nghiên
cứu ganzfeld riêng lẻ. Defenders of telepathy point out that demanding impressive evidence from every study
ignores one basic statistical fact: it takes large samples to detect small effects. Những người biện hộ cho hiện
tượng ngoại cảm chỉ ra rằng bằng chứng ấn tượng, khắt khe rút ra từ mỗi cuộc nghiên cứu đã bỏ qua một
nguyên tắc thống kê cơ bản: dùng số lượng mẫu lớn để xác định tác động nhỏ. If, as current results suggest,
telepathy produces hit-rates only marginally above the 25 per cent expected by chance, it's unlikely to be
detected by a typical ganzfeld study involving around 40 people: the group is just not big enough. Nếu, theo
như kết quả gần đây cho thấy, hiện tượng ngoại cảm đưa ra kết quả đoán trúng chỉ vừa nhỉnh hơn con số 25%
như mong đợi một cách ngẫu nhiên thì sẽ khơng thể chứng thực được nó bằng một nghiên cứu ganzfeld thơng
thường, chỉ gồm có 40 người tham gia: cơ bản là nhóm mẫu đó khơng đủ lớn. Only when many studies are
combined in a meta-analysis will the faint signal of telepathy really become apparent. Chỉ khi nhiều nghiên cứu
kết hợp lại trong một phân tích tổng hợp thì dấu hiệu mờ nhạt của hiện tượng ngoại cảm mới thật sự trở nên rõ
ràng. And that is what researchers do seem to be finding. Và đó dường như là điều mà các nhà nghiên cứu đang
thật sự tìm kiếm. What they are certainly not finding, however, is any change in attitude of mainstream

scientists: most still totally reject the very idea of telepathy. Tuy nhiên, điều mà chắc chắn họ khơng phải đang
tìm kiếm là bất kỳ thay đổi nào trong xu thế chủ đạo của giới khoa học: đa số vẫn hoàn toàn phủ nhận ý tưởng
sơ khai nhất về hiện tượng ngoại cảm. The problem stems at least in part from the lack of any plausible
mechanism for telepathy. Vấn đề này phát sinh một phần là do chưa có cơ chế đáng tin cậy nào cho hiện tượng
ngoại cảm.
Various theories have been put forward, many focusing on esoteric ideas from theoretical physics.
Người ta đã đưa ra các học thuyết khác nhau, phần nhiều trong số đó tập trung vào những ý tưởng bí ẩn từ
ngành vật lý lý thuyết. They include 'quantum entanglement', in which events affecting one group of atoms
instantly affect another group, no matter how far apart they may be. Chúng bao gồm “liên đới lượng tử” – hiện
tượng mà các sự kiện tác động đến một nhóm nguyên tử sẽ ngay lập tức ảnh hưởng đến một nhóm nguyên tử
khác bất kể chúng cách xa nhau bao nhiêu. While physicists have demonstrated entanglement with specially
prepared atoms, no-one knows if it also exists between atoms making up human minds. Trong khi giới vật lý
học đã chứng minh được sự liên đới với những nguyên tử được chuẩn bị đặc biệt thì vẫn khơng ai biết liệu hiện
tượng này có tồn tại giữa các nguyên tử tạo nên tâm trí con người hay không. Answering such questions would
transform parapsychology. Trả lời câu hỏi như vậy sẽ làm biến đổi cả ngành cận tâm lý học. This has prompted
some researchers to argue that the future lies not in collecting more evidence for telepathy, but in probing
possible mechanisms. Điều này thúc đẩy một số nhà nghiên cứu đưa ra ý kiến rằng tương lai không nằm ở việc
thu thập thêm bằng chứng về hiện tượng ngoại cảm mà là ở sự thăm dò các cơ chế khả dĩ. Some work has
begun already, with researchers trying to identify people who are particularly successful in autoganzfeld trials.
Một số cơng trình thậm chí đã được bắt đầu với việc giới nghiên cứu cố gắng xác định những người đặc biệt
thành công trong thử nghiệm autoganzfeld. Early results show that creative and artistic people do much better
than average: in one study at the University of Edinburgh, musicians achieved a hit-rate of 56 per cent. Kết quả
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 9


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8

ban đầu cho thấy những người có tính sáng tạo và khiếu nghệ thuật làm tốt hơn những người bình thường: trong
một nghiên cứu tại đại học Edinburgh, các nhạc sĩ có tỷ lệ đốn trúng đến 56%. Perhaps more tests like these
will eventually give the researchers the evidence they are seeking and strengthen the case for the existence of
telepathy. Có thể nhiều thử nghiệm loại này hơn rồi sẽ đưa tới cho giới nghiên cứu bằng chứng mà họ đang tìm
kiếm và củng cố trường hợp có sự tồn tại của hiện tượng ngoại cảm.

Sản Xuất Kính Tấm: Một Quy Trình Nổi
Glass, which has been made since the time of the Mesopotamians and Egyptians, is little more than a
mixture of sand, soda ash and lime. Thủy tinh, vốn được sản xuất ngay từ thời cư dân Lưỡng Hà và Ai Cập, đơn
thuần là hợp chất giữa cát, natri carbonate và vôi. When heated to about 1500 degrees Celsius (°C) this
becomes a molten mass that hardens when slowly cooled. Khi nung nóng tới 1500oC, hợp chất này sẽ trở thành
một khối chất nóng chảy và đông đặc khi được làm nguội dần dần. The first successful method for making
clear, flat glass involved spinning. Phương pháp đầu tiên thành cơng trong việc làm nên tấm kính phẳng và
trong bao gồm quy trình xoay trịn. This method was very effective as the glass had not touched any surfaces
between being soft and becoming hard, so it stayed perfectly unblemished, with a 'fire finish'. Phương pháp này
tỏ ra rất hiệu quả vì kính khơng hề chạm vào bất kỳ bề mặt nào trong suốt quá trình chuyển từ trạng thái mềm
sang rắn, nhờ đó hồn tồn ngun vẹn với công đoạn “gia công tinh bằng lửa”. However, the process took a
long time and was labour intensive. Tuy nhiên quy trình này rất tốn thời gian và cần nhiều nhân công
Nevertheless, demand for flat glass was very high and glassmakers across the world were looking for a
method of making it continuously. Thế nhưng, nhu cầu đối với kính phẳng là rất lớn và những thợ làm kính trên
khắp thế giới đã tìm kiếm phương pháp sản xuất kính một cách liên tục. The first continuous ribbon process
involved squeezing molten glass through two hot rollers, similar to an old mangle. Quy trình mang tính dây
chuyền, liên tục đầu tiên bao gồm việc ép lớp thủy tinh đang nóng chảy qua hai trục lăn nóng, tương tự như
trong máy cán là kiểu cũ. This allowed glass of virtually any thickness to be made non-stop, but the rollers
would leave both sides of the glass marked, and these would then need to be ground and polished. Việc này
giúp sản xuất liên tục các tấm kính bất kể độ dày của chúng, nhưng trục lăn sẽ để lại vết hằn trên cả hai bên của
tấm kính nên sau đó chúng cần phải được mài giũa và đánh bóng.This part of the process rubbed away around
20 per cent of the glass, and the machines were very expensive. Công đoạn này loại bỏ đi gần 20% khối lượng
kính và máy móc thì có giá thành rất cao
The float process for making flat glass was invented by Alistair Pilkington. Alistair Pilkington là người

đã sáng chế ra quy trình nổi để tạo nên kính phẳng. This process allows the manufacture of clear, tinted and
coated glass for buildings, and clear and tinted glass for vehicles. Quy trình này cho phép sản xuất kính trong,
có màu phản quang và có lớp phủ dùng trong các cơng trình, kính trong và có màu phản quang dùng trong
phương tiện giao thông. Pilkington had been experimenting with improving the melting process, and in 1952 he
had the idea of using a bed of molten metal to form the flat glass, eliminating altogether the need for rollers
within the float bath. Pilkington đã thử nghiệm nhằm cải thiện quy trình nấu chảy, và vào năm 1952 ơng đã nảy
ra ý tưởng sử dụng một bề mặt kim loại nóng chảy để định hình cho tấm kính phẳng, loại bỏ hoàn toàn việc sử
dụng trục lăn trong bể nổi. The metal had to melt at a temperature less than the hardening point of glass (about
600°C), but could net boil at a temperature below the temperature of the molten glass (about 1500°C). Kim loại
sử dụng làm bề mặt phải có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn mức đơng đặc của thủy tinh (khoảng 600oC) nhưng lại
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 10


