Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đề tài chiến tranh qua sáng tác của nhà văn thanh quế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HOÀNG GIANG YÊN THỦY

ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH QUA SÁNG TÁC
CỦA NHÀ VĂN THANH QUẾ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số:
60 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, Năm 2015


Cơng trình được hồn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHAN NGỌC THU

Phản biện 1: TS. BÙI BÍCH HẠNH

Phản biện 2: TS. LÊ THỊ HƢỜNG

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học
Đà Nẵng vào ngày 5 tháng 12 năm 2015


Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thơng tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước và dân tộc, sáng
tác văn học về đề tài chiến tranh vệ quốc đã là nguồn mạch chưa bao
giờ cạn trong dòng chảy văn học truyền thống nước ta nói chung và
nền văn học hiện đại nước ta nói riêng. Cho đến nay, dù đã bốn mươi
năm sau ngày giải phóng đất nước, chiến tranh tưởng như đã lùi xa,
song trong ký ức của nhiều người, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thiêng
liêng luôn gắn với chính cuộc đời họ, với bạn bè, đồng đội, gia
đình... Nhiều tác giả đã trải qua đời lính, cầm súng chiến đấu cho đến
ngày đất nước hịa bình, họ mới có điều kiện sáng tác. Ra đời trong
kháng chiến và sau chiến tranh, số lượng cũng như chất lượng tác
phẩm viết về đề tài chiến tranh đã đạt được những thành tựu quan
trọng.
Thanh Quế thuộc thế hệ nhà văn xuất hiện và trưởng thành
trong giai đọan cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, từng có mặt ở
chiến trường trong những ngày gian khổ, ác liệt nhất và cũng là
người có nhiều đóng góp cho phong trào văn học ở Quảng Nam - Đà
Nẵng, miền Trung và cả nước.
Ông đã nhiều năm làm Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng
(1986 – 1997), Tổng biên tập tạp chí Non Nước (1997 – 2009), Phó
Chủ tịch Hội văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng; Chủ tịch rồi Phó Chủ
tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Đà Nẵng; Ủy viên Ban

chấp hành Hội nhà văn Việt Nam phụ trách miền Trung. Ông đã giới
thiệu nhiều cây bút vào Hội nhà văn Việt Nam như Bùi Tự Lực,
Nguyễn Kim Huy, Nguyễn Tam Mỹ, Hồ Duy Lệ, Văn Công Hùng
(Gia Lai), Huỳnh Thạch Thảo (Phú Yên)… và giúp đỡ cho nhiều tác


2

phẩm ra đời: Ra đi lúc trời còn tối của Huỳnh Thảng, Huyền thoại
suối Hoa của Đồn Xoa, Nội tơi của Bùi Tự Lực...
Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học ở địa phương
và Trung ương mà cao nhất là giải thưởng Nhà nước năm 2012.
Gần nửa thế kỷ cầm bút, với hơn năm mươi tác phẩm bao
gồm nhiều thể loại: Thơ, trường ca, truyện, ký, tiểu thuyết, truyện
thiếu nhi, phê bình, chân dung văn nghệ..., Thanh Quế viết về nhiều
đề tài, nhưng nổi bật vẫn là những sáng tác sâu nặng ký ức về những
năm tháng ác liệt của chiến tranh trên vùng đất Quảng Đà với những
con người trung dũng vơ biên mà vẫn chan chứa tình yêu và ánh lên
những phẩm chất tốt đẹp – những khía cạnh giàu giá trị nhân bản.
Vì vậy, đi sâu tìm hiểu về đề tài chiến tranh qua sáng tác
của nhà văn Thanh Quế khơng chỉ để hiểu thêm đóng góp của một
nhà văn, mà cịn có ý nghĩa phát hiện thêm chiều sâu của mảng văn
học viết về đề tài chiến tranh qua những cá tính sáng tạo khác nhau,
mang bản sắc hiện thực cuộc sống và tâm hồn trên mỗi vùng quê
khác nhau. Qua đó có thể giúp ích cho việc cảm nhận sâu sắc hơn
thành tựu của nền văn học đương đại nước ta.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể khái quát rằng đề tài chiến tranh cách mạng trong nền
văn học Việt Nam là nguồn đề tài hấp dẫn, quý giá đối với các thế hệ
cầm bút. Việc thể hiện hiện thực chiến tranh hào hùng của dân tộc và

nhất là sau khi đất nước hịa bình đã có những nhận thức và lựa chọn
mới. Hiện thực được phản ánh khơng chỉ là cái vốn có mà đã được
các nhà văn, người cầm bút nhận thức lại qua tư tưởng, tình cảm, thái
độ của mình. Việc chọn những cách thức thể hiện mới, chân thật đã
giúp các nhà văn có được những tác phẩm sâu sắc, neo lại trong lòng
bạn đọc và gợi mở nhiều điều cần suy ngẫm về những phận người,
những tâm hồn con người trong chiến tranh và sau chiến tranh.


3

Từ những năm 1980, trên tạp chí Văn học số 2, nhà nghiên
cứu Tơn Phương Lan đã có bài “Viết về chiến tranh đôi điều suy
ngẫm”. Tác giả cho rằng “viết sau chiến tranh, phải khác với
viết trong chiến tranh, điều đó, khơng phải chỉ là nhu cầu của độc giả
mà cịn là của chính các tác giả”. Trước đây, các nhà văn “nặng về
mô tả cái anh hùng của đời sống”, bởi “hoàn cảnh sáng tác trong điều
kiện chiến đấu cực kỳ gian khổ của người viết. Mặt khác, cũng là do
yêu cầu động viên, cổ vũ cho cuộc chiến đấu bằng những tấm gương
anh hùng”. Nay, quan điểm nhìn cuộc sống trong sự phát triển đa
chiều và biện chứng của nó, “Các nhà văn đã tả được cái sống đang
cựa quậy, cái ngổn ngang, trần trụi của chiến trường, cái giản dị mà
quyết liệt của người lính”. “Nhưng điều quan trọng là ở lòng tin, ở
chủ nghĩa lạc quan như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt làm nên chỗ dựa
(…). Và thắng lợi đều do con người làm ra. Đó là những con người,
dẫu cịn những mặt này mặt kia khiếm khuyết, dẫu cịn nặng gánh gia
đình và trĩu nặng ưu tư, nhưng tất cả, biết hy sinh và dẹp xuống
những đòi hỏi của cuộc sống cá nhân…”. Để rồi qua đó, tác giả nhận
thức rằng “ghi lại những gì đã trơi qua vẫn là để đối thoại với hôm
nay và mai sau. Hôm qua dân tộc ta sống vậy, hôm nay cần phải

