Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

22890 16122020234136870VTHTHUTHOBnchnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 59 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đề tài: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀO XÂY DỰNG NIỀM
TIN CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện

: Võ Thị Thu Thảo

Lớp

: 15SGC

Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Huy Thành

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019

1


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

------------------



KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đề tài: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀO XÂY DỰNG NIỀM
TIN CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện

: Võ Thị Thu Thảo

Lớp

: 15SGC

Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Huy Thành

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin chân thành cam đoan đề tài : “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng vào xây dựng niềm tin chính
trị cho sinh viên hiện nay” là một cơng
trình nghiên cứu độc lập khơng có sự sao
chép của người khác. Đề tài là một sản
phẩm mà em đã nỗ lực nghiên cứu trong

suốt quá trình qua. Trong q trình viết bài
có sự tham khảo một số tài liệu có nguồn
gốc rõ ràng, dưới sự hướng dẫn của T.S
Phạm Huy Thành. Em xin cam đoan nếu
có vấn đề gì em xin chịu hồn tồn trách
nhiệm.

3


4


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu đạo đức của
chủ nghĩa Mác – Lênin và kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Những vấn đề
đạo đức được Người xem xét một cách toàn diện, sâu sắc tạo thành một hệ thống lý luận
về đạo đức và các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản. Xuyên suốt cuộc đời cách mạng
của mình, Hồ Chí Minh ln coi đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Đạo
đức cách mạng không những giúp cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới mà cịn giúp người
cách mạng tự hồn thiện mình và không ngừng phát triển đi lên. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm giáo dục lí tưởng cách mạng và đạo đức
cách mạng cho mọi người. Nó khơng những có tầm quan trọng hình thành nên tư tưởng
chính trị của người cán bộ đảng viên mà cịn có sức ảnh hưởng to lớn đối với sinh viên.
Thanh niên – sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn lực quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước và là đội quân dự bị then chốt
của Đảng. Nếu khơng có thế hệ trẻ, sẽ khơng có sự phát triển của nhân loại. Trong các
thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả về trình độ học vấn, chuyên mơn đến lý tưởng cách

mạng, bản lĩnh chính trị để sinh viên trở thành người chủ tương lai của dân tộc, là lớp
người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội” do đó sinh viên phải có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất của
con người mới xã hội chủ nghĩa để xây dựng đất nước và phục vụ nhân dân.
Ngày nay cùng với sự hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển của công nghiệp 4.0
đã tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trong đó khơng thể khơng đề cập đến vấn đề đạo đức, trình độ học vấn và lối sống hiện
nay của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Thực tế cho thấy, bên cạnh đại bộ
phận sinh viên say mê trong học tập, chịu khó trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất nhân
cách để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước, vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ
sinh viên ít quan tâm đến tình hình chính trị, truyền thống cách mạng, giảm sút niềm tin vào
thắng lợi của CNXH, thiếu niềm tin đối với Đảng, với chế độ XHCN; chạy theo lợi ích cá nhân,
không quan tâm đến lợi ích tập thể, thiếu tinh thần trách nhiệm trong xây dựng tổ chức, trong
tham gia các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng… Từ đó dẫn đến mơ hồ, lệch lạc trong tư
tưởng, lối sống; khơng ít sinh viên cịn mang tính thụ động, ít sáng tạo, suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận sinh viên hiện
nay, tăng cường nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin chính trị cho
sinh viên, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của đất nước, vì những lí do đó
nên tơi đã lựa chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vào
xây dựng niềm tin chính trị cho sinh viên hiện nay.”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
1.

5


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đức cách mạng, thực trạng niềm tin
chính trị của sinh viên hiện nay. Từ đó, đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm

củng cố, nâng cao niềm tin chính trị của sinh viên hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, niềm tin chính trị của sinh viên
- Thực trạng niềm tin chính trị của sinh viên, các nguyên nhân và biểu hiện niềm tin
chính trị sinh viên
- Đưa ra những giải pháp nhằm củng cố, nâng cao niềm tin chính trị của sinh viên
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vào xây dựng niềm tin chính trị cho
sinh viên hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu làm nổi bật tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cách mạng từ đó xây dựng, củng cố và nâng cao niềm tin chính trị cho sinh
viên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vậy biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tham khảo, nội dung khóa luận
được kết cấu thành 3 chương, 11 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là vấn đề quan trọng trong tư tưởng của
Người. Vì vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về đạo đức cũng như việc giáo dục xây
dựng đạo đức và nâng cao đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin cho sinh viên trong đó
có các cơng trình quan trọng như:
 Hướng nghiên cứu thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng:
Đạo đức và đạo đức cách mạng nhìn từ quan điểm Hồ Chí Minh của Vũ Quang
Vinh, Bùi Văn Tuấn –Tạp chí Nhịp cầu tri thức (2018 Số 10, Tr. 16-20) đã nêu lên đạo
đức và đạo đức cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định, tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh có giá trị trường tồn theo thời gian, là viên ngọc quý mà chúng ta phải

