Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

22888 16122020234135825PHMTHTHUTHYBnchnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đề tài: VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thu Thủy
Lớp
: 15SGC
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đinh Thị Phượng

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đề tài: VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thu Thủy
Lớp
: 15SGC


Giảng viên hướng dẫn: TS. Đinh Thị Phượng

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất cứ hình
thức nào trước đây. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào tơi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về nội dung khoa học của khóa luận.
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019
Tác giả

Phạm Thị Thu Thủy


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
TS. Đinh Thị Phượng, người đã luôn động viên, quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ tận tình
tơi về mặt chun mơn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cơ giáo khoa Giáo
dục Chính trị - Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện giúp đỡ,
truyền đạt những kiến thức lý luận và thực tiễn trong q trình tơi triển khai viết và
hồn thiện đề tài. Cuối cùng, xin được gửi lời cảm ơn đến tập thể sinh viên lớp 15SGC
khoa Giáo dục Chính trị đã có những góp ý chân thành, động viên để tơi làm tốt khóa
luận này.
Đề tài chắc chắn sẽ khơng thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tơi rất
mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý thầy cơ, các bạn và những người có kinh
nghiệm để được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2018

Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Ở VIỆT
NAM ..................................................................................................................... 7
1.1 Quá trình tiếp thu và truyền bá triết học Mác – Lênin ở Việt Nam ........ 7
1.1.1 Quá trình tiếp thu ........................................................................................ 7
1.1.2 Quá trình truyền bá ................................................................................... 13
1.2 Những nội dung cơ bản của triết học Mác – Lênin ................................. 17
1.2.1 Nội dung của phép biện chứng duy vật.................................................... 17
1.2.2 Nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử ................................................. 29
1.3 Vai trò cơ bản của triết học Mác – Lênin ................................................. 34
1.3.1 Vai trò thế giới quan ................................................................................. 34
1.3.2 Vai trò phương pháp luận......................................................................... 37
1.3.3 Vai trò khác ............................................................................................... 39
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM......................................................................................................... 43
2.1 Khái quát về công cuộc đổi mới và những vấn đề đặt ra ........................ 43
2.1.1 Khái quát về công cuộc đổi mới ở Việt Nam ........................................... 43
2.1.2 Những vấn đề đặt ra trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam ................... 48
2.2 Vai trò của triết học Mác – Lênin trong công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay .............................................................................................................. 52
2.2.1 Triết học Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng cho công cuộc đổi mới của

Việt Nam ............................................................................................................. 52
2.2.2 Triết học Mác – Lênin định hướng con đường đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Việt Nam ............................................ 54


2.2.3 Triết học Mác – Lênin định hướng con đường xây dựng và phát triển
đất nước trong bối cảnh mới hiện nay .............................................................. 59
2.2.4 Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận giải quyết vấn đề xã hội mới nảy
sinh ...................................................................................................................... 62
2.3 Khuyến nghị ................................................................................................. 68
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 69
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 71
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 73


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Triết học Mác – Lênin ra đời từ những năm 40 của thế kỉ XIX. Ngay từ khi mới ra
đời, triết học Mác – Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học: triết
học khơng chỉ có vai trị giải thích thế giới mà cịn cải tạo thế giới. Cũng như các
ngành khoa học khác, triết học Mác – Lênin thực hiện nhiều vai trò khác nhau: nhận
thức, giải thích, dự báo, giáo dục v.v..Trong đó, quan trọng nhất là vai trò thế giới
quan, phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Vai trò
to lớn của triết học Mác – Lênin đã được thực tiễn thừa nhận. Từ một “bóng ma ám
ảnh châu Âu”, triết học Mác - Lênin đã được hiện thực hóa trong phong trào cơng
nhân, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn
thế giới. Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến
tiến trình phát triển của lồi người, là chỗ dựa cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
đứng lên đấu tranh tự giải phóng, xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới. Những thắng lợi to lớn của chủ nghĩa xã hội đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, là

minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt, trường tồn của triết học Mác – Lênin.
Là học thuyết khoa học và cách mạng, triết học Mác – Lênin sống mãi trong sự nghiệp
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới và là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng Cộng sản.
Vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
lịch sử cụ thể của Việt Nam đã giúp Đảng cộng sản Viêt Nam giải quyết thành công
những vấn đề thực tiễn cách mạng đề ra. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học
Mác – Lênin vào Việt Nam đã đưa nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ
thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nhà nước
công công đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đến là giành được những thắng lợi vẻ vang
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ
có chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể vạch rõ được hướng đi đúng cho con đường đi
lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và đưa nước ta bước vào thời kì đổi mới tồn diện.
Ngồi ra, chính triết học Mác – Lênin đã làm thay đổi nhận thức, trở thành hệ tư tưởng

1


chính thống của tồn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân
dân Việt Nam.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đến nay, nước ta bước vào
một giai đoạn phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng, tạo nên
diện mạo hoàn toàn mới cho Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi dân tộc Việt
Nam phải biết làm chủ mình, nắm bắt thời cơ, vận dụng cơ hội, vượt qua thử thách,
tránh nguy cơ tụt hậu v.v.. Bối cảnh này đã và đang đặt ra vấn đề tiếp tục đổi mới tư
duy, nhận thức lại, nhận thức đúng đắn vai trò của triết học Mác – Lênin trong giải
quyết những vấn đề của thời đại. Nghiên cứu vai trò của triết học Mác – Lênin có một
ý nghĩa hết sức quan trọng, cấp bách và thiết thực thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu.