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
không được sôi ở mức dưới nhiệt độ của thủy tinh nóng chảy (khoảng 1500oC). The best metal for the job was
tin. Kim loại phù hợp nhất cho việc này là thiếc.
The rest of the concept relied on gravity, which guaranteed that the surface of the molten metal was
perfectly flat and horizontal. Phần còn lại của khái niệm này phụ thuộc vào trọng lực, vốn đảm bảo rằng bề mặt
của kim loại nóng chảy sẽ hoàn toàn phẳng và ngang bằng nhau. Consequently, when pouring molten glass onto
the molten tin, the underside of the glass would also be perfectly flat. Kết quả là khi đổ lớp thủy tinh nóng chảy
lên lớp thiếc nóng chảy, mặt dưới của tấm kính sẽ hồn tồn phẳng. If the glass were kept hot enough, it would
flow over the molten tin until the top surface was also flat, horizontal and perfectly parallel to the bottom
surface. Nếu thủy tinh được giữ nóng đủ, nó sẽ chảy dọc theo lớp thiếc nóng chảy cho đến khi mặt trên cũng
phẳng, ngang bằng nhau và hồn tồn song song với mặt dưới kính. Once the glass cooled to 604°C or less it
was too hard to mark and could be transported out of the cooling zone by rollers. Một khi kính nguội xuống
bằng hoặc dưới 604oC, nó sẽ cứng đến mức khơng để lại vết hằn gì và có thể được chuyển ra khỏi khu vực làm

nguội bằng hệ thống trục lăn. The glass settled to a thickness of six millimetres because of surface tension
interactions between the glass and the tin. Tấm kính ổn định ở độ dày là 6mm do sự tương tác về sức căng bề
mặt giữa thủy tinh và thiếc. By fortunate coincidence, 60 per cent of the flat glass market at that time was for
six-millimetre glass. Bằng một sự trùng hợp may mắn, 60% thị trường kính phẳng ở thời điểm đó cũng thuộc về
loại dày 6mm.
Pilkington built a pilot plant in 1953 and by 1955 he had convinced his company to build a full-scale
plant. Pilkington xây dựng xưởng sản xuất thử vào năm 1953 và đến năm 1955 ông đã thuyết phục được cơng
ty của mình xây dựng một nhà máy thật sự. However, it took 14 months of non-stop production, costing the
company £100,000 a month, before the plant produced any usable glass. Tuy nhiên phải tốn 14 tháng sản xuất
liên tục, với chi phí 100 000 bảng mỗi tháng trước khi nhà máy tạo ra tấm kính có khả năng dùng được.
Furthermore, once they succeeded in making marketable flat glass, the machine was turned off for a service to
prepare it for years of continuous production. Bên cạnh đó, một khi họ đã thành cơng trong việc sản xuất kính
phẳng có thể bán ra thị trường thì máy mọc được ngừng hoạt động để bảo trì, chuẩn bị cho thời kỳ sản xuất liên
tục.When it started up again it took another four months to get the process right again. Khi máy mọc trở lại hoạt
động, phải tốn thêm bốn tháng trước khi quy trình đi vào ổn định. They finally succeeded in 1959 and there are
now float plants all over the world, with each able to produce around 1000 tons of glass every day, non-stop for
around 15 years. Cuối cùng họ cũng thành công vào năm 1959 và hiện nay nhà máy nổi xuất hiện khắp nơi trên
thế giới, mỗi nhà máy có khả năng cho ra 1000 tấn kính mỗi ngày, không ngừng nghỉ trong khoảng 15 năm.
Float plants today make glass of near optical quality. Ngày nay nhà máy nổi tạo nên kính với chất lượng
gần bằng chất lượng quang học. Several processes - melting, refining, homogenising - take place
simultaneously in the 2000 tonnes of molten glass in the furnace. . Một vài quá trình như nấu chảy, tinh luyện,
đồng hóa diễn ra cùng lúc trong lị nấu 2000 tấn thủy tinh nóng chảy. They occur in separate zones in a
complex glass flow driven by high temperatures. Chúng diễn ra ở các khu vực khác nhau trong dòng thủy tinh
phức tạp hình thành do tác động của nhiệt độ cao. It adds up to a continuous melting process, lasting as long as
50 hours, that delivers glass smoothly and. continuously to the float bath, and from there to a coating zone and
finally a heat treatment zone, where stresses formed during cooling are relieved. Dịng thủy tinh này góp phần
vào một quy trình nấu chảy liên tục kéo dài đến 50 giờ, khơng ngừng đưa kính đến bể nổi một cách trơn tru, rồi
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3


Page 11


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
từ đây kính tiếp tục đi đến khu vực tạo lớp phủ và cuối cùng là khu vực xử lý bằng nhiệt, nơi giải phóng các lực
ép hình thành trong quá trình làm nguội.
The principle of float glass is unchanged since the 1950s. Đặc trưng của kính phẳng vẫn giữ nguyên từ
thập niên 1950. However, the product has changed dramatically, from a single thickness of 6.8 mm to a range
from sub-millimetre to 25 mm, from a ribbon frequently marred by inclusions and bubbles to almost optical
perfection. Tuy nhiên sản phẩm đã thay đổi một cách đáng kể, từ chỉ có độ dày 6.8mm đến có độ dày dao động
từ nhỏ hơn 1mm đến 25mm; từ một dải kính thường xuyên bị lẫn tạp chất và bong bóng khí đến sản phẩm gần
như đạt sự hồn hảo về mặt quang học. To ensure the highest quality, inspection takes place at every stage. Ở
mỗi giai đoạn người ta đều tiến hành kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo chất lượng cao nhất. Occasionally, a bubble
is not removed during refining, a sand grain refuses to melt, a tremor in the tin puts ripples into the glass ribbon.
Đôi khi cũng có một bong bóng khí chưa được loại bỏ trong q trình tinh luyện, một hạt cát chưa nóng chảy,
một chấn động nhẹ trong bề mặt thiếc tạo nên vết gợn sóng trên dải kính. Automated on-line inspection does
two things. Hệ thống kiểm tra trực tuyến và tự động hóa có hai nhiệm vụ. Firstly, it reveals process faults
upstream that can be corrected. Đầu tiên nó làm lộ ra các lỗi trong quy trình theo kiểu ngược dịng – những lỗi
có thể sửa chữa được. Inspection technology allows more than 100 million measurements a second to be made
across the ribbon, locating flaws the unaided eye would be unable to see. Công nghệ kiểm tra cho phép thực
hiện hơn 100 triệu phép đo mỗi giây dọc theo dải kính, xác định lỗi mà mắt thường không thể thấy được.
Secondly, it enables computers downstream to steer cutters around flaws. Kế đến nó cho phép máy tính ở chặng
sau của quy trình có thể điều khiển lưỡi cắt xung quanh phần bị lỗi. Float glass is sold by the square metre, and
at the final stage computers translate customer requirements into patterns of cuts designed to minimise waste.
Kính nổi được bán theo m2 và ở giai đoạn cuối, máy tính chuyển đổi yêu cầu của khách hàng thành những mẫu
cắt được thiết kế để hạn chế tối đa lượng hao tổn.