giữ gìn, là động lực ln khuyến khích con người mọi thời đại vươn tới những giá trị chân,
thiện, mỹ.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của đạo đức cách mạng của tác giả
Ngơ Ngọc Thắng – Tạp chí Giáo dục lý luận (2018) đã làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh
về vị trí, vai trị của đạo đức cách mạng trên nhiều bình diện khác nhau. Việc học tập,
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
là yêu cầu thường xuyên và cấp bách nhất hiện nay,
Tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Hồ Chí
Minh – Nxb Trẻ, 1999 làm rõ vấn đề về nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa
cá nhân thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu; làm rõ vấn đề
6


thế nào là tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa đó là những lời dạy của Bác Hồ vẫn cịn
ngun giá trị.
Hồ Chủ tịch nói về dân chủ, kỷ luật và đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh giới
thiệt một số bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ luật ở
trong Đảng; về đảm bảo quyền làm chủ tập thể của quần chúng nhân dân và đạo đức cách
mạng của người cán bộ.
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của
con người Việt Nam, Lê Thị Thuỷ trong luận án tiến sỹ Triết học “Vai trò của đạo đức đối
với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” đã đi sâu phân tích đặc điểm
nhân cách con người Việt Nam và vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện nay. Việc khai thác vai trò của đạo đức như một yếu tố trong cấu trúc
nhân cách và sự vận dụng các tri thức khoa học triết học, đạo đức học, tâm lý học, xã hội
học để xây dựng mối quan hệ đạo đức và nhân cách làm căn cứ khoa học vững chắc. Từ
đó, Luận án đề ra những luận cứ khoa học, giải pháp để nâng cao vai trò của đạo đức trong
xây dựng nhân cách con người Việt Nam: chân, thiện, mỹ.
Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đối với sự phát
triển nhân cách con người Việt Nam tác giả Cao Thu Hằng trong luận án tiến sĩ “Kế thừa

các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay”
đã phân tích một cách có hệ thống và luận giải những vấn đề lý luận về giá trị đạo đức truyền
thống cũng như nhân cách trong tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống.
Từ đó, luận án đưa ra những giải pháp để việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay được tốt hơn.
Tóm lại, đạo đức cách mạng là vấn đề được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau, nhằm giúp làm rõ các vấn đề về đạo đức cách mạng . Các cơng
trình đề cập đến đạo đức cách mạng là gì? Vai trị của đạo đức cách mạng; các phẩm chất
đạo đức cách mạng và cách rèn luyện để hình thành các phẩm chất đạo đức cách mạng.
 Hướng nghiên cứu thứ 2, các cơng trình nghiên cứu về niềm tin chính trị của
sinh viên:
Đề cập đến quan niệm nhân cách của một con người cụ thể, Đỗ Long trong cuốn sách
“Hồ Chí Minh - những vấn đề tâm lý học nhân cách” đã tập hợp những bài viết của các nhà khoa
học tâm lý, giáo dục học đề cập đến quan niệm của Hồ Chí Minh về tâm lý học nhân cách, quá
trình hình thành và phát triển nhân cách. Các tác giả đã làm nổi bật nhân cách Hồ Chí Minh, một
tấm gương tiêu biểu để cho mỗi con người Việt Nam học tập, làm theo.
Phạm Minh Hạc trong cuốn sách “Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp
NEOPI-R cải biên” đã đưa ra bảng hỏi trắc nghiệm Neopi-r có gần 200 câu hỏi trong đó có
6 giá trị (thái độ) đối với sức khoẻ, học vấn, đạo đức, tiền bạc, quyền lực, hạnh phúc gia
đình mà chúng ta gọi là các giá trị cơ bản (sống còn) của cuộc sống. Ngồi ra có hơn 60
câu hỏi về 9 vấn đề: lý tưởng phấn đấu, thái độ chính trị, yêu nước, lịng tự hào dân tộc, tơn
trọng pháp luật, thái độ học tập, thái độ với đồng tiền, hội nhập mở cửa, thái độ với môi
trường và thái độ với cơng việc. Đây là cơng trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về
giá trị nhân cách theo phương pháp điều tra xã hội học.
Vấn đề thực tiễn trong xây dựng đạo đức, lối sống, thái độ, niềm tin, lý tưởng của thanh
niên nói chung, sinh viên nói riêng được Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
7


thực hiện trong các cuộc điều tra năm 2007 “Điều tra tình hình tư tưởng và nhận thức chính