Với những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Vai trò của triết học Mác –
Lênin ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát quá trình tiếp thu, truyền bá, những nội dung cơ bản của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phân tích vai trò thế giới quan và
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin và những vấn đề đặt ra trong công cuộc
đổi mới ở Việt Nam; đề tài làm sáng tỏ vai trò nền tảng tư tưởng, vai trò định hướng
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng, phát triển đất nước, giải quyết những
vấn đề mới nảy sinh trong trong bối cảnh hiện nay của nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Khái quát về quá trình tiếp thu, truyền bá triết học Mác – Lênin vào Việt Nam.
- Khái quát về nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
- Phân tích vai trị thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin.
- Khái quát về công cuộc đổi mới và những vấn đề đặt ra.

2


- Chỉ ra và phân tích vai trị nền tảng tư tưởng của triết học Mác ở Việt nam.
- Phân tích vai trị định hướng con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới
ở nước ta
- Phân tích vai trị định hướng q trình xây dựng và phát triển đất nước, giải quyết
những vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh mới.
- Đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của triết học Mác – Lênin trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài có đối tượng nghiên cứu là vai trị của triết học Mác – Lênin trong cơng
cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu là vai trị nền tảng tư tưởng và vai trò định hướng
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng, phát triển đất nước, giải quyết những vấn
đề mới nảy sinh trong đổi mới từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của Triết học Mác –
Lênin về vai trò thế giới quan và phương pháp luận.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: Phương pháp
nghiên cứu văn bản, tài liệu; Phương pháp phân tích và tổng hợp; Phương pháp logic
và lịch sử.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:
- Chương 1: Khái quát về triết học Mác – Lênin ở Việt Nam.
- Chương 2: Vai trò nền tảng tư tưởng và định hướng của triết học Mác – Lênin trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

3


6. Tổng quan tài liệu
Xoay quanh đề tài Vai trò của triết học Mác – Lênin ở Việt Nam hiện nay, xuất
hiện nhiều tác giả, nhà nghiên cứu với nhiều bài viết, cơng trình. Tập trung:
Thứ nhất, bàn về triết học và vai trò của triết học: Triết học trong “thế giới
phẳng”, tác giả Hồ Sỹ Quý đã đưa ra những suy tư của mình về diện mạo của triết học
trong kỷ ngun tồn cầu. Đó là: Tại sao triết học, trong khi vẫn có đầy đủ uy tín của
mình trên diễn đàn quốc tế, lại kém đi vào cuộc sống đến thế. Một khi các nhà triết học
không biết ngăn chặn cái ác, cái xấu thì khi đó, tiếng nói nhân đạo, những định hướng

giá trị sáng suốt sẽ ra sao. Liệu triết học trong kỷ nguyên toàn cầu có đủ khơn khéo để
nhắc nhở lồi người tơn trọng những giá trị quý báu của những bài học đã từng phải trả
giá cho quá khứ [37]. Trong “Những vấn đề cơ bản và cấp bách của triết học Mácxít”,
của Nguyễn Thế Nghĩa – Thái Thị Thu Hương, thể hiện những tìm tịi mới của tập thể
tác giả về cách tiếp cận đối tượng triết học, về logic nghiên cứu và phương pháp trình
bày các vấn đề cơ bản và cấp bách của triết học trên lập trường, quan điểm Mácxít.
Trong “Người ta cần triết học để làm gì?” của Nguyễn Thúy Vân, bài viết đề cập đến
một vấn đề tuy khơng mới nhưng cũng khơng dễ có câu trả lời, đó là vấn đề “người ta
cần triết học để làm gì?”.Trên cơ sở phân tích những vấn đề liên quan đến câu hỏi
trên, tác giả cho rằng, chính nội dung của những tri thức triết học và chỉ nó mới làm
sản sinh năng lực nhận thức của con người cách suy nghĩ và hành động phù hợp với
hiện thực được phản ánh [46, tr.2]. Đó là lý do người ta cần triết học. Trong “Nhận
thức lại vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu”: Từ diện mạo triết học thế giới
cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI” của Phạm Văn Đức và Đặng Hữu Toàn – đồng chủ
biên, bài viết đã đề cập đến ba chủ điểm chính – vai trị của triết học Việt Nam, triết
học C.Mác và triết học nói chung trong kỷ nguyên tồn cầu [15, tr.22-25]. Trong “Vai
trị định hướng của triết học trong nhận thức và giải quyết những vấn đề toàn cầu ở
thời đại hiện nay” của Đặng Hữu Toàn, tác giả cho rằng: Triết học với các chức năng
vốn có – chuẩn mực, phê phán, định hướng, tiên đốn khoa học và tổng hợp tri thức,
không chỉ đem lại cách tiếp cận phức hợp, liên ngành trong việc nhân thức bản chất,
xu hướng vận động và phát triển của những vấn đề tồn cầu, mà cịn phản ánh chúng
một cách đúng đắn theo quan điểm phát triển toàn diện và lịch sử - cụ thể, để từ đó tìm
ra và khẳng định những phương thức giải quyết hợp lý [43, tr.2]. Muốn vậy, triết học