sống thế nào. Cái giá mà chúng ta có được hơm nay, đã phải mua
như thế đó. Chúng ta cần sống sao cho xứng đáng với những gì cả
dân tộc ta đã hy sinh. Trên ý nghĩa đó mà một số người từ tấm lịng
biết ơn mà viết ra, mà ghi lại, mà đề tặng những người đã mất”.
Trong Suy nghĩ về nghề - kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại
do Hội Nhà văn xuất bản năm 2007, nhà văn Khuất Quang Thụy có
viết: “... Khi cịn ở chiến trường, tơi chỉ viết vì một khát khao duy
nhất, ghi được càng nhiều càng tốt những kỷ niệm, những con người,
những cảnh ngộ số phận éo le do sự khắc nghiệt của chiến tranh đưa
đến. Sau này, khi chiến tranh kết thúc, tơi mới có điều kiện để hiểu ra


4

rằng, dù đã ở ngoài mặt trận, dù đã thấy được cái ác liệt và dù đã viết
nhiều trang nhưng có lẽ vẫn chưa nói được hết được... Cả đời chỉ
loay hoay viết về cuộc chiến ấy, có lẽ là số phận của thế hệ những
người cầm bút từng có những năm cầm súng như chúng tơi...”.
Cịn nhà văn Nguyễn Minh Châu với các bài: “Viết về chiến
tranh”, “Các nhà văn quân đội và đề tài chiến tranh”, “Người lính
chiến tranh và nhà văn”…, in trong tập phê bình - tiểu luận Trang
giấy trước đèn, NXB Khoa học Xã hội, năm 2002, đề cập khá nhiều
vấn đề tri ân của những người cầm bút đối với quá khứ hào hùng, với
những đồng bào, đồng chí. Nguyễn Minh Châu thấy rằng: “Viết về
hai cuộc kháng chiến, viết về chiến tranh, nhiều đồng chí cầm bút
viết văn trong quân đội đã đứng tuổi nhiều lần nói tới cơng việc đó
như một trách nhiệm, một món nợ chưa trả được. Một món nợ chưa
trả và khơng thể nào qn”. Bên cạnh đó, khi cuộc chiến đi qua,
nhiều người băn khoăn lựa chọn “con người” hay “sự kiện” làm đối
tượng chủ yếu trong tác phẩm của mình thì Nguyễn Minh Châu đã

khẳng định: “rồi trước sau con người cũng leo lên trên các sự kiện để
đòi “quyền sống”. Và viết về chiến tranh là viết về phận người, về
nhân tính của những phận người ấy.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình như Nhìn lại Văn học Việt
Nam thế kỷ XX của Viện Văn học, do NXB Chính trị Quốc gia ấn
hành năm 2002, PGS-TS. Mai Hương đã nêu một số nhận xét về Thơ
Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng, chuyên luận Văn xuôi
Việt Nam 1975-1995, NXB Giáo dục, năm 2007, Nguyễn Thị Bình
cũng đã có những phân tích, lý giải những đổi mới của văn xuôi sau
1975 khi viết về đề tài chiến tranh…
Bên cạnh đó, ở nhiều tạp chí, hội thảo, đề tài chiến tranh
cũng được đặt ra, được bàn thảo. Đơn cử như tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số 564, năm 2002, nhà văn Nam Hà có bài viết “Lại nói về chiến


5

tranh và viết về chiến tranh”, hội thảo “Tọa đàm sáng tác về đề tài
chiến tranh cách mạng” do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội Văn học
- Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam tổ chức vào năm 2012…
Gần đây, Hội thảo khoa học quốc gia Sáng tác văn học Việt
Nam thời kỳ Đổi mới: thực trạng và triển vọng được Viện Văn học tổ
chức tại Hà Nội, ngày 28.5.2015. Hội thảo đi sâu đánh giá, tổng kết
một cách toàn diện những thành tựu, hạn chế của thực tiễn sáng tác
văn học Việt Nam 30 năm đổi mới. Đề tài chiến tranh là nội dung
được khá nhiều tham luận đề cập đến với những cách nhìn mới, cách
tiếp cận mới. Nhà văn Bảo Ninh với tham luận Viết về chiến tranh
tức là viết về hồ bình, về tình u thương, về lòng nhân đạo, đức
khoan dung, tác giả bàn đến việc viết về đề tài chiến tranh xuất phát
từ sự quy chiếu đến tác phẩm và trải nghiệm sáng tác của riêng mình.

Điều tác giả muốn nhấn mạnh là sự gắn kết của văn học với đời sống
và số phận con người mà trong đó, chiến tranh hay hịa bình chỉ là
“ngoại cảnh”. Trong tham luận Văn xuôi viết về chiến tranh Cách
mạng sau năm 1975 – một hướng tiếp cận mới hiện thực, nhà văn Đỗ
Kim Cuông ghi nhận: “Hiện thực cuộc sống đã đổi thay, nhiều giá trị
chuẩn mực của tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập qn, quan
hệ xã hội… đã biến động. Một khơng khí dân chủ, cởi mở hơn trong
tranh luận”…
Tựu trung lại, những cơng trình, bài viết về văn học chiến
tranh là những cảm nhận, những suy nghĩ, những trăn trở của các nhà
văn, nhà nghiên cứu, phê bình về đề tài chiến tranh: viết thế nào để
bạn đọc chấp nhận, để hấp dẫn bạn đọc trong tình hình đất nước hơn
30 năm đổi mới như hiện nay, thành tựu của mảng văn học này đến
đâu, viết về đề tài chiến tranh để làm gì, liệu chiến tranh có là đề tài
cũ?…v.v…