trị của thanh niên trong giai đoạn hiện nay” ; năm 2008 “Tổng quan tình hình sinh viên,
cơng tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003 - 2008)” và trong Hội thảo khoa
học năm 2008: “Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên
trong thời kỳ hội nhập”. Các cơng trình này đã làm rõ tình hình tư tưởng và nhận thức chính
trị cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Kết quả cuộc khảo sát cho thấy các nhận thức về
niềm tin vào sự phát triển đất nước, thái độ đối với việc tham gia các tổ chức Đảng, Đoàn và
các phong trào tình nguyện; niềm tin vào mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội”; niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường và sự
tác động của q trình tồn cầu hố. Mặt khác, kết quả khảo sát cũng cho thấy sự đề cao các
chuẩn mực trong đời sống của sinh viên: điều kiện sống, điều kiện thành đạt, mẫu hình của
người thành đạt, tâm tư nguyện vọng đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trách
nhiệm thái độ của sinh viên trước các hiện tượng tiêu cực của xã hội.
Đề cập đến các giá trị cuộc sống của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường và
hội nhập, tác giả Phạm Huy Thành trong bài báo“Quan niệm về giá trị cuộc sống của sinh
viên Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường” tập trung làm rõ sự tác động của nền
kinh tế thị trường đối với cuộc sống của sinh viên ở những mặt tiêu cực và tích cực. Các
giá trị cuộc sống được sinh viên quan niệm: ý nghĩa cuộc sống, điều kiện thành đạt, quan
hệ bạn bè, thầy trò và những người xung quanh. Từ đó, tác giả đưa ra bốn giải pháp để phát
huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực do tác động của cơ chế thị trường đối với
đời sống sinh viên hiện nay.
Như vậy, các cơng trình trên đã cho thấy vấn đề về nhân cách, lý tưởng và niềm tin
chính trị luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy được đề cập tới dưới nhiều
góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả đều khẳng định tầm quan trọng niềm tin cách mạng
trong cuộc sống của sinh viên và yếu tố tác động đến niềm tin chính trị của sinh viên.
 Hướng nghiên cứu thứ 3, các công trình nghiên cứu giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh với niềm tin chính trị
Phạm Hồng Tung, Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình
đổi mới và hội nhập quốc tế - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên và lối sống của thanh niên, một số
khái niệm liên quan đến thanh niên và lối sống thanh niên, độ tuổi của thanh niên hiện nay;

khảo sát và phân tích tình hình thanh niên Việt Nam và lối sống của thanh niên trong hơn
hai thập kỷ đổi mới đất nước, thơng qua đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản của thanh niên
và đặc trưng lối sống của thanh niên trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế,
chỉ ra những yếu tố tác động cơ bản, có tính chất định hướng trong q trình biến đổi lối
sống của thanh niên. Trên cơ sở những nghiên cứu, với những luận chứng có tính thuyết
phục cao, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị khoa học và đề xuất các giải pháp nhằm xây
dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước hiện nay.
Trần Sỹ Phán trong luận án tiến sĩ triết học “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” đã làm rõ hơn về khái niệm nhân
cách, tính đặc thù của nhân cách sinh viên. Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu sâu vai
trị của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam.
Luận án góp phần làm sáng tỏ thực chất, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục đạo
8


đức thông qua giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số phương hướng, giải
pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức nói chung, mơn
đạo đức học nói riêng.
Đề cập đến vai trị của giáo dục trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên, tác giả Hoàng Anh trong cuốn sách “Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên” đã trình bày những vấn đề lý luận chung về nhân cách, nhân cách sinh viên. Tác giả
đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam và vấn đề giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng để hình thành, phát triển nhân cách sinh viên.
Lê Hữu Ái “Các giải pháp đảm bảo chất lượng giảng dạy các mơn lý luận chính trị ở
Đại học Đà Nẵng hiện nay” (mã số: Đ2012-04-09), đã làm rõ thực trạng giảng dạy các mơn lý
luận chính trị ở Đại học Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy các môn lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng, góp phần đóng góp vào chất lượng
đào tạo nói chung. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy các mơn lý luận chính trị là góp phần
định hướng phát triển nhân cách sinh viên Đại học Đà Nẵng có hương đi đúng đắn, vì ngày

mai lập thân, lập nghiệp.
Những cơng trình khoa học trên đã cho thấy giáo dục đạo đức rất được chú trọng và
quan tâm, nhằm giáo dục cho sinh viên phát triển một cách tồn diện. Các cơng trình đã cho
thấy sự biến đổi nhân cách, trang bị tư duy biện chứng là để cho sinh viên có tư duy nhận thức
tốt, tư duy nhận thức khoa học góp phần vào việc xây dựng được niềm tin chính trị đúng đắn.
Từ đó phát triển nhân cách cho sinh viên Đại học Đà Nẵng là nhân cách toàn diện, vừa hồng,
vừa chuyên đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Những hướng tiếp cận trên của tổng qua đề tài đã cho thấy, các cơng trình trên là cơ sở
lý luận và thực tiễn để cho đề tài được triển khai. Kế thừa các thành cơng của các trình khoa
học trên là bước tiếp biến cho đề tài Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
vào sự nghiệp xây dựng niềm tin chính trị cho sinh viên hiện nay.”Các hướng nghiên cứu
của tổng quan đã cho thấy chưa có một cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp vào xây dựng niềm
tin chính trị cho sinh viên. Do đó, đề tài được triển khai khơng mang tính trùng lặp, mà trên cơ
sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các cơng trình khoa học nói trên, đồng thời làm rõ Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vào sự nghiệp xây dựng niềm tin chính trị cho sinh
viên, đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng đất nước trong tình hình mới.