Thời Kỳ Tiểu Băng Hà
A

This book will provide a detailed examination of the Little Ice Age and other climatic shifts, but, before
I embark on that, let me provide a historical context. Quyển sách này sẽ đem lại cái nhìn chi tiết về thời kỳ Tiểu
Băng Hà và các sự biến đổi khí hậu khác nhưng trước khi bắt tay vào việc đó, hãy để tôi giới thiệu về bối cảnh
lịch sử. We tend to think of climate - as opposed to weather - as something unchanging, yet humanity has been
at the mercy of climate change for its entire existence, with at least eight glacial episodes in the past 730,000
years. Chúng ta thường có xu thế nghĩ về khí hậu – trái với thời tiết – như một thứ bất biến, nhưng nhân loại đã
phụ thuộc hồn tồn vào sự biến đổi khí hậu trong suốt q trình tồn tại của mình với ít nhất tám thời kỳ băng
giá trong vòng 730 000 năm qua. Our ancestors adapted to the universal but irregular global warming since the
end of the last great Ice Age, around 10,000 years ago, with dazzling opportunism. Tổ tiên của chúng ta, bằng
chủ nghĩa cơ hội rất đáng kinh ngạc, đã thích nghi với hiện tượng ấm lên bất thường trên toàn cầu kể từ sau khi
kỷ Băng Hà lớn cuối cùng kết thúc khoảng 10 000 năm trước. They developed strategies for surviving harsh
drought cycles, decades of heavy rainfall or unaccustomed cold; adopted agriculture and stock-raising, which
revolutionised human life; and founded the world‟s first pre-industrial civilisations in Egypt, Mesopotamia and
the Americas. Họ phát triển chiến lược nhằm sinh tồn qua những chu kỳ hạn hán khốc liệt, hàng thập kỷ mưa
dầm hay những đợt lạnh bất thường; áp dụng hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, vốn tạo ra sự cách
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 12


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
mạng trong đời sống của nhân loại; đồng thời hình thành nên những nền văn minh tiền công nghiệp đầu tiên
trên thế giới ở Ai Cập, Lưỡng Hà và Châu Mỹ.
But the price of sudden climate change, in famine, disease and suffering, was often high. Nhưng cái giá
cho việc thay đổi khí hậu một cách đột ngột thường rất đắt, biểu hiện qua nạn đói, dịch bệnh và nỗi thống khổ
của con người.
B
The Little Ice Age lasted from roughly 1300 until the middle of the nineteenth century. Thời kỳ Tiểu

Băng Hà kéo dài từ khoảng năm 1300 cho đến giữa thế kỷ XIX. Only two centuries ago, Europe experienced a
cycle of bitterly cold winters; mountain glaciers in the Swiss Alps were the lowest in recorded memory, and
pack ice surrounded Iceland for much of the year. Chỉ hai thế kỷ trước, Châu Âu đã trải qua một chu kỳ mùa
đông cực kỳ lạnh lẽo; sông băng trên dãy Alps tại Thụy Sĩ có nhiệt độ thấp nhất từ trước đến nay trong khi các
tảng băng trôi bao quanh Iceland phần lớn thời gian trong năm. The climatic events of the Little Ice Age did
more than help shape the modern world. Những sự kiện khí hậu trong thời kỳ Tiểu Băng Hà còn tác động nhiều
hơn chứ khơng chỉ giúp định hình thế giới hiện đại. They are the deeply important context for the current
unprecedented global warming. Chúng là bối cảnh cực kỳ quan trọng cho hiện tượng ấm lên tồn cầu ở mức độ
chưa từng có như hiện nay. The Little Ice Age was far from a deep freeze, however; rather an irregular seesaw
of rapid climatic shifts, few lasting more than a quarter-century, driven by complex and still little understood
interactions between the atmosphere and the ocean. Tuy nhiên thời kỳ Tiểu Băng Hà hồn tồn khơng phải là
một đợt gió cực lạnh mà nó gần như là chuyển động qua lại một cách bất thường giữa những đợt biến đổi khí
hậu nhanh chóng, rất ít trong số đó kéo dài hơn 25 năm, do tác động từ sự tương tác phức tạp giữa khí quyển và
đại dương mà chúng ta vẫn chưa hiểu biết gì nhiều. The seesaw brought cycles of intensely cold winters and
easterly winds, then switched abruptly to.years of heavy spring and early summer rains, mild winters, and
frequent Atlantic storms, or to periods of droughts, light northeasterly winds, and summer heat waves. Sự
chuyển động qua lại đem tới chu kỳ mùa đông lạnh khủng khiếp và nhiều đợt gió thổi từ hướng đơng, sau đó
đột ngột chuyển sang những năm có mưa lớn vào mùa xuân và đầu hè, mùa đông mát và những cơn bão thường
xuyên tại Đại Tây Dương hay thời kỳ hạn hán với gió đơng bắc nhẹ và các đợt nóng vào mùa hè.
C
Reconstructing the climate changes of the past is extremely difficult, because systematic weather
observations began only a few centuries ago, in Europe and North America. Tái hiện lại những biến đổi khí hậu
trong q khứ là vơ cùng khó khăn do quan sát có tính hệ thống về thời tiết chỉ mới bắt đầu trong vài thế kỷ
trước tại Châu Âu và Bắc Mỹ. Records from India and tropical Africa are even more recent. Ghi chép từ Ấn Độ
và Châu Phi nhiệt đới thậm chí cịn xuất hiện trễ hơn.
For the time before records began, we have only „proxy records‟ reconstructed largely from tree rings
and ice cores, supplemented by a few incomplete written accounts. Đối với thời kỳ trước khi có những dữ liệu
này thì chúng ta chỉ có “dữ liệu trung gian” tái dựng lại phần lớn từ vịng gỗ của cây và lõi băng , ngồi ra chỉ
có một vài ghi chép khơng hồn chỉnh.We now have hundreds of tree-ring records from throughout the northern
hemisphere, and many from south of the equator, too, amplified with a growing body of temperature data from

ice cores drilled in Antarctica, Greenland, the Peruvian Andes, and other locations. Chúng ta hiện đang có hàng
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 13


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
trăm ghi chép từ vòng cây trên khắp bắc bán cầu cũng như rất nhiều từ phía nam đường Xích đạo, thêm vào đó
là cơ sở dữ liệu ngày càng nhiều hơn về nhiệt độ từ lõi băng được khoan ở Nam Cực, Greenland, dãy Andes tại
Peru và nhiều địa điểm khác. We are close to a knowledge of annual summer and winter temperature variations
over much of the northern hemisphere going back 600 years. Chúng ta đang tiến gần đến việc biết được sự biến
thiên nhiệt độ hằng năm vào mùa hè và mùa đông trên phần lớn bắc bán cầu từ cách đây 600 năm
D
This book is a narrative history of climatic shifts during the past ten centuries, and some of the ways in
which people in Europe adapted to them. Quyển sách này là bài tường thuật lại về lịch sử biến đổi khí hậu trong
suốt mười thế kỷ qua và một số cách thích nghi của người Châu Âu trước những hiện tượng này. Part One
describes the Medieval Warm Period, roughly 900 to 1200. Phần 1 mô tả Thời Trung Cổ Ấm, kéo dài khoảng
từ năm 900 đến 1200. During these three centuries,Norse voyagers from Northern Europe explored northern
seas, settled Greenland, and visited North America. Đây không phải là giai đoạn thời tiết ấm liên tục do kể từ
thời kỳ Đại Băng Hà, ln có sự biến đổi khơng ngừng về nhiệt độ và lượng mưa.It was not a time of uniform
warmth, for then, as always since the Great Ice Age, there were constant shifts in rainfall and temperature.Mean
European temperatures were about the same as today, perhaps slightly cooler.. Nhiệt độ trung bình tại Châu Âu
gần như giống với ngày nay, có thể hơi mát hơn.
E
It is known that the Little Ice Age cooling began in Greenland and the Arctic in about 1200. Ngày nay
chúng ta đã biết là giai đoạn giảm nhiệt độ của thời kỳ Tiểu Băng Hà bắt đầu ở Greenland và Bắc Cực vào
khoảng năm 1200. As the Arctic ice pack spread southward, Norse voyages to the west were rerouted into the
open Atlantic, then ended altogether. Khi băng từ Bắc Cực trơi dần xuống phía Nam, những chuyến hải trình về