6

* Những bài viết có liên quan trực tiếp đến đề tài:
Nhiều bài viết về sáng tác của nhà thơ Thanh Quế đã được
đăng trên các báo Trung ương và địa phương.
Có thể kể đến các bài viết như: “Thanh Quế, cây bút của
nhiều thể loại” của Bùi Tự Lực, “Thanh Quế, nhà văn miền Cát
cháy” của Văn Công Hùng, “Thanh Quế và thế hệ cầm bút xứ
Quảng” của Nguyễn Tam Mỹ, “Thơ Thanh Quế” của Trúc Thông,
“Truyện ngắn Thanh Quế” của Ngơ Vĩnh Bình, “Thanh Quế với
Những tháng năm vay mượn” của Hồng Hoa (tức nhà thơ Ngơ Thế
Oanh), “Ở miền Cát cháy” của Nguyễn Kim Huy, “Hành trang đời,
hành trang thơ” của Nguyễn Minh Khôi, “Chuyển động với Thanh

Quế” của Nguyễn Nhã Tiên, “Nét thực trong Bếp lửa làng Tà Băng”
của Huỳnh Thạch Thảo, “Bè trầm trong khúc quân hành” của nhà
văn Vũ Bão, phê bình tập thơ Mé biển đời tôi, tập truyện Sao anh lại
cảm ơn tôi, tập chân dung Từ những trang đời của Nguyễn
Minh Khơi…
Đáng chú ý cịn có bài viết “Thanh Quế và con người bình
thường” của nhà nghiên cứu Hồ Hồng Thanh in trong tập Về cái
chân thật của nghệ thuật, NXB Đà Nẵng, 2004; và bài viết về Thanh
Quế của Nguyễn Minh Hùng, in trong tập Văn chương nhìn từ góc
sân trường, NXB Văn học, 2003. Trong báo cáo tổng kết đề tài khoa
học cấp thành phố năm 2006 với đề tài Văn xuôi Quảng Nam – Đà
Nẵng sau năm 1975 – những vấn đề lý luận và thực tiễn của TS.
Phan Ngọc Thu cũng đã nêu những nét nổi bật trong sáng tác của
Thanh Quế…v.v…
Tất cả các bài viết trên đều chọn một vấn đề, một khía cạnh
có khi là nghệ thuật, có khi là hình tượng nhân vật trong các tác
phẩm, có khi là chính cuộc đời của nhà văn Thanh Quế để đánh giá,


7

ghi nhận những cống hiến của ông trong văn xuôi Quảng Nam
- Đà Nẵng.
Ngoài ra, một số luận văn của cử nhân và thạc sĩ đã chọn tác
phẩm của nhà văn Thanh Quế để nghiên cứu, trong đó, mới nhất có
luận văn thạc sĩ của Phan Hữu Thịnh với đề tài Đặc điểm văn xuôi
Thanh Quế (năm 2012)…v.v…
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào, chưa có tài
liệu, cơng trình nào nghiên cứu chun về đề tài chiến tranh trong
sáng tác của nhà thơ, nhà văn Thanh Quế. Trên cơ sở kế thừa và tiếp

thu ý kiến của những người đi trước, luận văn Đề tài chiến tranh qua
sáng tác của nhà văn Thanh Quế sẽ nghiên cứu sâu những đóng góp
của ơng qua những sáng tác về mảng đề tài này; qua đó nhằm nhận
thức sâu sắc hơn chân dung của một nhà văn - chiến sĩ trong đời sống
văn học Việt Nam đương đại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các sáng tác thơ, văn của Thanh
Quế viết về đề tài chiến tranh.
3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi chọn các sáng
tác tiêu biểu của nhà văn Thanh Quế: Chuyện ở miền cát cháy; Kẻ
đào ngũ; Thơ Thanh Quế; Truyện ký chọn lọc; 72 bài thơ tự chọn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu về đề
tài chiến tranh trong sáng tác của nhà văn Thanh Quế: Phương pháp
hệ thống; Phương pháp lịch sử; Phương pháp so sánh, đối chiếu;
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là tập hợp có hệ thống, có chọn lọc cùng với những
nhận xét, phát hiện về đời sống, đời văn Thanh Quế cùng quan niệm


8

và phương tiện nghệ thuật được sử dụng khi viết về đề tài
chiến tranh.
Với việc nghiên cứu Đề tài chiến tranh qua sáng tác của nhà
văn Thanh Quế, chúng tôi mong rằng sẽ giúp cho người đọc hiểu
thêm chân dung và nhữngđóng góp nổi bật đáng quý của nhà văn,
nhà thơ Thanh Quế. Qua đó, luận văn có thể là tư liệu tham khảo về
văn học Việt Nam và văn học đất Quảng đã và đang phát triển

hiện nay.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có
3 chương như sau:
Chương 1: Hồn cảnh ra đời những sáng tác của Thanh Quế
về đề tài chiến tranh .
Chương 2: Hiện thực cuộc sống chiến tranh trong sáng tác
của Thanh Quế.
Chương 3: Phương thức nghệ thuật qua sáng tác của Thanh
Quế viết về đề tài chiến tranh.
CHƢƠNG 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI NHỮNG SÁNG TÁC
CỦA THANH QUẾ VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
1.1. NHỮNG NĂM THÁNG CẢ DÂN TỘC “RA TRẬN”
CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1965 – 1975)
1.1.1. Bối cảnh lịch sử:
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, từ đầu năm
1965, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và các nước chư
hầu vào miền Nam nước ta, tiến hành “chiến tranh cục bộ” và mở
rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.


9

Đà Nẵng là địa phương mà những đơn vị chiến đấu đầu tiên
của quân Mỹ đặt chân xâm lược trên đất nước ta. Quân Mỹ, ngụy
khủng bố, giết chóc, thảm sát đồng bào ta ngày càng khủng khiếp
hơn, dã man hơn.
Trước những khó khăn như vậy, nhân dân vùng đất Quảng
Đà dù phải chịu nhiều hy sinh nhưng vẫn giữ vững niềm tin, lịng