4


không chỉ cần phải tuân theo một triết lý mới về sự phát triển bền vững, mà còn phải
hướng tới bản chất nhân văn, tính nhân đạo, khát vọng dân chủ, tự do và bình đẳng với
tư cách thuộc tính vốn có của con người và trong cả cộng đồng nhân loại. Khơng chỉ

thế, triết học cịn phải trở thành trung tâm cho q trình tổng hợp văn hóa trên cơ sở
thay đổi lối triết lý một chiều truyền thống của mình. Trong “Vai trị của triết học đối
với phát triển kinh tế”, tác giả Trần Văn Phòng khẳng định: Triết học là hạt nhân lý
luận của con người. Thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định quan điểm kinh tế,
chính trị, văn hóa, nghệ thuật, đạo đức… như thế ấy. Do vậy, triết học khoa học đúng
đắn có vai trị hết sức to lớn đối với sự phát triển của xã hội nói chung, của kinh tế nói
riêng [32, tr.31]. Trong “Thế giới quan - Chiếc la bàn định hướng cuộc sống”, theo tác
giả Bùi Quang Minh thế giới quan đóng vai trị nhân tố sống động của ý thức cá nhân,
giữ vai trò chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân. Nó đồng thời cũng thể
hiện lý luận và khái quát hóa các quan điểm và hoạt động của nhóm xã hội. Mỗi cá
nhân cũng luôn mong muốn tiếp nhận những thế giới quan khác, làm phong phú thế
giới quan cho mình, góp phần điều chỉnh định hướng cuộc sống.
Thứ hai, bàn về vai trò của triết học Mác – Lênin ở Việt Nam: Trong “Vai trò
của triết học Mác – Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay” của Lê
Văn Quang, tác giả khẳng đinh: trong hàng loạt nhân tố tạo nên sự thành công của quá
trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam, triết học Mác – Lênin có vai trị đặc biệt quan
trọng. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay, triết học Mác – Lênin vẫn giữ được tính
khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng,
nó giúp cho Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời
đại có liên quan chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời là cơ sở lý luận và
phương pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
[34]. Trong “Vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin về vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức vào việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay” của Đỗ Hồng Huyền, tác giả cho rằng: Ở Việt Nam, định hướng xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn rất
cơ bản, vừa liên quan đến đường lối, chính sách, giải pháp, vừa liên quan đến nhận
thức, ý chí cách mạng. Trước những biến động không ngừng của thực tiễn xã hội trong
và ngoài nước, qua 10 kỳ Đại hội, Đảng ta không ngừng tổng kết thực tiễn, thẳng thắn

5



chỉ ra những ưu, khuyết điểm trong công cuộc xây dựng đất nước, từ đó bổ sung, hồn
chỉnh và vận dụng quan điểm có tính chất phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam [19].
Từ những gợi mở trên, các tác phẩm đã hệ thống hóa được được kiến thức cơ
bản về triết học; Vai trò cơ bản của triết học Mác – Lênin, giúp tôi gợi mở nhiều vấn
đề. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào đi sâu nghiên cứu về vai trị của triết học Mác –
Lênin trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đây là động lực to lớn, thôi thúc tôi mạnh
dạn chọn đề tài Vai trò của triết học Mác – Lênin ở Việt Nam hiện nay để tiếp tục
nghiên cứu.

6


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Ở VIỆT NAM
1.1 Quá trình tiếp thu và truyền bá triết học Mác – Lênin ở Việt Nam
1.1.1 Quá trình tiếp thu
Triết học Mác – Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Trong học thuyết Mác – Lênin, tính khoa học được thể hiện rõ từ tổng thể cấu
trúc đến các bộ phận hợp thành trên cơ sở thế giới quan duy vật triệt để và phương
pháp biện chứng duy vật. Bản thân phương pháp biện chứng duy vật – linh hồn của
chủ nghĩa Mác cũng mang trong mình một tinh thần cách mạng sâu sắc, bởi “trong
quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm
cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì
mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là
xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện chứng khơng khuất phục trước một
cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng” [25, tr.35].
Sự phát triển của triết học Mác – Lênin gắn với quá trình chuyển biến lập

trường chính trị, tư tưởng của hai ơng và những mốc xuất hiện những tác phẩm kinh
điển. Cụ thể: Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là q trình hai ơng từng bước xây
dựng những ngun lý triết học của mình. Năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác
phẩm “Tun ngơn cộng sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ
nghĩa Mác, của phong trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế
giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với tác
phẩm “tuyên ngôn cộng sản” triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành.
Từ sau “tun ngơn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát triển trong
sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh tụ. Bằng hoạt
động của mình, hai ơng đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản từ tự phát
thành phong trào tự giác, chính qua đó, học thuyết triết học của hai ông không ngừng
được phát triển.
Triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh nó đã trực tiếp đi
vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vơ sản. Vì thế, nội dung của

7


nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc Châu Âu, trong đó có nước Nga.
Nhưng sau khi C.Mác và Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế giới có nguy cơ bị
những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những người này tuyên
truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung và triết
học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có
những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn
căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới “cuộc khủng hoảng vật lý”. Lợi dụng
tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan)
cơng kích chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907
thất bại, những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ

“bảo vệ chủ nghĩa Mác” để xuyên tạc triết học Mác. V.I.Lênin phát triển triết học Mác
thông qua cuộc đấu tranh bảo vệ triết học Mác, đặc biệt trong hoàn cảnh “cuộc khủng
hoảng tư tưởng” ở nước Nga sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907. Trong
những năm 90 của thế kỷ XIX, Lênin nghiên cứu thể chế xã hội Nga và vai trò của các
giai cấp khác nhau trong cuộc cách mạng đang tới gần, phê phán mọi hệ thống quan
điểm duy tâm chủ quan của những người dân túy. Ý nghĩa to lớn của sự phê phán đó
được thể hiện trong tác phẩm “Những người bạn dân là những người như thế nào và
họ đã chống lại những người dân chủ - xã hội ra sao? (1894). Đây là tác phẩm đánh
dấu giai đoạn Lênin trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác
nói riêng. Tác phẩm đã thể hiện một trong những tính chất đặc biệt của Lênin – nhà
triết học, nhà cách mạng phát xít – đó là sự sáng tạo khi vận dụng lý luận chung vào
việc phân tích hiện thực cụ thể, vận dụng triết học vào những nhiệm vụ chính trị của
giai cấp vơ sản. Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ
nghĩa Makhơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở Nga. Trong tác
phẩm, Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất, Lênin
xây dựng định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ
thêm nhiều vấn đề lý luận nhận thức mácxít. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng

8


đã giúp cho V.I. Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước, bạo lực cách mạng, chun chính vơ
sản, lý luận về đảng kiểu mới. Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của V.I. Lênin đã
làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trở thành hệ thống lý luận thống nhất của giai
cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Với tư cách là một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác – Lênin đã lý
giải một cách khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết

học Mác – Lênin đóng vai trị là cơ sở lý luận, là hạt nhân của thế giới quan. Chính
triết học đã lý giải về mặt lý luận toàn bộ các dữ kiện của hiện thực khách quan và
hoạt động thực tiễn của con người một cách lịch sử - cụ thể và khoa học nhất. Thế giới
quan của triết học Mác – Lênin mà linh hồn của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng nhất, là đỉnh cao
của trí tuệ nhân loại.
Với bản chất khoa học và cách mạng, triết học Mác – Lênin được nhiều nước
tiếp thu và vận dụng như Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Châu Âu, Liên Xơ. Q
trình truyền bá chủ nghĩa Mác, triết học Mác vào mỗi nước có đặc điểm riêng. Vận
dụng triết học Mác một cách linh động làm thay đổi diện mạo của Trung Quốc, Nhật
Bản, Liên Xô, thúc đẩy xã hội phát triển. Điều này đã được thực tiễn chứng minh.
Ở Việt Nam, ngoài Nguyễn Ái Quốc là người tiêu biểu nhất trong quá trình tiếp
thu triết học Mác – Lênin thì bên cạnh đó vẫn có một số nhà yêu nước khác. Nhiều
người cho rằng Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền là những
người sau Nguyễn Ái Quốc đã sớm có cơng trong việc tiếp thu và truyền bá triết học
Mác vào Việt Nam. Trong thời gian ở Pari, Nguyễn An Ninh liên hệ với Phan Châu
Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc và được mọi người
tin cây, quý mến. Tháng 12 năm 1923, ông xuất bản báo Tiếng Chuông Rè, Nước
Nam; viết cả tiểu thuyết, viết sách, vạch mặt bọn thực dân xâm lược, vừa phê bình
Khổng giáo, vừa kêu gọi thanh niên hãy sống có lý tưởng vì Tổ quốc, kêu gọi đồng
bào xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc. Tiếng Chuông Rè là tờ báo đầu tiên ở
Đông Dương đăng công khai “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền”, đăng tồn văn
“Tun ngơn của Đảng Cộng sản” (1848) của C.Mác và Ph.Ăngghen, đăng các bài

9


bênh vực Liên Xô, Cách mạng tháng Mười Nga và ủng hộ Nguyễn Ái Quốc, cho thấy
ông thiên hướng theo chủ nghĩa Mác và tiếp thu những điểm tích cực của triết học
Mác – Lênin. Ngồi ra chúng ta khơng thể không nhắc Nguyễn Khoa Văn. Sau khi

Đảng Tân Việt tan rã, bị chính quyền thực dân bắt giam, khi được ra tù năm 1933,
Nguyễn Khoa Văn trở lại với vũ khí quen thuộc của mình là cây bút. Ơng viết báo với
bút hiệu mới là Hải Triều. Là người còn trẻ tuổi, trong khi tranh luận với các ý kiến
cịn có những điểm khác biệt mấu chốt về quan điểm, Hải Triều vừa thể hiện sự thẳng
thắn, rạch ròi và đề cao chân lý học thuật, mặt khác ông ln ln tơn trọng sự bình
đẳng, dân chủ. Trên lập trường mácxít được rèn luyện trong nhà tù đế quốc, Hải Triều
hăm hở, tự nguyện gánh vác một sứ mệnh mới: “làm người chiến sĩ tiên phong, viên
kiện tướng tả xung hữu đột đấu tranh với những quan điểm duy tâm về triết học, quan
điểm tư sản về văn học nghệ thuật, rồi kế thừa truyền bá quan điểm cách mạng và cắm
được ngọn cờ chiến thắng của tư duy lý luận mácxít trên lĩnh vực tư tưởng và nghệ
thuật đương thời”[50, tr.25]. Ngay trong năm 1933, tuy lúc đầu phải làm việc và hoạt
động một mình vì nhiều đồng chí của ơng vẫn phải ngồi trong tù, nhưng ơng vẫn tự
mình học hỏi và viết báo. Hải Triều đã đăng trên báo Đông Phương và Tiếng Dân 24
bài, trong đó ơng vận dụng triệt để học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
biện giải một số vấn đề về kinh tế, chính trị trên thế giới và ở nước ta. Qua các bài báo
về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, Hải Triều chủ động đứng trên lập trường
mácxít để đấu tranh bảo vệ quyền độc lập chính đáng của mỗi quốc gia, quyền dân
sinh dân chủ của người lao động lương thiện, phê phán thói ích kỷ tham tàn của các
nhà cầm quyền khi họ đặt lợi ích của giai cấp hữu sản, của tầng lớp mình lên trên
quyền lợi của đơng đảo quần chúng. Đặc biệt trong số những bài báo này ơng có một
bài bàn về triết học và một bài bàn về văn học thể hiện được bản lĩnh vững vàng, sắc
sảo của nhà lý luận phê bình mácxít trẻ tuổi. Từ đó ơng trở nên nổi tiếng, thu hút được
cảm tình của người đọc, gây thanh thế cho Đảng Cộng sản sau thời gian bị chính
quyền thực dân kìm kẹp, khủng bố. Với bản lĩnh của một người vững tin đi theo con
đường của chủ nghĩa duy vật mác xít, với một nền tảng trí thức sở cậy có căn cứ khoa
học và thực tiễn vững chắc, Hải Triều đã thổi một luồng sinh khí mới làm thay đổi tư
duy về khoa học và nghệ thuật lúc bấy giờ. Sự thẳng thắn, rạch ròi giữa đâu là những
nguyên lý cơ bản thuộc học thuật cần làm sáng tỏ đúng sai với đâu là phương diện