phía Tây của người Na Uy phải chuyển hướng đi vào Đại Tây Dương khơng bị đóng băng, và sau đó là chấm
dứt hẳn. Storminess increased in the North Atlantic and North Sea. Tình trạng giơng bão gia tăng ở bắc Đại Tây
Dương và vùng Biển Bắc. Colder, much wetter weather descended on Europe between 1315 and 1319, when
thousands perished in a continent-wide famine. Thời tiết lạnh hơn và ẩm hơn rất nhiều tràn xuống Châu Âu từ
năm 1315 đến năm 1319, khi hàng nghìn người chết trong nạn đói trên khắp châu lục. By 1400, the weather had
become decidedly more unpredictable and stormier, with sudden shifts and lower temperatures that culminated
in the cold decades of the late sixteenth century. Đến năm 1400, thời tiết ngày càng có nhiều bão tố và rõ ràng
đã trở nên khó dự đốn hơn, với những đợt thay đổi đột ngột và nhiệt độ xuống thấp hơn mà đỉnh điểm là hàng
thập niên lạnh giá vào cuối thế kỷ XVI. Fish were a vital commodity in growing towns and cities, where food
supplies were a constant concern. Cá là hàng hóa quan trọng tại nhiều thị trấn, thành thị đang phát triển – nơi
mà nguồn cung cấp thực phẩm là một mối lo thường trực. Dried cod and herring were already the staples of the
European fish trade, but changes in water temperatures forced fishing fleets to work further offshore. Cá trích
và cá tuyết khơ đã là mặt hàng chủ lực trong thị trường kinh doanh cá tại Châu Âu, nhưng sự thay đổi nhiệt độ
nước đã buộc các đoàn thuyền đánh cá phải ra khơi xa hơn. The Basques, Dutch, and English developed the
first offshore fishing boats adapted to a colder and stormier Atlantic. Người Anh, Hà Lan, xứ Basque đã tạo ra
những chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi đầu tiên chịu được thời tiết lạnh hơn và nhiều bão hơn ở Đại Tây
Dương. A gradual agricultural revolution in northern Europe stemmed from concerns over food supplies at a
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 14


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
time of rising populations. Cuộc cách mạng nơng nghiệp diễn ra dần dần tại phía bắc Châu Âu xuất phát từ mối
quan ngại về nguồn cung thực phẩm trong bối cảnh dân số ngày một tăng.
The revolution involved intensive commercial farming and the growing of animal fodder on land not
previously used for crops. Cuộc cách mạng bao gồm hoạt động nông nghiệp tập trung, quy mô thương mại và
trồng cỏ khô cho gia súc trên khoảnh đất trước đây không được dùng để trồng lương thực. The increased

productivity from farmland made some countries self-sufficient in grain and livestock and offered effective
protection against famine. Sự gia tăng năng suất từ nông trại khiến nhiều quốc gia trở nên tự chủ về ngũ cốc,
vật nuôi và đem tới sự bảo vệ hiệu quả trước nạn đói.
F
Global temperatures began to rise slowly after 1850, with the beginning of the Modern Warm Period.
Nhiệt độ trên toàn cầu dần tăng lên sau năm 1850, với sự bắt đầu của Thời Hiện Đại Ấm. There was a vast
migration from Europe by land-hungry farmers and others, to which the famine caused by the Irish potato blight
contributed, to North America, Australia, New Zealand, and southern Africa. Nông dân thiếu đất canh tác trầm
trọng và những tầng lớp người khác, một phần xuất phát từ nạn đói do vụ mất mùa khoai tây ở Ireland, đã di cư
ồ ạt từ Châu Âu đến Bắc Mỹ, Úc, New Zealand và phía nam Châu Phi.
Millions of hectares of forest and woodland fell before the newcomers‟ axes between 1850 and 1890, as
intensive European farming methods expanded across the world. The unprecedented land clearance released
vast quantities of carbon dioxide into the atmosphere, triggering for the first time humanly caused global
warming. Hàng triệu hecta rừng thưa và rừng rậm ngã xuống trước lưỡi rìu của những kẻ mới đến trong giai
đoạn 1850 -1890 khi biện pháp canh tác nông nghiệp tập trung kiểu Châu Âu bành trướng ra khắp thế giới.
Temperatures climbed more rapidly in the twentieth century as the use of fossil fuels proliferated and
greenhouse gas levels continued to soar. Nhiệt độ tăng lên nhanh hơn trong thế kỷ XX do việc sử dụng nhiên
liệu hóa thạch trở nên phổ biến và mức khí nhà kính tiếp tục tăng chóng mặt. The rise has been even steeper
since the early 1980s. Tốc độ tăng thậm chí cịn nhanh hơn kể từ đầu thập niên 1980. The Little Ice Age has
given way to a new climatic regime, marked by prolonged and steady warming. Thời kỳ Tiểu Băng Hà đã mở
đường cho một chế độ khí hậu mới, đặc trưng bởi sự ấm lên liên tục và kéo dài. At the same time, extreme
weather events like Category 5 hurricanes are becoming more frequent. Cùng lúc đó những hiện tượng thời tiết
cực đoan như bão cấp độ 5 cũng trở nên phổ biến hơn.

Ý nghĩa và sức mạnh của mùi hương
The sense of smell, or olfaction, is powerful. Khả năng cảm nhận mùi, hay cịn gọi là khứu giác, có tác
động rất mạnh. Odours affect us on a physical, psychological and social level Mùi hương có thể ảnh hưởng đến
chúng ta ở mức độ thể chất, tâm lý và xã hội.. For the most part, however, we breathe in the aromas which
surround us without being consciously aware of their importance to us. Tuy nhiên phần lớn thời gian chúng ta
hít vào mùi hương xung quanh mình mà khơng nhận thức, chú ý đến tầm quan trọng của chúng. It is only when

the faculty of smell is impaired for some reason that we begin to realise the essential role the sense of smell
plays in our sense of well-being. Chỉ đến khi chức năng ngửi bị tổn hại vì lý do gì đó thì chúng ta mới bắt đầu
nhận thấy được vai trò cần thiết của khả năng cảm nhận mùi trong việc khiến chúng ta cảm thấy khỏe mạnh.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 15


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
A
A survey conducted by Anthony Synott at Montreal‟s Concordia University asked participants to
comment on how important smell was to them in their lives. Một khảo sát do Anthony Synott thuộc đại học
Concordia ở Montreal đã yêu cầu người tham gia đưa ý kiến về tầm quan trọng của mùi hương trong đời sống
của họ. It became apparent that smell can evoke strong emotional responses. Rõ ràng là mùi hương có thể gợi
lên những phản ứng mạnh mẽ về mặt cảm xúc. A scent associated with a good experience can bring a rush of
joy, while a foul odour or one associated with a bad memory may make us grimace with disgust. Một mùi
hương gắn với trải niệm đẹp có thể mang lại sự thích thú đột ngột trong khi mùi hôi hay mùi hương gắn với kỷ
niệm khơng hay có thể khiến chúng ta nhăn mặt ghê tởm. Respondents to the survey noted that many of their
olfactory likes and dislikes were based on emotional associations. Những người trả lời cuộc khảo sát lưu ý rằng
phần nhiều sự thích hay khơng thích về mặt khứu giác của họ phụ thuộc vào sự liên đới đến cảm xúc. Such
associations can be powerful enough so that odours that we would generally label unpleasant become agreeable,
and those that we would generally consider fragrant become disagreeable for particular individuals. Những mối
dây liên đới này có thể mạnh mẽ đến mức khiến cho mùi hương mà ta cho là khó chịu trở nên dễ chịu, và những
mùi thường được xem là mùi thơm trở nên không dễ chịu với một số cá nhân nhất định. The perception of
smell, therefore, consists not only of the sensation of the odours themselves, but of the experiences and
emotions associated with them. Vậy nên nhận thức về mùi không chỉ bao gồm bản thân khả năng cảm nhận mùi
mà còn là trải nghiệm, cảm xúc gắn liền với chúng.
B