9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ NIỀM TIN CHÍNH
TRỊ
1.1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Như chúng ta đã biết, lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Qúa trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam giàu
lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, thương yêu con người, thương yêu đồng loại,

có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, chủ nghĩa u nước là dịng chủ lưu xun suốt tiến trình lịch sử dân tộc, giữ vị
trí hàng đầu. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm
người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã viết: “dân tộc ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền
thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi
nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Trích Báo cáo Chính trị tại
Đại Hội Đảng lần thứ II, tháng 2 năm 1951)
Vào năm 1858, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã bị thực dân Pháp xâm
lược và đã trở thành một nước thuộc địa nữa phong kiến. Dưới ách thống trị của thực dân
Pháp, nhân dân Việt Nam không có tự do. Vì vậy, nhân dân ta khơng ngừng nổi lên chống
lại chúng. Lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã liên tục đứng lên chiến đấu giành lại
độc lập theo nhiều phong trào và khuynh hướng khác nhau như: Phong trào khởi nghĩa
nơng dân, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám; phong
trào Cần vương phò vua Hàm Nghi cứu nước; phong trào theo khuynh hướng tiểu tư sản,
điển hình là hai nhà yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, với tinh thần “đúc gan
sắt để dời non lấp bể, xối máu nóng rửa vết nhơ nơ lệ”. Song những kinh nghiệm lịch sử
chống ngoại xâm đã không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù mạnh. Các phong trào
kháng chiến đều bị dìm trong biển máu, bởi khơng có một đường lối cứu nước đúng đắn.
Cả dân tộc đắm chìm trong đêm dài nơ lệ, lầm than “Tình hình đen tối như khơng có đường
ra”. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, mỗi người yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ là
phải tìm con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp và tay sai
của chúng.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc dục Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Yêu nước là động lực chi phối mọi suy nghỉ, hành động trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng đầy gian lao, cực khổ của Hồ Chí Minh. Tình u q hương đất nước
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cịn thể hiện sự giác ngộ về lí tưởng, là tư tưởng giải
phóng nhân dân thốt khỏi áp bức bóc lột, đưa đất nước thoát khỏi ra chiến tranh hoạn lạc,
10



giải phóng nhân dân khỏi cảnh lầm than để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp và văn
minh. Chính lòng yêu nước là nguồn gốc, động lực giúp nhân dân chiến thắng mọi kẻ thù
và xây dựng CNXH.
Tinh thần đoàn kết là sản phẩm đặc thù của một hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt
và điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam. Nó là nhân tố cốt lõi trong hệ giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam có được sức mạnh
to lớn trước mọi thử thách.
Ý thức về tinh thần đoàn kết của người Việt Nam đã trở thành một truyền thuyết truyền thuyết về hai chữ "đồng bào” (mọi người cùng trong một cái bọc mà ra). Truyền
thuyết này phản ánh nhu cầu và mong ước của người xưa về sự gắn bó giữa những con
người với nhau. Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, trước tiên, được thể hiện trong
gia đình, trong cộng đồng làng xã, và hơn hết, trong toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Trong gia đình, sức mạnh đồn kết được thể hiện qua câu châm ngôn: "Thuận vợ
thuận chồng, tát bể Đơng cũng cạn". Chính những quy tắc, thể lệ về một mảnh ruộng chung
(công điền), về việc phải cùng nhau hợp tác trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm,
chống thiên tai, mà tinh thần đoàn kết ngày càng được củng cố trong làng xã. Có lẽ, hiếm
có dân tộc nào trên thế giới mà tinh thần đoàn kết lại được biểu hiện nhiều và đa dạng như
ở làng quê Việt Nam. Tinh thần đoàn kết trong cộng đồng làng xã được mở rộng thành tinh
thần đồn kết dân tộc và khơng ngừng được nâng cao trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam đã duy trì được sự hài hồ trong các quan hệ xã hội, tạo
được sức mạnh chung cho sự sinh tồn và chiến thắng ngoại xâm. Lịch sử dân tộc Việt Nam
đã chứng minh rằng, nếu không tạo được sự đồn kết nhất trí cao thì nguy cơ nước mất nhà
tan sẽ xảy ra. Chính nhờ có truyền thống đồn kết mà chúng ta mới có được một dân tộc
độc lập, một dân tộc tự cường để chống lại giặc ngoại xâm và sự hung dữ của thiên nhiên.
Lòng thương người của dân tộc Việt Nam xuất phát từ tình cảm yêu quý con người
“người ta là hoa của đất”. Chính trong q trình lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc, cha ông ta đã rút ra triết lý: con người là vốn quý hơn cả, khơng có gì có thể so sánh
được. Mọi người luôn luôn “thương người như thể thương thân”, trong quan hệ đối xử hàng
ngày, người Việt Nam luôn coi trọng tình, ln đặt tình nghĩa lên trên hết tinh thần thương

yêu con người còn biểu hiện trong sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau theo kiểu “lá lành đùm
lá rách”, “chị ngã em nâng”, “một con ngựa đau cả tàu khơng ăn cỏ”…, ở tình cảm bao
dung, vị tha: “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Họ khơng những vị tha với nhau,
mà cịn vị tha với cả kẻ thù. Lịch sử đã từng ghi lại rất nhiều rằng, với những tù binh chiến
tranh, họ luôn được đối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi
trở về nước. Tình thương người của dân tộc Việt Nam khơng chỉ biểu hiện trong đời sống
hàng ngày của người dân, trong hương ước của các làng xã, mà còn được nâng lên thành
những chuẩn tắc trong luật của nhà nước. Trong các bộ luật của Việt Nam - những bộ luật
rất hiếm hoi và ra đời tương đối muộn trong lịch sử phát triển dân tộc, chúng ta có thể thấy,
việc vi phạm các chuẩn mực đạo đức, như con cái đối xử khơng tốt với cha mẹ, với người
thân có thể bị xử phạt. Lòng thương người đã trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một
giá trị đạo đức trong đời sống của người Việt Nam. Khi Phật giáo và Nho giáo thâm nhập
vào Việt Nam với những quan niệm từ bi bác ái, thương người thì chúng càng khẳng định,
củng cố thêm tư tưởng thương người của dân tộc Việt Nam. Nhưng tư tưởng thương người
11