10



nhân cách cần được bảo trọng của người trí thức đang tranh luận với mình, bất kể vị
thế, tuổi tác của họ như thế nào, mà ông biểu hiện đã nêu một tấm gương về việc trong
tranh luận học thuật phải vừa đảm bảo việc tìm kiếm chân lý khoa học đích thực, vừa
thể hiện sự tơn trọng người khác, dù cho họ cịn có ý kiến khác mình.
Đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, về giai cấp lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, thiếu một lý luận soi sáng
dẫn đường. Trong bối cảnh đó, vượt qua sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội Việt
Nam, vượt lên những hạn chế của các sĩ phu yêu nước đương thời, bằng thiên tài trí
tuệ và bằng hoạt động thực tiễn của mình, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu
nước để đáp ứng kịp thời địi hỏi bức thiết đó, đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Bằng vốn kiến thức lý luận và từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú
của mình Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo triết học Mác – Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Đầu thế kỉ XX, gần mười năm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920),
Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp… quan
sát, nghiên cứu, suy nghĩ và đã phát hiện ra một chân lý: “chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp cơng nhân với nhân dân
lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa” [22, tr.89]. Năm 1917, Người
đến Pari và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp; tháng 6/1919, thay mặt những
người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu
sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây; tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ đó Người đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920),
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển quan
trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản” [22, tr.90]. Trong q

trình hồ mình vào cuộc đấu tranh sôi nổi của phong trào công nhân và Đảng Xã hội
Pháp để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã
được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc

11


địa” của V.I.Lênin. Người đón nhận những tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin với
niềm phấn khởi và tin tưởng của một người chiến sĩ cách mạng sau nhiều năm nghiên
cứu lý luận, khảo sát thực tiễn. Tác phẩm đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm thấy lời giải
đáp cho những câu hỏi lớn về vận mệnh dân tộc, soi sáng con đường giải phóng dân
tộc: con đường cách mạng vơ sản. Từ đó, Người đã tích cực xúc tiến cơng tác chuẩn bị
những điều kiện cần thiết, hướng phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam vào
quỹ đạo của cách mạng vô sản. Dưới ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga, luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh
thành lập Đảng cộng sản Pháp, chủ nghĩa Mác – Lênin đã sớm được khẳng định trong
nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Trong quá trình tiếp thu, Người đã từng nói rằng, bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất vẫn là chủ nghĩa Mác – Lênin. Nguyễn
Ái Quốc coi triết học Mác – Lênin là cái “cẩm nang thần kỳ”, nhưng Người cũng luôn
nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng sáng tạo cái “cẩm nang thần kỳ” đó. Khi trả lời
phỏng vấn báo Nhân đạo (L’Humanite) vào ngày 15-07-1969, Người khẳng định: “Về
phần chúng tơi, chính là do cố gắng vận dụng triết học Mác – Lênin một cách sáng tạo,
phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được
những thắng lợi to lớn [22, tr.589]. Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên cho rằng, cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách
mạng ở "chính quốc", nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình,
cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa. Những luận điểm cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của

cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó chính là logic của
lịch sử, là niềm tin khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam trong định hướng đổi mới
vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, quá trình tiếp thu triết học Mác – Lênin diễn ra mạnh mẽ, khơng chỉ
có Nguyễn Ái Quốc mà một số nhà yêu nước khác của Việt Nam cũng đã tiếp cận và
tìm đến triết học Mác – Lênin để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

12


1.1.2 Quá trình truyền bá
Quá trình truyền bá triết học Mác – Lênin ở Việt Nam chủ yếu diễn ra theo hai
hình thức. Một là, những nhà yêu nước của Việt Nam viết bài đăng trên tạp chí và
chuyển về nước. Hai là, thành lập các tổ chức để truyền bá. Đây là một quá trình
chuyển từ bị động sang chủ động.
Đầu tiên, truyền bá triết học Mác – Lênin được thực hiện bởi một số nhà yêu
nước như: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Đào Duy Anh,
Nguyễn Ái Quốc v.v. Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng sinh hoạt và liên
lạc với các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế
Truyền, và được người đương thời gọi là "nhóm Ngũ Long”. Trong thời gian hoạt
động tại Pháp, Nguyễn Thế Truyền gia nhập Đảng Xã hội Pháp rồi Đảng Cộng sản
Pháp (1922) và chính ơng là người giới thiệu Nguyễn Ái Quốc đến với chính giới
Đảng Xã hội Pháp và Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Thế Truyền từng làm Phó Chủ
tịch Hội Liên hiệp Thuộc địa năm 1925. Ông đã đóng góp bài vở và từng làm chủ bút
(năm 1925) cho báo Le Paria của Đảng Cộng sản Pháp nhưng sau ông từ bỏ chủ thuyết
Cộng sản và cho ra một tờ báo riêng mang tên Việt Nam hồn (ra được 8 số từ Tháng
Giêng đến Tháng Tám 1926), rồi Hồn Việt Nam (4 số), L'Ame Annamite, La Nation
Annamite và tờ Phục quốc vào cuối năm 1926 địi hỏi chính quyền Pháp đáp ứng
nguyện vọng tự do của dân Việt Nam. Sau lại thêm tờ Việt Nam xuất bản vào Tháng
Chín năm 1927. Những tờ báo này là tụ điểm của nhiều người Việt có cùng chí hướng