trung kiên, ý chí cách mạng.
1.1.2. Quảng Đà - “mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ”
Quảng Nam - Đà Nẵng là địa bàn chiến lược cực kỳ quan
trọng, nơi đế quốc Mỹ và tay sai chọn làm thí điểm đánh phá ác liệt
vào dân, vào cơ sở cách mạng. Tình hình khó khăn ấy khơng những
làm chùn bước mà còn nung nấu thêm tinh thần của đội ngũ văn
nghệ. Trong đó có lực lượng sáng tác văn học tiếp tục can trường,
bền bĩ trong chiến đấu ở cả mặt trận và vùng căn cứ.
Thanh Quế là một trong số những cây bút trẻ. Ông vào chiến
trường Khu V cuối năm 1969. Từ 1969 – 1975, ông là phóng viên
chiến trường của tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ. Ông
trực tiếp tham gia cùng bộ đội, du kích chiến đấu, thu chiến lợi
phẩm, tra hỏi tù binh trong nhiều trận đánh. Ơng sống, cơng tác cùng
nhân dân, cùng những người lính ở nhiều vùng chiến sự từ Quảng Đà
đến Phú Yên.
Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ. Nhà thơ Bùi Minh Quốc
(Dương Hương Ly) đã thay mặt biết bao thế hệ nhà văn – chiến sỹ nhận
ra điều ấy. Chính tại mảnh đất này, nơi đây – nhân dân đã nuôi lớn tâm
hồn, giáo dục tinh thần của những nhà văn, của những người cầm viết.
1.1.3. Vài nét về văn học viết về đề tài chiến tranh ở
nƣớc ta
Văn học viết về đề tài chiến tranh là một mảng quan trọng
của văn học cách mạng, làm nên diện mạo chủ yếu của văn học Việt


10

Nam hiện đại. Văn học viết về đề tài chiến tranh đã có sự đóng góp
trong việc xây dựng lý tưởng thẩm mỹ cho thế hệ của một thời đại và
hướng dẫn người đọc tiếp cận thẩm mỹ ấy. Hơn thế nữa, văn học viết

về đề tài chiến tranh đã góp phần khơng nhỏ vào thắng lợi của cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh, cần động viên chiến sĩ
và nhân dân chiến đấu nên các tác phẩm lúc này chưa phản ánh hết
sự hy sinh, mất mát, đau khổ cũng như những khó khăn, ác liệt mà
chúng ta phải gánh chịu. Cũng như thế, các tác phẩm cũng chưa nói
hết sự phản bội, hèn nhát, ích kỷ của con người trong chiến tranh.
Hầu hết các tác phẩm thiên về ca ngợi sự hy sinh dũng cảm của nhân
dân, người lính mà chưa đề cập đến những tâm trạng, cảm xúc, tình
cảm. Vì vậy, phần lớn các tác phẩm mang tính chất ký, báo chí hơn
là tác phẩm văn học.
Điều này được điều chỉnh, thay đổi sau chiến tranh khi nhà
văn có đủ độ lùi, có đủ điều kiện suy nghĩ, nghiên cứu, đi lại, đọc
thêm sách báo, tài liệu của ta và địch, có quan niệm mới trong việc
viết về chiến tranh. Lúc này các nhà văn có thời gian hơn để đi sâu
vào cắt nghĩa chiến tranh bằng nhiều cái nhìn khác nhau đối với thân
phận con người trong chiến tranh, sau chiến tranh, mổ xẻ mối quan
hệ con người và chiến tranh… Nhà văn đặt mình ở nhiều vị trí để soi
chiếu, để suy ngẫm. Nghệ thuật được các nhà văn sử dụng cũng
phong phú hơn, đa dạng hơn về điểm nhìn, bút pháp.
1.2. ĐỜI SỐNG, ĐỜI VĂN VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
CỦA THANH QUẾ
1.2.1. Từ sinh viên khoa Sử trở thành phóng viên
chiến trƣờng
Phan Thanh Quế là tên đầy đủ của nhà văn, nhà thơ Thanh
Quế. Ông sinh ngày 26/02/1945 tại làng Phú Thạnh, xã An Chấn,


11


huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Năm lên mười, Thanh Quế được tổ
chức cho ra Bắc học tập ở các trường học sinh miền Nam, từ Hà
Đơng, Hải Phịng, Hà Nội rồi Thái Bình. Ơng bắt đầu làm thơ.
Mười bảy tuổi, ơng có 2 bài thơ là Đêm trời trong và Gởi
ngoại yêu được đăng ở báo Văn học (nay là báo Văn nghệ). Năm
1963, Thanh Quế học Đại học Tổng hợp sử Hà Nội. Năm 1967,
Thanh Quế tốt nghiệp khoa Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội và được
phân về Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng công tác nhưng ông đã xin về
chiến trường Quảng Đà.
Và cuối 1969, ông được điều về Hội Văn nghệ giải phóng
Khu 5. Ơng là phóng viên chiến trường của tạp chí Văn nghệ Giải
phóng Trung Trung bộ. Kể từ đây, nhà văn Thanh Quế đã gắn bó với
mảnh đất chiến trường khu V ác liệt.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn Thanh Quế
Là một nhà văn - chiến sĩ, những sáng tác của Thanh Quế
phục vụ cho cuộc sống, phục vụ chiến đấu của nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ khu V. Các tác phẩm văn học cuả ông phần lớn là cổ vũ chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần yêu nước, chống Mỹ của nhân
dân và tố cáo tội ác của địch.
Qua các sáng tác của mình, ơng thường nói: “Tơi khơng viết
văn. Tơi chỉ ghi lại những gì tơi đã sống. Tơi xin được coi thơ văn tơi
là tiếng nói riêng của tôi để tôi giãi bày tâm sự của mình với người
khác, với thiên nhiên âm dương trời đất”. Có thể xem đây chính là
quan niệm nghệ thuật của nhà văn Thanh Quế. Với ông, viết là để
“giãi bày tâm sự”.
Bên cạnh đó, theo ơng, sáng tác văn học cịn thể hiện lịng u
q hương, đất nước, gia đình, là sự biết ơn với những người đã khuất.
Nhiều trang viết của ơng về con người, vùng đất, tình cảm
của nhân dân xứ Quảng trong chiến đấu cũng như trong hịa bình,