Odours are also essential cues in social bonding. Mùi hương cũng là tín hiệu cần thiết trong việc liên kết
xã hội. One respondent to the survey believed that there is no true emotional bonding without touching and
smelling a loved one. Một người tham gia trả lời khảo sát tin rằng sẽ khơng có sự kết nối cảm xúc thật sự nào
nếu thiếu đi việc chạm vào và ngửi thấy người mà mình yêu quý. In fact, infants recognise the odours of their
mothers soon after birth and adults can often identify their children or spouses by scent. Thực tế, trẻ sơ sinh
nhận biết được mùi của người mẹ rất nhanh sau khi được sinh ra và người lớn thường có thể xác định con cái
hay vợ/chồng của mình nhờ vào mùi hương. In one well-known test, women and men were able to distinguish
by smell alone clothing worn by their marriage partners from similar clothing worn by other people. Trong một
cuộc kiểm tra nổi tiếng, đàn ông và phụ nữ chỉ cần dựa vào mùi hương đã có thể phân biệt quần áo do người
bạn đời của mình mặc khỏi số quần áo tương tự do những người khác mặc. Most of the subjects would
probably never have given much thought to odour as a cue for identifying family members before being
involved in the test, but as the experiment revealed, even when not consciously considered, smells register. Đa
phần đối tượng có thể chưa từng suy nghĩ quá nhiều về mùi hương như một tín hiệu giúp xác định thành viên
trong gia đình trước khi tham gia bài kiểm tra, nhưng như thí nghiệm đã chứng tỏ, ngay cả khi không được
quan tâm đến một cách có chủ đích, mùi hương vẫn ghi dấu ấn trong tâm trí.
C
In spite of its importance to our emotional and sensory lives, smell is probably the most undervalued
sense in many cultures. Mặc cho tầm quan trọng của nó trong đời sống cảm xúc và cảm nhận của chúng ta thì
khứu giác có thể là giác quan bị đánh giá thấp nhất trong nhiều nền văn hóa. The reason often given for the low
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 16


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
regard in which smell is held is that, in comparison with its importance among animals, the human sense of
smell is feeble and undeveloped. Lý do thường được đưa ra cho sự đánh giá thấp khả năng cảm nhận mùi là khi
so sánh tầm quan trọng của nó đối với những lồi động vật thì khứu giác của con người là rất kém và không

phát triển. While it is true that the olfactory powers of humans are nothing like as fine as those possessed by
certain animals, they are still remarkably acute. Đúng là năng lực khứu giác của con người chẳng là gì và khơng
tốt bằng khứu giác của một số động vật nhất định nhưng nó vẫn đặc biệt nhạy. Our noses are able to recognise
thousands of smells, and to perceive odours which are present only in extremely small quantities. Mũi chúng ta
có thể nhận biết hàng nghìn loại mùi và nắm bắt được những mùi hương chỉ với số lượng cực kỳ nhỏ.
D
Smell, however, is a highly elusive phenomenon. Thế nhưng, mùi hương là một hiện tượng rất khó nắm
bắt. Odours, unlike colours, for instance, cannot be named in many languages because the specific vocabulary
simply doesn‟t exist. Ví dụ như một số mùi, tương tự với màu sắc, khơng hề có tên trong nhiều ngơn ngữ vì đơn
giản từ vựng cụ thể dành cho nó khơng hề tồn tại. „It smells like . . . we have to say when describing an odour,
struggling to express our olfactory experience. Chúng ta phải nói “Nó có mùi giống như…..” khi mô tả mùi
hương rồi phải gắng sức diễn tả trải nghiệm khứu giác của mình. Nor can odours be recorded: there is no
effective way to either capture or store them over time. Mùi hương cũng không thể ghi lại: khơng có cách nào
hiệu quả để bắt lấy cũng như lưu giữ mùi hương theo thời gian. In the realm of olfaction, we must make do with
descriptions and recollections. Trong địa hạt về khứu giác, chúng ta phải tận dụng những sự diễn tả và hồi
tưởng. This has implications for olfactory research. Điều này có quan hệ mật thiết đến nghiên cứu về khứu giác.
E
Most of the research on smell undertaken to date has been of a physical scientific nature. . Đa phần
nghiên cứu về khả năng cảm nhận mùi cho đến thời điểm này chỉ mang bản chất khoa học tự nhiên. Significant
advances have been made in the understanding of the biological and chemical nature of olfaction, but many
fundamental questions have yet to be answered. Con người đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc tìm hiểu bản
chất sinh học và hóa học của khứu giác nhưng nhiều vấn đề căn cơ vẫn chưa có câu trả lời. Researchers have
still to decide whether smell is one sense or two - one responding to odours proper and the other registering
odourless chemicals in the air. Giới nghiên cứu vẫn chưa quyết định được liệu khả năng cảm nhận mùi là một
hay hai giác quan – một để phản hồi lại những mùi đích thực cịn cái kia ghi nhận những chất hóa học khơng
mùi có trong khơng khí. Other unanswered questions are whether the nose is the only part of the body affected
by odours, and how smells can be measured objectively given the nonphysical components. Những câu hỏi
chưa có lời đáp khác gồm liệu mũi có phải là bộ phận duy nhất trên cơ thể chịu tác động từ mùi hương và làm
cách nào đo lường mùi hương một cách khách quan khi nó gồm cả các thành tố phi vật chất. Questions like
these mean that interest in the psychology of smell is inevitably set to play an increasingly important role for

researchers. Những câu hỏi như trên khiến cho mối quan tâm về tâm lý học mùi vị chắc chắn đang có vai trị
ngày một quan trọng đối với giới nghiên cứu.
F
However, smell is not simply a biological and psychological phenomenon. Tuy nhiên cảm nhận mùi
không chỉ đơn thuần là một hiện tượng sinh học và tâm lý học. Smell is cultural, hence it is a social and
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 17


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
historical phenomenon. Mùi hương có đặc tính văn hóa, do đó nó cịn là một hiện tượng lịch sử và xã hội.
Odours are invested with cultural values: smells that are considered to be offensive in some cultures may be
perfectly acceptable in others. . Mùi hương được gắn với giá trị văn hóa: mùi được cho là kinh tởm trong một
số nền văn hóa lại có thể hoàn toàn chấp nhận được trong các nền văn hóa khác. Therefore, our sense of smell
is a means of, and model for, interacting with the world. FVậy nên khứu giác của chúng ta là một phương tiện,
một kiểu mẫu để tương tác với thế giới. Different smells can provide us with intimate and emotionally charged
experiences and the value that we attach to these experiences is interiorised by the members of society in a
deeply personal way. Những mùi hương khác nhau có thể mang đến cho chúng ta trải nghiệm thân tình, giàu
cảm xúc, và giá trị mà chúng ta gắn với trải nghiệm đó được các thành viên trong xã hội chuyển biến thành cái
của riêng mình theo một cách thức mang tính cá nhân sâu sắc. Importantly, our commonly held feelings about
smells can help distinguish us from other cultures. Quan trọng là cảm giác mà chúng ta thường có về mùi
hương có thể giúp phân biệt bản thân khỏi các nền văn hóa khác. The study of the cultural history of smell is,
therefore, in a very real sense, an investigation into the essence of human culture. Vì thế cho nên nghiên cứu về
lịch sử văn hóa của sự cảm nhận mùi hương thực sự là quá trình điều tra, nghiên cứu về bản chất của văn hóa
nhân loại.