ở Pháp, khai sinh ra An Nam Độc lập Đảng này. Bên cạnh đó, Phan Văn Trường cũng
có đóng góp lớn trong việc truyền bá triết học Mác – Lênin, ông từng cộng tác với
Nguyễn Ái Quốc và Phan Chu Trinh để khởi thảo ra bản yêu sách Tám điều do
Nguyễn Ái Quốc mang tới Hội nghị Vécxai năm 1919. Sau này (năm 1926), ông cùng
với Nguyễn Thế Truyền lập ra tờ Việt Nam Hồn và giới thiệu chủ nghĩa Cộng sản trên
tờ báo này. Trong những năm giữa thập niên 1920, Nguyễn An Ninh liên tiếp có
những chuyến đi về liên tục từ Pháp đến Việt Nam và với tài hùng biện của mình ơng
đã nhiều lần tổ chức diễn thuyết, khơi gợi tình yêu nước trong thanh niên và quần
chúng và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân. Từ cuối năm 1925, Nguyễn An
Ninh đã cho đăng khá đều đặn những bài của một số lãnh tụ Quốc tế cộng sản hồi đó
và đầu năm 1926 cho đăng Tuyên ngôn Đảng cộng sản trong tám kỳ báo liền. Nguyễn

13


Ái Quốc tiếp tục duy trì mối quan hệ đã có từ trước với báo chí cánh tả Pháp, đặc biệt
những tờ báo, những tạp chí có lập trường dứt khoát theo đường lối của Quốc tế Cộng
sản. Cũng từ thời kỳ này, Người hầu như hoàn toàn đoạn tuyệt với những tờ báo đã
chuyển sang lập trường chính trị khác, chẳng hạn như tờ Le Populaire de Paris của
Lôngghê. Người tập trung những bài viết của mình cho hai tờ báo có ảnh hưởng rộng
lớn nhất trong cơng nhân và những người lao động Pháp và hải ngoại là tờ L’Humanité
và La Vie ouvrière. Từ năm 1921 đến hết tháng 2-1923 có ít nhất trên 20 bài của
Nguyễn Ái Quốc đăng trên hai tờ báo trên và một bài cho tờ báo Journal du Peuple số
ra ngày 9-8-1922 [35, tr.67].
Những nhà yêu nước “xuất dương” sang Trung Quốc và Pháp tiếp thu triết học
thông qua việc dự các lớp huấn luyện và tiếp xúc với nguồn tài liệu phong phú trong
thời kì khủng bố mạnh mẽ của thực dân Pháp. Họ kiếm được những sách báo cộng sản
qua con đường bí mật, rồi người hiểu trước giảng lại cho những người chưa hiểu. Sau
cách mạng tháng Tám, truyền bá triết học Mác – Lênin còn qua những con đường khác
nữa, chính quy hơn: các trường Đảng được mở, một số Đảng viên được đi học lý luận

ở các trường Đảng Trung Quốc và Liên Xô. Nhiều sách báo được dịch ra từ tiếng Nga,
tiếng Pháp, tiếng Hán và được xuất bản với những số lượng lớn, và cả một số nhà lý
luận của Liên Xô, Trung Quốc được mời vào giảng dạy triết học Mác – Lênin ở các
trường, lớp trong nước (chủ yếu là trường Nguyễn Ái Quốc) [36, tr.147].
Trong những nhà yêu nước trên thì Nguyễn Ái Quốc là người đi tiên phong
trong việc truyền bá triết học Mác. Việc truyền bá của Người diễn ra liên tục từ năm
1921 đến năm 1930. Sự truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản của Người không phải là
một hiện tượng nhất thời tự phát, mà là một quá trình khơng dứt đoạn có mục đích.
Năm 1919 Người đã thành lập hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp. Ra tờ báo
“Người cùng khổ”, là cơ quan ngôn luận của tổ chức này và là người chủ bút tờ báo.
Ngồi báo chí, Nguyễn Ái Quốc cịn sử dụng những hình thức khác như diễn thuyết,
viết kịch để truyền bá tư tưởng cách mạng của mình. Những hoạt động này của Người
thường tập trung ở Câu lạc bộ ngoại ô Phôbua do Lêô Pôndét, một trí thức tiến bộ tổ
chức và lãnh đạo. Tiếp tục truyền thống dân chủ từ cách mạng 1789, câu lạc bộ này
thường sinh hoạt vào thứ năm và thứ bảy hằng tuần. Đề tài khá rộng bao gồm khoa
học tự nhiên lẫn chính trị - xã hội, văn học - nghệ thuật. Trên trang nhất báo Le Paria,

14


số 1 ngày 1-4-1922 có thơng báo: Nguyễn Ái Quốc trình bày đề tài: “Sân khấu Việt
Nam'' có biểu diễn tiết mục minh họa. Cũng tại Câu lạc bộ này vào chiều chủ nhật
ngày 11-6-1922 vở kịch Con rồng tre, hài kịch ba màn của Nguyễn Ái Quốc, được
công diễn lần đầu tiên. Những hình thức truyền bá này tuy không đến được với đồng
bào bên Tổ quốc nhưng cũng góp phần tác động mạnh đến một bộ phận Việt kiều sống
tại Pháp, hướng họ nghĩ về đất nước và thôi thúc hành động cách mạng. Đặc biệt,
Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Tất cả các bài viết của Người
đều có nội dung tố cáo tội ác của thực dân Pháp, kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa
đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược. Với nội dung mang tính chiến đấu cao,
phương tiện tuyên truyền chủ yếu tư tưởng cách mạng cho các dân tộc bị áp bức,