12

xây dựng quê hương một chất giọng riêng biệt rất Thanh Quế.
1.2.3. Những sáng tác nổi bật của Thanh Quế về đề tài
chiến tranh
Trước 1975, Thanh Quế chủ yếu là viết báo, làm thơ, có các
sáng tác thơ tiêu biểu về đề tài chiến tranh như: Gặp nhau (1971),
Buôn Krông-pa (1971), Thăm chồng (1973), Đất nước có nhiều trẻ
con (1974), Trước nhà em sông Vu Gia (1974)…
Bài thơ Thăm chồng của nhà thơ Thanh Quế kể câu chuyện
về người vợ đi thăm chồng. Những câu thơ mộc mạc về tình yêu thời
chiến, với những xa cách, hy sinh, mất mát… và hình ảnh người phụ
nữ trong bối cảnh ấy, đã vượt lên trên hồn cảnh, khắc phục khó
khăn, trở ngại để đem đến sự vui vẻ, động viên tinh thần cho chồng
đang chiến đấu.
Sau 1975, khi chiến tranh kết thúc, bên cạnh công việc tham
gia công tác quản lý ở Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam - Đà
Nẵng, Thanh Quế đã dành nhiều thời gian ngồi ngẫm nghĩ và viết.
Ngồi thơ, ơng viết truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết.
Nhiều bạn bè của ông nhận thấy ở Thanh Quế một năng lực
viết truyện ngắn và nhận xét: Bên cạnh thơ, Thanh Quế có thể neo lại
trong lịng bạn đọc những truyện ngắn. Tiêu biểu có các sáng tác như
Cát cháy, Rừng trụi (tiểu thuyết), Mai, Dì Út, Bà mẹ vui tính, Mùa
mưa (truyện ngắn), Hai chị em, Chị Ba Chẩn, Kẻ đào ngũ (truyện
vừa), Trưa 30-4-1975 (thơ), Chiến khu (trường ca)…
Có thể thấy, sau chiến tranh, Thanh Quế vẫn tiếp tục viết về
đề tài chiến tranh nhưng có nhiều cố gắng trong việc khai thác đề tài,
tâm lý nhân vật, phản ánh toàn diện hơn, sâu sắc hơn mọi khía cạnh
chiến tranh, về ta và địch (trong truyện), có chiều sâu hơn, cơ đọng,

súc tích hơn (trong thơ). Do đó, Thanh Quế đã đạt được những tác
phẩm hồn chỉnh hơn giai đoạn trước.


13

CHƢƠNG 2
HIỆN THỰC CUỘC SỐNG CHIẾN TRANH
TRONG SÁNG TÁC CỦA THANH QUẾ
2.1. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG CHIẾN TRANH TRONG
SÁNG TÁC TRƢỚC NĂM 1975
2.1.1. Hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh.
Thanh Quế viết rất nhiều về đồng đội, trong đó có nhiều
người đã hy sinh. Ơng xem đây là những nén nhang chữ nghĩa thắp
lên để nhớ, để tri ân đồng đội, để phần nào thanh thản tâm hồn mình.
Ơng đã ghi lại qua những trang viết về một hiện thực gian
khổ, khốc liệt của chiến tranh. Từ những cánh rừng, làng mạc bị kẻ
thù hủy hoại bởi các loại vũ khí và chất độc hóa học đến những hoàn
cảnh đấu tranh gian khổ của dân và quân vùng đất xứ Quảng “kiên
cường, đi đầu diệt Mỹ”. Để đến nay, chúng ta – những bạn đọc khi
đọc lại những tác phẩm của ông không chỉ căm ghét chiến tranh, căm
ghét kẻ thù mà cịn tốt lên cả niềm tự hào, thán phục trước sự gan
dạ, lạc quan để có động lực chiến đấu với bọn cướp nước, bán nước
gây ra những đau thương cho dân tộc, con người Việt Nam, trong đó
có con người miền Trung hiền hịa, chất phác, chịu thương chịu khó
nói riêng.
Với Thanh Quế, có một điều đặc biệt đó là viết về chiến
tranh nhưng ơng không tả những cuộc chiến với bom đạn, với những
trận đánh nảy lửa, ông cũng không đem lại dáng vẻ phi thường của
những người hùng trong chiến đấu. Ông quan tâm sâu sắc đến những

con người bình thường như biết bao con người bình thường khác:
những cơ gái thanh niên xung phong, những người đi dân công mang
vác bom đạn phục vụ chiến đấu, lấy cắp vũ khí địch cung cấp cho du
kích, vận chuyển vũ khí cho bộ đội, những em bé dân tộc tham gia


14

đóng góp đảm phụ, đó là những lão nơng, những người mẹ, người
chị cất giữ lương thực, bám trụ, chống lại sự càn quét của địch để
không bị dồn dân, để cịn chỗ cho du kích về…
2.1.2. Hiện thực đời sống tâm hồn, tình cảm của con
ngƣời trong chiến đấu
Trong sáng tác của Thanh Quế, cái nền chiến tranh được thể
hiện như là cái phơng để qua đó làm nổi bật những tình cảm, những
suy nghĩ, cảm xúc của con người. Những cô gái mảnh dẻ nhưng kiên
cường, những thanh niên gan dạ, những người già bản lĩnh, những em
bé hồn nhiên… luôn được thể hiện một cách chân thực nhất, bình dị
nhất, đời thường nhất.
Đó là tập thể các nhân vật ln khao khát được cống hiến, được
góp sức mình với cách mạng, trong sáng khơng một chút mưu cầu riêng
cho lợi ích cá nhân, họ quyết tâm trong giữ gìn phẩm chất của một
người dân yêu nước, họ căm phẫn những thói xảo quyệt, gian mãnh của
kẻ bán nước. Qua từng câu chuyện với cảnh ngộ khác nhau, thân phận
khác nhau, với nỗi niềm riêng tư, với bản lĩnh con người miền Trung,
Thanh Quế đã đem lại một bức tranh hiện thực với tơng chủ đạo là
những tình cảm, đạo lý, tâm hồn của con người trong chiến tranh: họ
không bị khuất phục bởi sự nghiệt ngã của chiến tranh, họ sẵn sàng bảo
vệ đến cùng tình yêu gia đình, tình chồng vợ, tình đồng chí, tình chị em
và cả tình người.