của dân tộc Việt Nam không bị ảnh hưởng quá nặng nề bởi quan niệm từ bi vượt thoát hiện
thực của Phật giáo, vì người Việt Nam vẫn chủ trương chú trọng nhiều đến những giá trị
đời sống thường ngày; nó cũng khơng bị ảnh hưởng nặng nề bởi chữ nhân quá thiên về lễ
nghĩa của Nho giáo, vì người Việt Nam hiểu chữ nhân như là một đạo làm người - đạo làm
người xuất phát từ chính bản chất của con người, chứ không phải với nghĩa là trách nhiệm
của bề trên đối với kẻ dưới như trong quan niệm Nho giáo.
Nhân dân ta có truyền thống đề cao đức tính cần cù, giản dị, tiết kiệm,… đồng thời
cũng phê phán gay gắt các thói xấu trong xã hội như tham ăn, lười biếng, khoác loác,…
Trong khi nêu cao những phẩm chất đạo đức cần có, nhân dân ta cũng địi hỏi nó phải được
thể hiện cụ thể trong hành vi hằng ngày, tức là trong thực hành đạo đức: “Nói đi đơi với
làm, ngơn hành phải hợp nhất”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự nối tiếp và phát triển giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam ta, chính sự tiếp thu phát huy ấy đã làm cho những truyền thống đạo đức

càng có ý nghĩa và giá trị hơn cho cuộc sống hiện nay.
1.1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa phương Đơng
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho u nước, có truyền thống hiếu học, từ thưở nhỏ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được học chữ Hán, được giáo dục theo đúng tinh thần Nho giáo.
Những bài học đầu đời đã trở thành nền tảng nhận thức, giúp Người sau này tiếp thu có
chọn lọc, hấp thụ các tinh hoa tư tưởng của nhân loại để tạo nên giá trị riêng biệt của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó lý giải vì sao, đạo đức giữ vị trí quan trọng đến như vậy trong
tư tưởng của Người.
Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá
đúng vai trò của Nho giáo và người sáng lâp là Khổng Tử. Theo Hồ Chí Minh mặt tích cực
của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Nho giáo vốn coi
trọng tu dưỡng đạo đức, đề cao sức mạnh đạo đức, Nho giáo chủ trương từ thiên tử cho đến
thứ dân ai cũng phải lấy tu thân làm đầu, bởi trách nhiệm của kẻ sĩ thì nặng, đi được xa.
Nói đến đạo đức Nho giáo Người thường nhắc đến như: “Dân là gốc”, “Dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh”. Sự tiếp thu của Hồ Chí Minh từ Nho giáo là sự tiếp thu có phê
phán, có chọn lọc với cách nhìn biện chứng và sự lĩnh hội của sáng tạo. Mặt khác, Hồ Chí
Minh thấy được sự hạn chế ( có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng
đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh thường phụ nữ,..) nhưng đồng thời cũng thấy
được sự tiến bộ và tích cực của Nho giáo.
Bên cạnh Nho giáo thì Phật giáo cũng ảnh hưởng đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm và ảnh hưởng rất mạnh đối với Việt Nam. Tiếp
thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lịng nhân ái, độ lượng, khoan
dung – đó là những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật. Thứ nhất, là tư tưởng vị tha, từ bi,
bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân nên hình thành trong bác một
tình yêu bao la đối với đồng bào, với dân tộc và dành cho cả chim muông cây cỏ. Thứ hai,
tiếp thu tư tưởng Phật Giáo đã hình thành trong bác một nếp sống có đạo đức, trong sạch,
giản dị, chăm lo làm điều thiện. Thứ ba, là tinh thần bình đẳng đối với mọi người, khơng
phân biệt giàu nghèo, đặt vị trí con người lên hàng đầu; tinh thần dân chủ chất phác chống
lại mọi phân biệt đẳng cấp. Cuối cùng, Phật Giáo Thiền tông đã đề ra luật “ chấp tác”, “