Reading Passage 1

Striking Back at Lightning With Lasers - Đánh trả lại ánh chớp với tia laser
Seldom is the weather more dramatic than when thunderstorms strike. Rất hiếm khi thời tiết trở nên ấn
tượng hơn lúc một cơn dông bão ập đến. Their electrical fury inflicts death or serious injury on around 500
people each year in the United States alone. Chỉ tính riêng ở Mỹ, cơn thịnh nộ bằng điện năng của chúng gây ra
cái chết hoặc thương tổn trầm trọng cho khoảng 500 người mỗi năm. As the clouds roll in, a leisurely round of
golf can become a terrifying dice with death - out in the open, a lone golfer may be a lightning bolt‟s most
inviting target. Khi mây bắt đầu cuộn vào thì một lượt golf thư giãn có thể trở thành một trò đánh cược hãi hùng
với cái chết – tay golf đứng một mình ngồi khoảng đất trống có thể trở thành mục tiêu hấp dẫn nhất cho tia
chớp. And there is damage to property too. Và nó cũng gây tổn thất về tài sản. Lightning damage costs
American power companies more than $100 million a year. Thiệt hại do tia chớp gây ra khiến các công ty năng
lượng ở Mỹ phải tiêu tốn hơn 100 triệu USD mỗi năm.
But researchers in the United States and Japan are planning to hit back. Nhưng giới nghiên cứu tại Mỹ
và Nhật Bản đang lên kế hoạch phản đòn lại. Already in laboratory trials they have tested strategies for
neutralising the power of thunderstorms, and this winter they will brave real storms, equipped with an armoury
of lasers that they will be pointing towards the heavens to discharge thunderclouds before lightning can strike.
Những nhà khao học đã tiến hành thử nghiệm chiến lược nhằm vơ hiệu hóa sức mạnh của các cơn dơng bão
trong phịng thí nghiệm, và vào mùa đơng này họ sẽ dũng cảm đương đầu với cơn bão thật sự bằng kho vũ khí
laser mà họ sẽ chiếu thẳng lên bầu trời để đánh tan các đám mây tích điện trước khi tia chớp giáng xuống.
The idea of forcing storm clouds to discharge their lightning on command is not new. Ý tưởng buộc các
đám mây bão giải phóng lượng tia chớp của chúng một cách có điều khiển khơng phải là một ý tưởng mới. In
the early 1960s, researchers tried firing rockets trailing wires into thunderclouds to set up an easy discharge
path for the huge electric charges that these clouds generate. Đầu thập niên 1960, giới nghiên cứu đã thử bắn
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 18


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8

tên lửa kéo theo dây kim loại vào trong những đám mây dông để tạo nên một con đường cho chúng dễ dàng
giải phóng lượng điện năng khổng lồ đang được tích trữ. The technique survives to this day at a test site in
Florida run by the University of Florida, with support from the Electrical Power Research Institute (EPRI),
based in California. Phương pháp này tồn tại đến ngày nay tại một bãi thử ở bang Florida do đại học Florida
điều hành với sự hỗ trợ của Viện nghiên cứu năng lượng điện (EPRI) có trụ sở ở California.EPRI, which is
funded by power companies, is looking at ways to protect the United States‟ power grid from lightning strikes.
EPRI, với sự tài trợ của các công ty năng lượng, đang tìm kiếm cách thức bảo vệ hệ thống đường dây truyền tải
năng lượng của nước Mỹ khỏi bị sét đánh. „We can cause the lightning to strike where we want it to using
rockets,‟ says Ralph Bernstein, manager of lightning projects at EPRI. Ralph Bernstein, người quản lý dự án về
tia chớp ở EPRI, nói rằng : “Bằng cách sử dụng tên lửa, chúng tơi có thể khiến tia chớp đánh xuống bất kỳ chỗ
nào mình muốn”. The rocket site is providing precise measurements of lightning voltages and allowing
engineers to check how electrical equipment bears up. Địa điểm phóng tên lửa đang cung cấp số liệu đo đạt
chính xác về điện áp của tia chớp và cho phép các kỹ sư kiểm tra xem thiết bị điện chống đỡ như thế nào.
Bad behavior - Tập tính xấu
But while rockets are fine for research, they cannot provide the protection from lightning strikes that
everyone is looking for. Tuy tên lửa tỏ ra hiệu quả trong việc nghiên cứu nhưng nó vẫn chưa đem lại phương
pháp bảo vệ khỏi sét đánh mà mọi người đang tìm kiếm. The rockets cost around $1,200 each, can only be fired
at a limited frequency and their failure rate is about 40 per cent. Mỗi quả tên lửa có giá khoảng 1200 USD và
chỉ có thể phóng ở một tần xuất giới hạn với tỷ lệ thất bại khoảng 40%. And even when they do trigger
lightning, things still do not always go according to plan. . Và ngay cả khi nó thật sự “kích hoạt” được tia chớp
thì khơng phải lúc nào mọi chuyện cũng diễn ra theo kế hoạch. „Lightning is not perfectly well behaved,‟ says
Bernstein Bernstein cho biết “Tia chớp không phải lúc nào cũng vận động đúng. „Occasionally, it will take a
branch and go someplace it wasn‟t supposed to go.‟ Thỉnh thoảng nó sẽ rẽ nhánh và xuất hiện ở nơi mà không
ai ngờ tới.”
And anyway, who would want to fire streams of rockets in a populated area? Và dù sao thì ai lại muốn
bắn hàng loạt tên lửa ở một khu vực đông dân cư? „What goes up must come down,‟ points out Jean-Claude
Diels of the University of New Mexico. Jean-Claude Diels ở trường đại học New Mexico chỉ ra rằng “Cái gì đi
lên thì chắc chắn sẽ phải rơi xuống”. Diels is leading a project, which is backed by EPRI, to try to use lasers to
discharge lightning safelyv and safety is a basic requirement since no one wants to put themselves or their
expensive equipment at risk. . Diels hiện đang dẫn đầu một dự án do EPRI tài trợ nhằm cố gắng sử dụng tia

laser để giải trừ tia chớp một cách an toàn – và an toàn là yêu cầu cơ bản vì khơng ai muốn tự đặt bản thân mình
hoặc thiết bị đắt tiền của mình trước rủi ro.With around $500,000 invested so far, a promising system is just
emerging from the laboratory. Với khoản đầu tư hơn 500 000 USD cho đến nay, một hệ thống đầy hứa hẹn chỉ
mới bắt đầu xuất hiện từ phịng thí nghiệm.
The idea began some 20 years ago, when high-powered lasers were revealing their ability to extract
electrons out of atoms and create ions. Ý tưởng khởi nguồn từ cách đây khoảng 20 năm, khi tia laser với công
năng mạnh bộc lộ khả năng tách electron ra khỏi nguyên tử và tạo nên ion. If a laser could generate a line of
ionisation in the air all the way up to a storm cloud, this conducting path could be used to guide lightning to
Earth, before the electric field becomes strong enough to break down the air in an uncontrollable surge. Nếu tia
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 19


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
laser có thể tạo nên một dãy ion hóa trong khơng khí, hướng đến đám mây dơng thì con người có thể dùng
đường truyền dẫn điện này để hướng tia chớp đi xuống mặt đất trước khi điện trường trở nên đủ mạnh và xé tan
khơng khí trong một đợt bùng nổ khơng kiểm sốt được. To stop the laser itself being struck, it would not be
pointed straight at the clouds. Nhằm tránh việc tia laser bị đánh trúng, người ta sẽ khơng chiếu nó thẳng lên
đám mây. Instead it would be directed at a mirror, and from there into the sky. Thay vào đó, họ sẽ chiếu nó vào
một tấm gương và phản xạ lên bầu trời. The mirror would be protected by placing lightning conductors close
by. Người ta sẽ bảo vệ tấm gương bằng cách đặt các thiết bị thu lôi ở gần đó. Ideally, the cloud-zapper (gun)
would be cheap enough to be installed around all key power installations, and portable enough to be taken to
international sporting events to beam up at brewing storm clouds. Ở mức độ lý tưởng, thiết bị phá mây (súng)
sẽ rẻ đến mức có thể lắp đặt xung quanh tất cả các trạm năng lượng cũng như đủ di động để có thể mang đến
những sự kiện thể thao quốc tế và bắn vào đám mây dông đang tích tụ.
A stumbling block - Chướng ngại vật
However, there is still a big stumbling block. Tuy nhiên, vẫn còn một chướng ngại lớn. The laser is no