Tất cả những con người bình thường với những nét đẹp tự
nhiên, giản dị ấy đang góp phần nhỏ bé của mình, làm cho cuộc sống trở
nên sáng sủa hơn, rạng rỡ hơn, tin yêu hơn và thực sự có ý nghĩa hơn.
2.2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG CHIẾN TRANH TRONG
SÁNG TÁC VIẾT SAU NĂM 1975
2.2.1. Những nỗi đau chiến tranh vẫn không nguôi trong
thời hậu chiến


15

Vẫn coi trọng mục đích phản ánh cuộc kháng chiến vĩ đại,
khẳng định chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, nhưng sau năm 1975,
Thanh Quế đề cập đến tính chân thực đúng nghĩa của chiến tranh,
của con người trong chiến tranh, sau chiến tranh.
Thanh Quế đã bắt tay vào những trang viết mà khơng chỉ nói
đến thắng lợi, mà ở đó ơng thấy cần phải nói đến những mất mát, hy
sinh, khơng chỉ nói đến niềm vui mà cịn nói đến nỗi đau do kẻ thù
gây nên, khơng chỉ nói đến nỗi đau thể xác bởi những cơn tra tấn dã
man mà còn là những dư chấn tinh thần mà họ phải chịu đựng. Một
đặc điểm trong sáng tác của Thanh Quế khi sử dụng chiến tranh như
là một thi pháp để thể hiện, trong bất kỳ hồn cảnh khó khăn, gian
khổ nào, như tính cách người miền Trung – dí dỏm, hay nói trạng,
tiếu lâm để làm dịu bớt những căng thẳng.
Sau chiến tranh, Thanh Quế là một trong những nhà văn đã
sớm nhận ra và đề cập trực diện đến những vấn đề phức tạp trong
thời hậu chiến với một cái nhìn cao thượng, nhân văn. Trong tác
phẩm thời kỳ này của Thanh Quế, ông đã đề cập đến những vấn đề
không to tát nhưng rất người, gây ra những bi kịch trong cuộc sống
đời thường.

Những trang văn xuôi, những bài thơ viết về chiến tranh của
Thanh Quế, có thể khẳng định rằng: nỗi ám ảnh, nỗi đau chiến tranh
thường trực trong các tác phẩm Thanh Quế là ở chiều sâu tâm lý, ở
những thân phận, tâm hồn con người ở sau mặt trận khói lửa...
2.2.2. Nỗi niềm sâu nặng ân tình của nhà văn đối với quê
hƣơng, đất nƣớc và đối với những ngƣời đã khuất
Bên cạnh những vấn đề của thời hậu chiến, Thanh Quế dành
phần tình cảm của mình để viết nên những tác phẩm về làng quê, về
gia đình, về những vùng đất, về những người đồng nghiệp.
Với bút pháp mộc mạc, chân thành như chính con người nhà


16

văn, Thanh Quế viết về những gì thân yêu với mình với một thái độ
yêu mến, trân trọng, biết ơn. Trong mạch thơ trữ tình của mình,
khơng chỉ dành tình cảm lớn cho tình yêu quê hương, đất nước,
Thanh Quế bày tỏ niềm thương nhớ tha thiết về người thân, đồng chí
đồng đội, nhất là về những người đã đi xa mãi mãi.
Tất cả tiếng lịng trữ tình của Thanh Quế đã vang lên, có lúc
dịu dàng, trong trẻo, có lúc ngọt ngào nhưng cũng có lúc ray rức, có
lúc nén chặt, có lúc ân hận... Dù cuộc đời có những lúc thăng trầm,
đất nước có những lúc binh biến, cuộc sống có những lúc vui buồn,
con người có những lúc đổi thay, nhưng với thơ văn Thanh Quế, ông
luôn giữ cho mình những cảm xúc chân thật, và mong được chia sẻ
cảm xúc ấy như lời tự tình của “Tiếng đàn đêm”: “Ta chỉ tặng riêng
cho những người có trái tim đẫm buồn và nhân hậu. Tặng cho những
ai chịu nhiều thua thiệt trong đời. Và chỉ dành riêng cho những
người ấy mà thôi”.
2.2.3. Hiện thực cuộc sống hồi sinh trên quê hƣơng đất

Quảng
Những tác phẩm của ông viết về chiến tranh sau 1975 đã
dành nhiều trang miêu tả vẻ đẹp sự sống, vẻ đẹp tuổi trẻ, niềm lạc
quan yêu đời, những suy nghĩ chân thành, hồn nhiên, những nhân
cách đáng quý, niềm tin tưởng sâu sắc về một ngày mai tươi sáng.
Có thể nói mỗi câu chuyện viết về những thành quả đáng
trân trọng của những nhân vật trong nỗ lực xây dựng quê hương sau
chiến tranh đều được Thanh Quế thể hiện một cách tinh tế, giản dị,
xúc động. Những mất mát nghiệt ngã, những nghịch cảnh trớ trêu,
những tổn thương tâm lý do chiến tranh gây ra khơng làm thui chột ý
chí kiên cường của họ. Các nhân vật của Thanh Quế đều vượt qua,
vươn lên và quan trọng là có niềm tin vào tình người, vào lẽ sống,
vào nhân cách, lý tưởng mà họ tin theo.


17

CHƢƠNG 3
PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT QUA SÁNG TÁC CỦA
THANH QUẾ VIẾT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
3.1. NGƠN NGỮ, HÌNH ẢNH
3.1.1. Đặc điểm chung
Ngôn ngữ trong truyện và thơ ông được diễn đạt một cách
giản dị, trực tiếp, chính xác và trong sáng.
Ở ngôn ngữ nhân vật, Thanh Quế cũng đã đem đến cho bạn
đọc những trang văn với ngôn ngữ trong sáng, đi vào nội tâm. Ở cách
diễn đạt, Thanh Quế đã chọn cho mình thứ ngơn ngữ súc tích, hình
ảnh gợi tả.
Đối với thơ Thanh Quế, ơng đã tạo ra cho mình phong cách
riêng: hàm súc và kiệm lời, ngôn ngữ thơ cô đúc, chặt chẽ với số từ ít

nhưng lại có khả năng mang lại tính khái quát cao, giàu sức biểu
hiện.
Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn xuôi Thanh Quế thể hiện
chất liệu đời sống hiện thực phong phú, giàu tính hồi ức. Qua đó đem
đến cho bạn đọc những trang văn sinh động, nhẹ nhàng và đầy tình
cảm.
3.1.2. Đặc điểm riêng của ngơn ngữ, hình ảnh qua thể loại
văn xuôi
Qua nghiên cứu các tác phẩm của nhà văn Thanh Quế, điều
có thể dễ nhận thấy đó là “Truyện của anh có được cái góc cạnh,
mực thước, trực tiếp giải quyết gọn những chủ đề đã định sẵn, bỏ
qua cái giai đoạn từ ngữ hoa lá và lối diễn đạt vịng vo khơng cần
thiết".
Chiến tranh trong sáng tác của Thanh Quế không là sự miêu
tả trực diện của những ác liệt nơi chiến trường, mà đó là cuộc chiến