chiếm được sự mến mộ của nhân dân lao động ở các thuộc địa. Vậy nên, khơng chỉ có
những người hiện đang sống trên đất Pháp, mà có cả những người từ trong nước đặt
mua báo dài hạn. Để báo chí và thư từ trao đổi đến được với những độc giả đặt báo,
toà soạn đã sử dụng đường đây bưu điện thông thường. Đây là con đường cơng khai
đưa báo chí từ Pháp về nước ta. Ảnh hưởng của báo chí cánh tả, đặc biệt là tờ Le Paria
cũng được mở rộng theo đó. Bởi thế mà bọn thực dân bí mật kiểm duyệt thư tín, bưu
phẩm từ Pháp gửi về nước, tịch thu các ấn phẩm khơng có lợi cho nền thống trị của
chúng. Ý thức được điều đó từ trước, nên đồng thời với việc sử dụng đường dây liên
lạc công khai, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động xây dựng một đường dây bí mật thơng
qua những thuỷ thủ u nước, có tâm huyết làm việc trên tuyến đường vận tải biển
Pháp – Đơng Dương. “Khởi đầu của đường dây bí mật ấy là việc gửi bản Yêu sách của
nhân dân An Nam dưới dạng truyền đơn về nước vào quý IV năm 1919 cho hành
khách hồi hương tại cảng Mácxây. Từ đó về sau, con đường đó được xây dựng hồn
chỉnh và bí mật với một hệ thống các trạm tiếp nhận như Le Havrơ, Mácxây, Sài Gòn,
Hải Phòng. Với những thuỷ thủ làm giao thơng bí mật như Bùi Lâm, Nguyễn Viết Ty,
Hồng Đình Lộc” [20, tr.149].
Việc truyền bá triết học Mác – Lênin qua con đường thứ nhất ngày càng phát
triển. Số lượng các bài viết đăng trên tạp chí ngày càng nhiều và được chuyển hết về
nước. Chính vì vậy nhiều người dân trong nước có thể tiếp cận triết học Mác một cách
thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả.

15


Thứ hai, những người yêu nước đã thành lập các tổ chức để truyền bá triết học
Mác – Lênin vào Việt Nam. Năm 1923 Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào
Quốc tế cộng sản. Tại Liên Xô Người dành nhiều thời gian để nghiên cứu triết học
Mác – Lênin. Nghiên cứu chế độ Xô Viết. Người viết bài cho các tờ báo ở Liên Xô
như tờ báo “Tia lửa” hoặc viết bài cho Tạp chí Thư tín quốc tế. Ngồi ra Người cịn
tham gia các đại hội quốc tế. Đại hội quốc tế thanh niên, phụ nữ, nông dân. Trong Đại

hội Quốc tế nông dân 10/1923, Người được bầu vào ban chấp hành quốc tế nông dân.
Thời gian hoạt động ở Liên Xô tuy ngắn ngủi nhưng lý luận cách mạng của Người
không ngừng nâng cao. Tại Đại hội thứ 5 của Quốc tế Cộng sản 7/1924 tại Matxcơva,
Người đã trình bày bản tham luận về một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một
nước thuộc địa. Người đã nêu lên mối quan hệ giữa cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc ở một nước thuộc địa với cuộc cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đồng thời Người
kêu gọi các Đảng Cộng sản ở các nước trên thế giới hãy ủng hộ phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Tại đây, Người được đào tạo căn bản, có hệ thống tại
trường đại học Phương Đơng. Do vậy, trên phương diện truyền bá triết học Mác –
Lênin vào Việt Nam thời kì này được nhân lên gấp bội.
Cuối năm 1924 Người về Quảng Châu – Trung Quốc. Tại đây Người đã gặp
một nhóm người Việt Nam yêu nước trong tổ chức Tâm Tâm Xã. Người ca ngợi tinh
thần yêu nước của họ nhưng cũng phê phán họ chưa hiểu gì về chính trị, lại càng
khơng biết về tổ chức. Trên cơ sở tổ chức này người chọn ra những hội viên ưu tú
đồng thời cử người về nước chọn những thanh niên Việt Nam yêu nước chưa tham gia
bất kì một tổ chức chính trị nào. Trên cơ sở hai nguồn lực lượng đó người đã thành lập
ra Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tháng 6/1925 là nịng cốt cho cơ sở
Đồn. Mục đích của hội là tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin, triết học Mác – Lênin
vào Việt Nam có hệ thống và tổ chức. Nhằm thực hiện sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác
với phong trào công nhân, phong trào yêu nước để tiến tới ra đời một chính đảng ở
Việt Nam. Để hội hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã cho xuất
bản tờ báo Thanh Niên. Đồng thời mở các lớp giảng dạy ngắn hạn về triết học Mác –
Lênin để đào tạo cán bộ cách mạng có hiểu biết về triết học Mác - Lênin. Từ năm
1925-1927, hội đã đào tạo được hơn 200 hội viên. Số hội viên xuất sắc được gửi đi học
ở các trường đại học của Liên Xô và Trung Quốc. Số còn lại được đưa về nước hoạt