nifty portable: it‟s a monster that takes up a whole room. Máy phát laser hồn tồn khơng di động và tiện lợi: nó
là con quái vật chiếm trọn một căn phòng. Diels is trying to cut down the size and says that a laser around the
size of a small table is in the offing. Diels đang cố gắng giảm thiểu kích thước và cho biết một máy phát laser
với kích cỡ tương đương cái bàn nhỏ đang chuẩn bị xuất hiện. He plans to test this more manageable system on
live thunderclouds next summer. Ông dự định kiểm tra hệ thống dễ kiểm soát hơn này trên các đám mây dông
thật vào mùa hè kế tiếp.
Bernstein says that Diels‟s system is attracting lots of interest from the power companies. Bernstein cho
biết hệ thống của Diels đang thu hút khá nhiều sự quan tâm của các công ty năng lượng.
But they have not yet come up with the $5 million that EPRI says will be needed to develop a
commercial system, by making the lasers yet smaller and cheaper. Tuy nhiên họ vẫn chưa nghĩ ra cách để có 5
triệu USD, số tiền mà EPRI cho rằng cần phải có để phát triển một hệ thống mang tính thương mại bằng cách
làm cho máy phát laser nhỏ hơn và rẻ hơn. „1 cannot say I have money yet, but I‟m working on it,‟ says
Bernstein. . Bernstein cho biết “Tơi khơng thể nói là giờ tơi đã có tiền, nhưng tơi đang tìm cách giải quyết nó”.
He reckons that the forthcoming field tests will be the turning point - and he‟s hoping for good news. Ông nhận
ra rằng những cuộc thử nghiệm thực địa sắp tới sẽ là bước ngoặt – và ông đang mong chờ tin tốt lành. Bernstein
predicts „an avalanche of interest and support‟ if all goes well. Bernstein dự đoán một “luồng ý kiến quan tâm
và ủng hộ dồn dập” nếu mọi thứ diễn ra theo tính tốn. He expects to see cloud-zappers eventually costing
$50,000 to $100,000 each. Ơng mong đợi cuối cùng thì thiết bị phá mây sẽ có giá bán từ 50 000 USD đến 100
000 USD.
Other scientists could also benefit. Những nhà khoa học khác cũng có thể hưởng lợi. With a lightning
„switch‟ at their fingertips, materials scientists could find out what happens when mighty currents meet matter.
Với một “công tắc” sét trong tầm tay, giới khoa học vật liệu sẽ có thể biết được điều gì xảy ra khi dịng điện
cường độ mạnh gặp phải vật chất. Diels also hopes to see the birth of „interactive meteorology‟ - not just
forecasting the weather but controlling it. Diels cũng hi vọng sẽ chứng kiến sự ra đời của ngành “khí tượng học
tương tác” – khơng chỉ dự báo mà cịn điều khiển được thời tiết. „If we could discharge clouds, we might affect
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 20



READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
the weather,‟ he says. Ông nói rằng: “Nếu chúng ta có thể giải phóng các đám mây, chúng ta có thể tác động
đến thời tiết”.
And perhaps, says Diels, we‟ll be able to confront some other meteorological menaces. Và ơng cịn nghĩ
rằng chúng ta có thể sẽ đủ khả năng đương đầu với các mối đe dọa về khí tượng học khác. „We think we could
prevent hail by inducing lightning,‟ he says. “Chúng tơi nghĩ có thể ngăn ngừa mưa đá bằng cách điện cảm
dòng tia sét”. Thunder, the shock wave that comes from a lightning flash, is thought to be the trigger for the
torrential rain that is typical of storms. Sấm, luồng sóng xung kích xuất phát từ ánh chớp, được cho là ngòi nổ
cho những trận mưa nặng hạt thường xuất hiện trong cơn dông. A laser thunder factory could shake the
moisture out of clouds, perhaps preventing the formation of the giant hailstones that threaten crops. Một nhà
máy tạo sấm bằng tia laser có thể trút hết hơi ẩm ra khỏi đám mây, từ đó có thể ngăn chặn việc hình thành
những hạt mưa đá khổng lồ đe dọa đến mùa màng. With luck, as the storm clouds gather this winter, lasertoting researchers could, for the first time, strike back. Với sự may mắn, biết đâu khi những đám mây dông tụ
lại vào mùa đơng này, giới nghiên cứu cùng với máy laser có thể lần đầu tiên phản đòn lại.

Bản Chất Của Thiên Tài
There has always been ari interest in geniuses and prodigies. Từ trước đến nay con người ln có niềm
hứng thú với thiên tài và các cá nhân phi thường. The word „genius‟, from the Latin gens (= family) and the
term „genius‟, meaning „begetter‟, comes from the early Roman cult of a divinity as the head of the family. Từ
“thiên tài” (genius) xuất phát từ chữ Latin gens (nghĩa là gia đình) và thuật ngữ “genius”, nghĩa là “người sinh
ra” (begetter), xuất phát từ nghi thức tôn sùng một cá nhân như người đứng đầu gia đình trong thời kỳ sơ khởi
của nền văn minh La Mã. In its earliest form, genius was concerned with the ability of the head of the family,
the paterfamilias, to perpetuate himself. Ở hình thái nguyên sơ nhất, một genius quan tâm đến khả năng đứng
đầu gia đình, gọi là paterfamilias, để duy trì bản thân. Gradually, genius came to represent a person‟s
characteristics and thence an individual‟s highest attributes derived from his „genius‟ or guiding spirit. Dần dần
thuật ngữ này chuyển sang đại diện cho tính cách của con người, kế đó là cho đặc tính cao nhất của một cá nhân
xuất phát từ “genius” hay tinh thần lãnh đạo của người đó. Today, people still look to stars or genes, astrology
or genetics, in the hope of finding the source of exceptional abilities or personal characteristics. Ngày nay con
người vẫn mong chờ vào các vì sao hoặc gien, chiêm tinh học hoặc di truyền học, với hi vọng tìm được nguồn

cơn của những khả năng phi thường hoặc đặc điểm cá nhân.
The concept of genius and of gifts has become part of our folk culture, and attitudes are ambivalent
towards them. Khái niệm về thiên tài và người có năng khiếu đã trở thành một phần trong nền văn hóa dân gian
của chúng ta và thái độ đối với những cá nhân này khá mâu thuẫn. We envy the gifted and mistrust them.
Chúng ta ghen tị với người có năng khiếu và khơng tin tưởng họ. In the mythology of giftedness, it is popularly
believed that if people are talented in one area, they must be defective in another, that intellectuals are
impractical, that prodigies burn too brightly too soon and burn out, that gifted people are eccentric, that they are
physical weaklings, that there‟s a thin line between genius and madness, that genius runs in families, that the
gifted are so clever they don‟t need special help, that giftedness is the same as having a high IQ, that some races
are more intelligent or musical or mathematical than others, that genius goes unrecognised and unrewarded, that
adversity makes men wise or that people with gifts have a responsibility to use them. Nói đến thần thoại về khả
năng thiên bẩm, mọi người thường tin rằng: nếu ai đó có tài năng trong một lĩnh vực, họ chắc chắn sẽ có khuyết
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 21


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
điểm ở mặt khác; giới trí thức là những kẻ thiếu thực tế; cá nhân phi thường như ngọn lửa bừng cháy quá mạnh,
quá sáng và sẽ sớm lụi tàn; người có năng khiếu là kẻ lập dị; họ thường yếu đuối về mặt thể chất; ranh giới giữa
thiên tài và sự điên loạn là rất mong manh; thiên tài mang tính di truyền; người có năng khiếu thường q thơng
minh đến mức khơng cần sự trợ giúp đặc biệt; có năng khiếu đồng nghĩa với có chỉ số IQ cao; một số tộc người
thơng minh hơn hoặc có khả năng về âm nhạc, tốn học hơn những tộc người khác; thiên tài không được thừa
nhận và không được tưởng thưởng; tai ương khiến con người thơng thái hơn hay người nào có tài năng thì phải
có trách nhiệm sử dụng chúng. Language has been enriched with such terms as „highbrow‟, „egghead‟, „bluestocking‟, „wiseacre‟, „know-all‟, „boffin‟ and, for many, „intellectual‟ is a term of denigration. Chúng ta đã bổ
sung vào kho ngôn ngữ những thuật ngữ như “kẻ trí thức xa rời thực tế”, “người thông minh”, “nữ học giả”, “kẻ
ta đây”, “kẻ biết tuốt”, “nhà nghiên cứu” và với nhiều người, “trí thức” là từ mang nghĩa nhạo báng, gièm pha.
The nineteenth century saw considerable interest in the nature of genius, and produced not a few studies