18

tranh “thuộc về chiều sâu của những ám ảnh”, trong ông không có
nỗi buồn chiến tranh mà tràn ngập nỗi đau chiến tranh, phần lớn thể
hiện tinh thần quật khởi, ý chí quyết thắng cũng như sự hy sinh lớn
lao và cao cả của những người dân.
3.1.3. Đặc điểm riêng của ngơn ngữ, hình ảnh qua thể
loại thơ
Thơ Thanh Quế đạt tới độ “ý tại ngôn ngoại”. Đằng sau vẻ
thô ráp mộc mạc kia là sự đa tầng, đa nghĩa, là những tư tưởng, suy
ngẫm. Thơ ông ngắn gọn, nhiều triết lý.
Vốn là nhà văn, thơ Thanh Quế với câu chữ như lời nói
thường nhưng thật lạ cứ tự nhiên thấm vào tâm hồn bạn đọc. Chính

sự từng trải, chính bản chất đôn hậu, thương yêu con người của
Thanh Quế đã đem đến thơ ông sự mộc mạc, giản đơn nhưng giàu
cảm xúc. Sự mẫn cảm của ông đã cho ông có được những chi tiết ấn
tượng, những câu thơ có khối, có hình ảnh.
3.2. KẾT CẤU
3.2.1. Cấu tứ trong thơ
Thơ Thanh Quế nén chặt tinh tế. Thơ ông thường ngắn, rất
ngắn, nhưng chứa đựng hàm ý lớn. Ơng khơng câu nệ chữ, không
câu nệ vần. Nhưng đặc biệt, ông rất chú trọng đến tứ và ý đằng sau
các con chữ, làm cho những bài thơ có khả năng tạo sức ám ảnh lớn
cho bạn đọc.
Về mặt ngôn từ, cách diễn đạt ý tưởng trong lớp vỏ trần trụi
thô nhám, mà nói như Trúc Thơng: "Thanh Quế chiến đấu cho thơ
mình bằng thứ ngơn ngữ ít cách điệu hay nói thật chính xác là anh
cách điệu bằng thứ ngơn ngữ sát sạt đời sống, sâu xa ẩn kín trong
lớp vỏ thô tháp...".
3.2.2. Kết cấu, cốt truyện trong văn xuôi
Trước hết, Thanh Quế thường cấu tứ truyện như một bài thơ,


19

dành phần cuối truyện để làm bật lên chủ đề. Truyện Mai, Mùa mưa,
La Hai... như những bài thơ ngắn. Truyện vừa Hai chị em, tiểu
thuyết Cát cháy… bố cục như một bài thơ dài.
Chất thơ bàng bạc trong các truyện ngắn trữ tình lãng mạn
của Thanh Quế, từ cách lựa chọn chủ đề đến kết cấu, diễn tiến và
tính cách của nhân vật.
Truyện của ông được thực hiện theo chủ đề hơn là trải theo
cốt truyện, lấy chủ đề làm tâm điểm để các sự kiện, câu chuyện diễn

ra chung quanh. Như ở truyện Mai, Thanh Quế lấy tâm điểm là tên
của cô Mai - một nữ chiến sĩ giao liên đã hy sinh, chung quanh đấy là
những câu chuyện thực và huyền thoại về những cô Mai. Qua đó nêu
bật lên chủ đề: Sự hy sinh của nhân dân cho Tổ quốc là vô tận.
Kết cấu của tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh trong sáng
tác Thanh Quế phần lớn là kiểu kết cấu tâm lí theo dịng cảm xúc của
nhân vật trữ tình mà hầu như chính là người kể chuyện.
3.3. GIỌNG ĐIỆU
Trong sáng tác của Thanh Quế, giọng điệu nghệ thuật thể
hiện ở nhiều “giọng” khác nhau tạo nên một sự phong phú, đa dạng
của các giọng kể. Giọng của tác giả cùng với giọng nhân vật, hóa
thân vào từng nhân vật, thể hiện tinh thần khách quan, không áp đặt
người đọc trong đối thoại, trong tranh luận đối với những vấn đề và
những giá trị đặt ra trong cuộc sống. Phối hợp nhiều giọng điệu,
Thanh Quế đã tạo cho mình một giọng rất riêng, rất Thanh Quế.
Qua khảo sát các sáng tác về đề tài chiến tranh của Thanh
Quế, có ba giọng điệu cơ bản: giọng lãng mạn sử thi; giọng trữ tình
sâu lắng; giọng gần gũi đời thường.
3.3.1. Giọng điệu lãng mạn sử thi
Thanh Quế với những sáng tác viết về chiến tranh phần lớn
mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng một cách đầy tự hào và đầy


20

tinh thần lạc quan qua những câu chuyện, hình ảnh của nhân dân một
vùng đất kiên cường trong đấu tranh.
Hiện thực kháng chiến chồng chất khó khăn, gian khổ, thiếu
thốn về vật chất, chịu nhiều mất mát, hy sinh, nhưng con người vẫn
mơ ước, vẫn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc: lạc quan,