16


động trong phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Tất cả các bài giảng của Lãnh

tụ Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được tập trung lại và in thành một cuốn
sách “Đường Cách Mệnh” (xuất bản 1927) đã nêu được tư tưởng cơ bản về chiến lược,
sách lược về một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Bên cạnh việc viết bài đăng trên các tạp chí, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng các
tổ chức chính trị làm nền tảng cho việc truyền bá. Sau nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi với
các chiến sĩ chống thực dân thuộc nhiều nước khác nhau đang sống ở Pari, ngày 26-61921, Nguyễn Ái Quốc tổ chức cuộc họp bàn việc thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa.
Tại cuộc họp đầu tiên ấy, những người tham dự đã xây dựng chương trình, điều lệ và
cử một ban chấp hành. Tối ngày 20-7-1921, Ban Chấp hành tổ chức cuộc họp tại tiệm
cà phê số 5, đường Gay Luytsác, trước nhà ga Luýchxămbua, thông qua lần cuối của
các văn kiện chính thức của Hội.
Triết học Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm và qua những
con đường khác nhau, ngay từ khi mới được truyền bá vào thì đã kết hợp chặt chẽ với
thực tiễn cách mạng, nhanh chóng được vận dụng trong thực tế, đem lại cho những
người cộng sản Việt Nam một phương pháp tổ chức lực lượng đối với bản thân mình
và đối với quần chúng đơng đảo rất có hiệu quả.
1.2 Những nội dung cơ bản của triết học Mác – Lênin
1.2.1 Nội dung của phép biện chứng duy vật
Trong lịch sử triết học đã xuất hiện ba hình thức của phép biện chứng: phép
biện chứng tự phát thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm thời cận đại, phép biện chứng
duy vật mácxít, trong đó chỉ có phép biện chứng duy vật mácxít mới thực sự khoa học.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật được phản ánh trong hai nguyên
lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển; sáu cặp phạm trù: cái
chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình
thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực; ba quy luật: quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định. Phép biện
chứng duy vật phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã

17



hội và tư duy. Tùy theo nhu cầu thực tiễn và trình độ nhận thức của con người mà
phạm vi các vấn đề được bao quát trong phép biện chứng duy vật ngày càng được phát
triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Đứng trên quan điểm duy vật khoa học, phép biện chứng duy vật khẳng định
rằng, cơ sở của sự liên hệ là ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện
tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ
là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả
tư tưởng, ý thức của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người, nội dung của chúng cũng
chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan. Quan điểm duy vật biện
chứng không chỉ khẳng định tính phổ biến, tính khách quan của sự liên hệ, mà cịn chỉ
ra tính đa dạng của nó. Có mối liên hệ bên trong - bên ngồi; bản chất – không bản
chất; tất yếu – ngẫu nhiên; chủ yếu - thứ yếu; trực tiếp – gián tiếp… Các loại liên hệ
khác nhau có vai trị khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện
tượng. Chẳng hạn sự vật, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ
bên ngồi, nhưng vai trị của chúng đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng là khác nhau. Mối liên hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trị quyết định, cịn
mối liện hệ bên ngồi khơng có ý nghĩa quyết định, vả lại nó thơng qua mối liện hệ
bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên sự phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa như vậy có thể diễn ra, hoặc do thay
đổi phạm vi bao quát qua xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự
vật, hiện tượng.
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại cuả sự vật, hiện tượng trên thế giới không
những là vô cùng, vô tận mà còn rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Đặc biệt trong
lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ được nhân lên do sự đan xen,
chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động có mục đích, có ý thức của con
người. Chính vì vậy mà quá trình nhận thức và phân loại các mối liên hệ trong xã hội
trở nên khó khăn hơn nhiều so với trong giới tự nhiên. Với tư cách là một nguyên tắc

phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn thể hiện
ở một số yêu cầu. Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, mối liên

18


hệ vốn có của nó. Sự vật, hiện tượng, bản chất của sự vật, hiện tượng được hình thành,
biến đổi và bộc lộ thông qua mối lên hệ giữa chúng với các sự vật, hiện tượng khác. Vì
vậy, để nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng không chỉ xem xét bản thân nó, mà cịn
phải xem xét mối liên hệ giữa nó với các sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn, kinh tế
và chính trị tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Xem xét vấn đề chính trị
mà khơng tính đến các vấn đề kinh tế, hoặc ngược lại sẽ dẫn tới những sai lầm cực
đoan.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra sự vật, hiện tượng tồn tại trong vô vàn
mối liên hệ, do đó trong mỗi điều kiện lịch sử nhất định con người không thể nhận
thức được tất cả các mối liện hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương
đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Ý thức được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc
tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật, coi những tri thức đó là những chân lý bất
biến, tuyệt đối, không thể sửa đổi, bổ sung và phát triển. Vì vậy, trong cuộc sống địi
hỏi sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai
lầm và sự cứng nhắc. Khi xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật phải đánh giá
đúng vị trí, vai trò của chúng, tránh xem xét một cách dàn trải, “bình quân”. Bởi sự vật
tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trị của các mối liên hệ khơng
“ngang bằng” nhau. Vì vậy, có xác định được vị trí, vai trị của các mối liên hệ mới
nhận thức được bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động, phát triển
của nó. Ngồi ra, phải nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể của nó, trong tính nhiều
mặt và sự tác động qua lại quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau của chúng. “Sự vật
trong thực tế tồn tại với tư cách như một chính thể, nó khơng phải là tổng số đơn giản
các mối liên hệ, mối liện hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác, mối liên hệ giữa các
mặt của sự vật, các yếu tố cấu thành sự vật, mà là tổng số các mối liên hệ hữu cơ, có

sự tác động qua lại, quy định, chi phối lẫn nhau. Có nhận thức sự vật trong tính chỉnh
thể thì mới nhận thức được sự vật, nhận thức được bản chất của sự vật” [18, tr.102].
Các nhà triết học nói chung (cả duy vật, cả duy tâm, cả biện chứng lẫn siêu
hình) từ cuối thế kỷ XIX đến nay đều thừa nhận nguyên tắc về sự phát triển. Tuy vậy,
chỉ trong nguyên lý về sự phát triển và sự lý giải về quá trình phát triển mới thực sự
khoa khoa học. Những người theo quan điểm siêu hình trước đây phủ nhận sự phát
triển. Họ cho rằng mọi sự vật, hiện tượng như là những cái được sinh ra một lần rồi

19


×