of famous prodigies. Thế kỷ XIX chứng kiến sự quan tâm đáng kể đến bản chất của thiên tài và sự ra đời của
khá nhiều cơng trình nghiên cứu về thiên tài nổi tiếng. Perhaps for us today, two of the most significant aspects
of most of these studies of genius are the frequency with which early encouragement and teaching by parents
and tutors had beneficial effects on the intellectual, artistic or musical development of the children but caused
great difficulties of adjustment later in their lives, and the frequency with which abilities went unrecognised by
teachers and schools. Có lẽ với chúng ta ngày nay, hai trong số những khía cạnh đáng chú ý nhất qua phần lớn
cơng trình nghiên cứu loại này là tần suất mà sự khuyến khích, dạy bảo ngay từ sớm của cha mẹ, gia sư có tác
động tích cực đến sự phát triển tri thức, nghệ thuật hay âm nhạc của trẻ em nhưng lại gây ra trở ngại to lớn
trong việc điều chỉnh sau này và tần suất mà khả năng của trẻ không được thầy cô, nhà trường nhận biết.
However, the difficulty with the evidence produced by these studies, fascinating as they are in collecting
together anecdotes and apparent similarities and exceptions, is that they are not what we would today call normreferenced. Tuy nhiên khó khăn gắn liền với bằng chứng rút ra được – mặc dù những nghiên cứu này rất hấp
dẫn vì đã thu thập giai thoại, điểm tương đồng và ngoại lệ rõ ràng – là chúng không phải như thứ mà ngày nay
chúng ta gọi là quy chiếu chuẩn mực. In other words, when, for instance, information is collated about early
illnesses, methods of upbringing, schooling, etc., we must also take into account information from other
historical sources about how common or exceptional these were at the time. Nói cách khác, ví dụ như khi ta so
sánh thơng tin về tình trạng bệnh tật khi cịn nhỏ, phương pháp ni dưỡng, sự giáo dục ở nhà trường v.v. thì
chúng ta cũng phải xem xét đến thông tin từ một số nguồn lịch sử khác về những yếu tố trên phổ biến hay ngoại
lệ như thế nào vào thời điểm đó. For instance, infant mortality was high and life expectancy much shorter than
today, home tutoring was common in the families of the nobility and wealthy, bullying and corporal
punishment were common at the best independent schools and, for the most part, the cases studied were
members of the privileged classes. .Chẳng hạn tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong còn cao và tuổi thọ con người ngắn hơn
ngày nay, hiện tượng mời thầy cô về dạy tại nhà phổ biến trong các gia đình quý tộc giàu có, tình trạng bắt nạt
và trừng phạt về mặt thân thể diễn ra thông dụng ở những trường tư tốt nhất cũng như đa phần trường hợp được
nghiên cứu xuất thân là thành viên thuộc tầng lớp có nhiều đặc quyền đặc lợi.
It was only with the growth of paediatrics and psychology in the twentieth century that studies could be
carried out on a more objective, if still not always very scientific, basis.Chỉ đến khi nhi khoa và tâm lý học phát
triển vào thế kỷ XX thì những cơng trình nghiên cứu mới được tiến hành trên nền tảng khách quan hơn, tuy
không phải lúc nào cũng thật sự mang tính khoa học.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82

Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 22


READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 8
Geniuses, however they are defined, are but the peaks which stand out through the mist of history and
are visible to the particular observer from his or her particular vantage point. Tuy được định nghĩa như thế nào,
thiên tài vẫn là những đỉnh cao vươn lên trên lớp sương mù lịch sử và chỉ có người quan sát đặc biệt, từ điểm
nhìn đặc biệt của anh ấy/cơ ấy mới có thể thấy được. Change the observers and the vantage points, clear away
some of the mist, and a different lot of peaks appear. Thay đổi người quan sát và điểm nhìn, đánh tan một phần
lớp sương mù và chúng ta sẽ thấy xuất hiện thêm nhiều đỉnh cao khác nhau. Genius is a term we apply to those
whom we recognise for their outstanding achievements and who stand near the end of the continuum of human
abilities which reaches back through the mundane and mediocre to the incapable. . Thiên tài là thuật ngữ mà
chúng ta áp vào cho những cá nhân chúng ta nhận biết được qua thành tựu nổi bật của họ và là người đứng gần
đầu mút trong miền khả năng liên tục của nhân loại, vốn chạy dài theo chiều ngược lại qua vùng trần tục, tầm
thường đến đầu mút bên kia là những cá nhân thiếu khả năng There is still much truth in Dr Samuel Johnson‟s
observation, The true genius is a mind of large general powers, accidentally determined to some particular
direction‟. Vẫn có nhiều sự đúng đắn trong nhận xét của tiến sĩ Samuel Johnson rằng: “Thiên tài thực sự là một
trí tuệ có sức mạnh tổng qt lớn lao, tình cờ được định theo một số hướng cụ thể”. We may disagree with the
„general‟, for we doubt if all musicians of genius could have become scientists of genius or vice versa, but there
is no doubting the accidental determination which nurtured or triggered their gifts into those channels into
which they have poured their powers so successfully. Chúng ta có thể khơng đồng tình với phần “tổng qt” vì
chúng ta hồi nghi chẳng lẽ tất cả thiên tài âm nhạc đáng lẽ đã có thể trở thành thiên tài khoa học hay ngược lại;
nhưng khơng có nghi ngờ nào về sự xác định ngẫu nhiên đã nuôi dưỡng hay khởi nguồn cho tài năng của họ đi
vào con đường mà ở đó họ đã đổ sức mạnh của mình vào một cách rất thành công. Along the continuum of
abilities are hundreds of thousands of gifted men and women, boys and girls. Chạy dọc theo miền khả năng liên
tục là hàng trăm nghìn phụ nữ và đàn ơng, bé trai và bé gái có năng khiếu.
What we appreciate, enjoy or marvel at in the works of genius or the achievements of prodigies are the
manifestations of skills or abilities which are similar to, but so much superior to, our own. Điều chúng ta đánh

giá cao, tận hưởng hay kinh ngạc trước tác phẩm của thiên tài hay thành tựu của các cá nhân phi thường là sự
biểu lộ khả năng hay kĩ năng tương tự như của chúng ta nhưng ở mức độ cao siêu hơn nhiều. But that their
minds are not different from our own is demonstrated by the fact that the hard-won discoveries of scientists like
Kepler or Einstein become the commonplace knowledge of schoolchildren and the once outrageous shapes and
colours of an artist like Paul Klee so soon appear on the fabrics we wear. Nhưng trí tuệ của họ khơng khác so
với chúng ta, biểu hiện qua sự thật rằng khám phá đầy cực khổ của những nhà khoa học như Einstein hay
Kepler trở thành kiến thức thường thức của học sinh và màu sắc, hình khối từng rất mãnh liệt của họa sĩ như
Paul Klee cũng sớm xuất hiện trên quần áo vải ta hay mặc. This does not minimise the supremacy of their
achievements, which outstrip our own as the sub-four-minute milers outstrip our jogging. Điều này không làm
giảm bớt đi uy thế trong thành tựu của họ, vốn vượt xa chúng ta giống như vận động viên chạy một dặm dưới
bốn phút bỏ xa tốc độ đi bộ của chúng ta.
To think of geniuses and the gifted as having uniquely different brains is only reasonable if we accept
that each human brain is uniquely different. Việc nghĩ thiên tài và người có năng khiếu sở hữu bộ não đặc biệt
khác thường chỉ có lý nếu chúng ta chấp nhận rằng mỗi bộ não người đều đặc biệt khác nhau. The purpose of
instruction is to make us even more different from one another, and in the process of being educated we can
learn from the achievements of those more gifted than ourselves. Mục đích của sự truyền dạy kiến thức là nhằm
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3

Page 23


×