lãng mạn, hóm hỉnh, yêu đời; xác định lí tưởng sống cao đẹp; tin
tưởng vào sức mạnh, chiến thắng của dân tộc và khát vọng xây dựng
đất nước hịa bình, tươi đẹp.
3.3.2. Giọng điệu trữ tình sâu lắng
Thanh Quế làm thơ, viết văn như trị chuyện. Chính bởi cái
giọng văn rất riêng, độc giả đến với những khoảnh khắc chiến tranh
trong tác phẩm của ơng đều có cảm nhận về một tình cảm u
thương con người, chia sẻ với từng số phận con người, đau với
những nỗi đau trong chiến tranh, buồn với những tráo trở, lừa lọc để
được khen thưởng, để có thành tích của những con người sau chiến
tranh…
Thanh Quế ít khi miêu tả mà chủ yếu là ông suy ngẫm từ
những sự kiện rồi khái quát lên thành chủ đề. Và qua đó đem đến bạn
đọc những trang văn, những câu thơ rất thực, rất hồn và rất người,
đồng thời gợi mở những cảm xúc sâu xa cho bạn đọc, lay động tâm
hồn bạn đọc trước những nỗi đau không tả thành lời.
Giọng điệu trong sáng tác của Thanh Quế là giọng điệu đằm
thắm, chất phác, không mỹ miều, bay bướm. Ngôn ngữ văn chương
Thanh Quế là lối ngôn ngữ gọn, chắc, kiệm lời nhưng đầy ý.
3.3.3. Giọng điệu gần gũi đời thƣờng
Thanh Quế duy trì lối viết giản dị, ít rào đón mà gần gũi với
đời thường, chân thật trong giọng điệu. Ngịi bút tác giả như khơng
hề biết đến những kiểu cách, những nghi thức. Ông viết trên tư thế
bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người. Lối văn đó phù


21

hợp với cái hiện thực đời thường mà ông mô tả.
Chính vì vậy, bạn đọc có cảm giác văn của Thanh Quế gần

gũi, lôi cuốn hơn. Giọng điệu gần gũi đời thường này xuất hiện với
tần số khá cao trong sáng tác của Thanh Quế viết về đề tài chiến
tranh, đơi khi lắng đọng ở những câu văn kể hịa trộn với tả. Những
câu văn mang đẫm chất thơ.
Viết về cuộc sống sinh hoạt đời thường gần gũi của người
dân Đất Quảng, Thanh Quế đã chọn cho mình giọng điệu dân dã,
mộc mạc cứ tự nhiên chảy ra từ vốn sống của nhà văn, gắn bó với
mảnh đất “chưa mưa đà thấm” cùng với niềm đồng cảm, chia sẻ. Nét
tiêu biểu trong giọng điệu gần gũi đời thường và tạo ấn tượng trong
lịng độc giả là một thứ ngơn ngữ đậm sắc thái địa phương xứ Quảng.


22

KẾT LUẬN
Trong nền văn học dân tộc, nhất là từ 1945 đến nay, mặc dù
chưa thể thống kê có bao nhiêu tác phẩm viết về đề tài tranh chiến
tranh nhưng có một điều chắc chắn rằng chiến tranh mãi là đề tài lớn
của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ.
Những tính cách cao đẹp xuất hiện trong chiến tranh không
những không mất đi mà cịn thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau,
tạo sức hấp dẫn lớn. Một loạt những nhà văn, nhà thơ trưởng thành
trong chiến tranh và thế hệ trẻ sau chiến tranh đã và sẽ đem đến
những vấn đề mới, sáng tạo về một đất nước với lịch sử hàng trăm
năm chống giặc ngoại xâm để đem lại một Việt Nam thanh bình,
phát triển như hơm nay.
Bằng ngịi bút, bằng cái tâm, mỗi nhà văn tiếp tục làm rõ
những giá trị truyền thống bền vững của con người Việt Nam trong
chiến tranh; mặt khác, xuất phát từ yêu cầu cuộc sống hiện tại, tìm ra
trong chiến tranh những bài học, những kinh nghiệm quý báu nhằm

góp phần can thiệp vào những vấn đề nóng hổi và phức tạp của cuộc
sống hơm nay. Từ đó cho thấy sự thay đổi về tư duy, cách nhìn lịch
sử, con người tồn diện, để vươn tới những tác phẩm sâu sắc hơn,
nhân bản hơn.
Qua những hội thảo, qua các cuộc thi truyện ngắn, bút ký
hay qua các cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca, viết hồi
ký về đề tài chiến tranh cách mạng cùng việc xuất bản khá nhiều ấn
phẩm văn học các năm qua, chúng tôi nhận thấy đề tài chiến tranh
cách mạng vẫn đang là nhựa sống tuôn trào, có sức vẫy gọi các tác
giả, nhà văn, nhà thơ, để rồi có thêm những tác phẩm hay, những xúc
cảm mới về giá trị đích thực của một thời gian khó nhưng khơng kém
phần oanh liệt, hào hùng.


23

Thanh Quế là một nhà văn-chiến sĩ, trưởng thành từ cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Ông đã sống, chiến đấu với cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân trên dải đất Liên khu V u q. Ngồi cơng việc của
nhà văn, phóng viên chiến trường, ơng cịn làm nhiệm vụ của một
cán bộ tuyên huấn, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân trụ
bám, chống địch, ni dấu cán bộ, du kích, bộ đội, tham gia chiến
tranh chính trị, binh vận, đóng góp lương thực, thực phẩm, tiền của
cho cách mạng. Bằng thơ, văn, ông đã miêu tả cuộc sống và chiến
đấu của quân dân ta trên dải đất miền Trung, nhằm động viên cán bộ,
chiến sĩ, nhân dân khu V đẩy mạnh kháng chiến, góp phần vào sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những tác phẩm của ông cùng với các nhà văn khác thời
kháng chiến chống Mỹ là một thế giới nghệ thuật sinh động, ghi lại
cuộc chiến đấu của quân dân khu V, phản ánh cho thế giới hiểu về

cuộc chiến chính nghĩa và anh hùng của nhân dân Việt Nam, để càng
ủng hộ và cổ vũ cho cuộc chiến đấu ấy.
Mặt khác, tác phẩm của ông về đề tài chiến tranh góp phần
giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ ngày nay, nhằm ghi nhớ công
lao những lớp cha anh đi trước và đồng thời là động lực để vượt qua
khó khăn, gian khổ xây dựng địa phương, đất nước trở nên giàu
mạnh hơn.
Ở Thanh Quế, bạn đọc có thể khơng tìm thấy những tác
phẩm gây xơn xao dư luận, cũng khơng có những tác phẩm xô bồ,
phù phiếm, chạy theo thị hiếu rẻ tiền. Nhưng với những tác phẩm của
mình, trong đó có sáng tác viết về đề tài chiến tranh, nhà văn Thanh
Quế đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, văn học Quảng
Nam – Đà Nẵng nói riêng một phong cách mộc mạc, chất phác, trung
thực và đầy tình cảm.


×