12


nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thưc” – (một ngày khơng làm, một ngày khơng ăn), chính là
sự đề cao lao động, chống lười biếng.
Đạo đức Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa tam
dân của Tơn Trung Sơn. Hồ Chí Minh là nhà mác xít tỉnh táo và sáng suốt, biết khai thác
những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hóa phương Đơng để phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
Việc tiếp thu văn hóa phương Đơng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là một
sự tiếp thu sáng suốt khi biết khai thác những yếu tố tích cực trong di sản văn hóa phương
Đơng nhưng lại đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, của dân tộc để tiếp cận và
khai thác những mặt tích cực, yếu tố tiến bộ đồng thời loại bỏ những yếu tố không phù hợp
để làm nền tảng cho việc xây dựng đạo đức mới- đạo đức cách mạng.
Tinh hoa văn hóa phương Tây
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngồi, Hồ Chí Minh sống chủ yếu
ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng
của phương Tây. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền
tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn này. Sau này Người đã phát triển nó thành
quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc.
Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn Độc lập của
Việt Nam năm 1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở thủ đô
nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc đời mình.
Là thủ đơ của nước Pháp, Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn hóa - nghệ thuật của châu
Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều
được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các dịng văn hóa thế giới,
Hồ Chí Minh đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại,
đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp. Đến với quê hương của
lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của

các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại
cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của
Rút-xô, v.v…tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của
Người. Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được
phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã
có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên đất
nước mình, dưới chế độ thuộc địa. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp
và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Casanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mơng-mút-xơ…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành.
Con người ấy, trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của
thời đại, Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại
mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
Người đã nhìn thấy những giá trị tốt đẹp của Thiên chúa giáo đó chính là lòng nhân
ái cao cả, chúa Giêsu đã xuất hiện như một đấng cứu thế đem lại tình thương và hi vọng
cho những con người đau khổ. Hồ Chí Minh tiếp xúc với sách viết về lòng nhân ái, thương
người qua những lời nói kinh tân ức và cựu ước.
13


Từ văn hóa Phương Tây, Hồ Chí Minh đã tiếp thu học hỏi một cách sáng tạo, biết
chắt lọc những tinh hoa và gạn lọc những yếu tố không phù hợp để làm tiền đề xây dựng
nền đạo đức của dân tộc mình.
Tư tưởng về đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin
Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã đưa
Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Nhờ có thể giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã
hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc
cũng như tư tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác – Lênin.
Từ khi rời Tổ Quốc ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 đến năm

1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong
khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh đã bổ sung cho mình những nhận thức mới về những gì
ẩn dấu đằng sau các từ “ tự do”, “ bình đẳng”, “ bác ái” mà vào trạc tuổi 13 lần đầu tiên
Người đã nghe. Người đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác – Lênin cái cần thiết và con đường
giải phóng chúng ta là bước quyết định nhảy vọt về chất trong quá trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành con đường duy nhất mà Người lựa chọn,
như Người khẳng định “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin” [16, tr.268]. Đó là tư tưởng xây dựng
một nền đạo đức thuộc về nhân dân lao động, giải phóng con người trước những bất cơng,
đau khổ.
Trên cơ sở tư tưởng đạo đức của Mác – Ănggen, Lênin đã phát triển thành đạo đức
cộng sản: “Đạo đức là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bốc lột và góp phần
đồn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới của những người cộng sản” [45,tr.369]. Như vậy, Lênin đã chỉ rõ nội dung của giá trị
đạo đức cộng sản là do thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mang lại, được tạo nên
bằng giáo dục và rèn luyện thường xuyên. Thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản do giai
cấp công nhân thực hiện là tất yếu. Do vậy đạo đức cộng sản là tất yếu hoàn thiện, tồn tại
một cách phổ biến trong đời sống đạo đức của loài người. Luận cương của Lênin đã giúp
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn về bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin và phương pháp biện chứng mác xít, tâm đắc sâu sắc câu nói “Khơng có lý luận cách
mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có được một lý luận tiên tiến
hướng dẫn thì mới có thể làm trịn vai trị của chiến sỹ tiên phong”.[46,tr.30,32]
Tóm lại, chính nhờ có tư tưởng và tấm gương đạo đức của Mác – Ănggen – Lênin,
Hồ Chí Minh đã hồn thiện được tư tưởng đạo đức của mình. Người đã kế thừa, chắt lọc
tinh hoa đạo đức của nhân loại để sáng tạo ra một hệ thống tư tưởng đạo đức mới, tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh.
1.1.1.3. Thực tiễn hoạt động của Người
Ngay từ khi cịn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu
tình cảm nhân ái và sớm có ý chí cứu nước, giải phóng đồng bào mình. Người là hiện thân
của một bậc đại nhân, đại trí, đại dung, một trái tim yêu thương nhân dân, thương người

cùng khổ. Cuộc đời Người không màng vinh hoa phú quý, không sử dụng quyền uy, mà
14


lúc nào cũng hiền từ giản dị, chân thành và nhân đức, suốt đời chỉ chăm lo phục vụ tổ quốc
và nhân dân.
Thêm vào đó, ở Hồ Chí Minh tốt lên xuyên suốt một lối tư duy tự chủ, độc lập,
sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu
các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân loại. Đặc biệt, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vượt lên trước những người cùng thời để đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và coi đó là vũ
khí tinh thần để giải phóng dân tộc Việt Nam. Về vấn đề đạo đức, nhận thấy con đường
cách mạng còn lâu dài, gian khổ nếu người cách mạng khơng bền gan, vững chí, giữ vững
tinh thần thì sự nghiệp cách mạng sẽ đổ vỡ. Người luôn đặt đạo đức cách mạng lên hàng
đầu, lấy đạo đức làm chữ tâm trong giáo dục mọi người.
Hồ Chí Minh đã quan niệm đạo đức là “gốc”, nền tảng của con người và xã hội.
Người đã xây dựng nên một nền đạo đức mới, đối lập với đạo đức cũ. Điều đó, nó mang
nét độc đáo được tốt lên từ chính phẩm chất, năng lực cá nhân Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ
Chí về đạo đức là sự kế thừa giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức nhân loại và
những phẩm chất năng lực của Người. Hồ Chí Minh đã làm một cuộc cách mạng trên lĩnh
vực đạo đức ở Việt Nam. Nó khơng phải là đạo đức phong kiến gị bó, trói buộc con người,
đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cực đoan của giai cấp tư sản, càng không phải là đạo
đức tơn giáo khắc kỷ, cam chịu. Đó là nền đạo đức mang bản chất mới, đạo đức cách mạng.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
1.1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng chi phối các phẩm chất khác. Trung,
hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương
Đơng đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia là trung quân, là
trung thành với vua; trung thành với vua có nghĩa là trung thành với nước, nước là nước
của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái phải hiếu thảo với cha
mẹ.

Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh khơng những kế thừa giá
trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của
truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước
ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề
“ bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “ đày tớ nhân
dân” chứ không phải “ quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước
và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước.
Quan niệm chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân khơng phải
chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói , mà là hiếu với nhân dân, với tồn dân
tộc, vì “ nước lấy dân làm gốc” dân là “ gốc” của nước. Bác Hồ từng chỉ rõ: “Trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân (48)… Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng
phục vụ cho lợi ích của nhân dân... Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình nghĩa như
thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình
nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà… đạo đức ngày nay cao
rộng hơn: Khơng phải chỉ có hiếu với bố mẹ mà trung hiếu với nước, hiếu với dân”(49).
Trên nền tảng truyền thống, Hồ Chí Minh đã kế thừa và khắc phục những hạn chế
để nâng cao phẩm chất ý nghĩa của khái niệm “Trung”, “Hiếu” và khẳng định: Trung với
15


nước, hiếu với dân, trở thành một trong những chuẩn mực cơ bản nhất trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khơng thể chấp nhận lịng trung thành tuyệt đối của nhân
dân bị áp bức với kẻ áp bức mình. “Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với
cộng đồng, xã hội, theo Người “Trung với nước là sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của
giai cấp, của dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
Quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định
hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh

cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, như Hồ Chí Minh đã nói “điều chủ chốt nhất” của đạo
đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, “là tuyệt đối
trung với nước, hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa
là người lãnh đạo, vừa là đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân khơng cịn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối
tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lịng. Vì vậy phải gần dân,
gắn bó với dân, kính trọng vầ học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí
Minh, lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm
đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm
của người chủ đất nước, quyền thì hưởng cịn trách nhiệm thì phải làm trịn. Có được cái
đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất
định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân trong giai đoạn hiện nay trước hết là trung thành với
con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã chọn, là trung thành với sự nghiệp đổi mới
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là sự thể
hiện lương tâm và trách nhiệm của mỗi người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc. Bản chất tư tưởng
đạo đức trung với nước, hiếu với dân là như vậy, và chỉ có thực hiện được như thế thì người
cách mạng mới đi đến thành cơng.
1.1.2.2. u thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, cùng với việc thể nghiệm
của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình
yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ,
những người lao động bị áp bức bốc lột. Tình u thương đó được thể hiện ở Hồ Chí Minh
bằng ham muốn tột độ là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu khơng có tình u thương con người như
vậy thì khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

cộng sản.
Tình u thương con người cịn được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí,
với mọi người bình thường trong quan hệ hằng ngày. Nó địi hỏi mọi người phải luôn chặt
16


chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó địi hỏi thái độ tơn trọng
con người, phải biết cách nâng con người lên chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi
dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người ở cương vị lãnh đạo, bất
cứ ở cấp nào.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh cịn được thể hiện đối với những
người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa;
kể cả đối với kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình u thương đó
đã đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có,
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí u thương lẫn nhau. Đây
chính là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý phẩm chất yêu thương con
người. Đây là tình thương yêu trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành,
nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó
hồn tồn xa lạ với thái dộ dĩ hòa vi quý, bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ
với thái độ yêu tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho
cách mạng.
1.1.2.3. Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư
Đây là phẩm chất đạo đức phương Đơng, đạo đức Việt Nam lấy chính bản thân mỗi
người làm đối tượng điều chỉnh, nó diễn ra từng ngày, từng giờ, cả trong công tác và sinh
hoạt. Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này thường xuyên nhất, nhiều nhất, từ Đường cách
mệnh đến bản Di chúc cuối cùng. Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư đã được
Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu đối với mọi người. Nếu phẩm chất này
đã cần thiết đối với con người Việt Nam khi đất nước còn phải đương đầu với cuộc chiến
tranh xâm lược rất tàn bạo do chủ nghĩa thực dân đế quốc gây ra, thì lại càng cần thiết khi
đất nước phát triển trong xây dựng hịa bình. Đây không phải chỉ là yêu cầu về đạo đức, mà

cịn là u cầu của chính sự phát triển kinh tế.
Người giải thích về cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư như sau:
Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, theo Hồ Chí Minh “Cần” khơng chỉ
làm việc trong một thời gian ngắn mà là cả một q trình bền bỉ lâu dài, Người nói: “Cần
khơng phải là sổi, là cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần hay một tháng dẫn đến sinh
ốm đau, phải bỏ việc như vậy không phải là cần: [11,Tr.623]
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không hoang phí phơ trường hình
thức. Cần và kiệm phải đi đơi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà khơng kiệm
thì làm chừng nào xài chừng ấy. Cũng như một cái thùng khơng có đáy, nước đổ vào chừng
nào, chảy ra hết chừng ấy. Kiệm mà khơng cần thì khơng tăng thêm phát triển được. Mà
vật gì đã khơng tiến tức là phải suy thoái… Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm
thời giờ (thời giờ là vàng bạc), tiết kiệm sức lao động. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn,
không phải là “xem đồng tiền to bằng cái nống”[12, Tr.845]. Khi khơng nên tiêu thì một
đồng cũng khơng tiêu, khi có việc đáng làm, việc có ích cho đồng bào, cho Tổ Quốc, thì dù
bao nhiêu cơng tốn bào nhiêu của, cũng vui lịng. Như thế mới đúng là kiệm. Để thực hành
tiết kiệm, phải kiên quyết với việc làm xa xỉ, như kéo dài thời gian lao động khơng cần
thiết, làm hao phí vật liệu trong sản xuất, ln tìm cách ăn ngon, mặc đẹp trong lúc đồng
bào cịn khó khăn, thiếu thốn,…Phải biết cách tổ chức thì tiết kiệm mới có hiệu quả.
17


Liêm là trong sạch, không tham lam tiền bạc của dân của nước, “luôn luôn tôn trọng
của công và của dân”, “khơng xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhà nước, của nhân
dân”, “phải trong sạch không tham lam” [12, tr.640], “Không ham địa vị, không ham tiền
tài, khơng ham sung sướng, khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại khơng bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.”[12,
tr.252]
Chính là làm việc cơng một cách đúng đắn. Việc công phép nước không lẫn lộn công
tư. “Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn không thẳng thắn,

tức là tà” [12,tr.632,636,640]. Đối với mình khơng tự cao tự đại, chịu khó học tập tiến bộ,
tự kiểm điểm. Đối với người không nịnh hót người trên, khơng coi khinh người dưới, chân
thành, khiêm tốn, thật thà, không dối trá lừa lọc. Đối với việc phải để việc công lên trước
việc tư, đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, khơng sợ
khó khăn nguy hiểm.
Chí cơng vơ tư là khơng nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là lịng mình chỉ
biết Đảng, vì Tổ Quốc, vì đồng bào. Đó chính là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Chủ nghĩa
cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể, trái ngược với đạo đức cách mạng. Thực hành
chí cơng vơ tư là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Chống chủ nghĩa cá nhân đối với Hồ Chí Minh hồn tồn khơng có nghĩa là chống lại lợi
ích cá nhân. Mục đích cả cuộc đời Người và cũng là mục đích của Đảng ta là chăm lo lợi
ích của từng cá nhân, tạo mọi điều kiện cho mỗi người phát huy hết mọi khả năng của mình.
Hồ Chí Minh viết: “Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chúng, nhưng một cây cần có gốc rễ lại
cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người cần phải cần, kiệm, liêm nhưng cịn
phải chính mới là người hồn tồn”[12,tr.643]. So sánh với trời, đất, trời có bốn mùa: xn,
hạ, thu, đơng, đất có bốn phương đơng, tây, nam, bắc; người có bốn đức tính cần, kiệm,
liêm, chính; “ thiếu một đức, thì khơng thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, là những phẩm chất nền tảng trong nhân cách
của mỗi người. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau cần, kiệm, liêm, chính thì sẽ
dẫn đến chí cơng vơ tư và ngược lại, muốn giữ vững nhân cách thì phải thường xuyên bồi
dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư điều đó sẽ góp phần làm cho con
người vững vàng trước thử thách.
Những lời nói của Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư cho đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt là tấm gương của Bác về thực hành việc cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư vẫn mãi mãi để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo. Thực
hành tốt những lời dạy của Bác là chúng ta đã góp phần làm giàu cho đất nước, tăng lòng
tin của nhân dân vào Đảng và chính quyền. Đây là những phẩm chất cụ thể và mang tính
rộng lớn về phạm vi, mỗi người đều có thể thực hiện được từ việc nhỏ đến việc lớn trong
cuộc sống hằng ngày.
1.1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng

Đó là tinh thần đồn kết quốc tế vơ sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một mệnh
đề “ bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày cơng vun đắp bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, là tinh thần
đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên tồn thế giới vì hịa bình,
18


cơng lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội, là tinh
thần hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới,
các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực
tế sinh động đã giúp Người đi tới kết luận: Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
người giống người: giống người bốc lột và giống người bị bốc lột. Mà cũng chỉ có một mối
tính hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản. Kết luận này cho thấy nhận thức của Hồ Chí
Minh về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết
luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế Hồ Chí Minh – đồn kết với
những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp,
lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế. Người thấy được khả năng, sức mạnh đoàn kết của các
dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ.
Tinh thần quốc tế trong sáng cịn là vì mục tiêu chung “Bốn phương vơ sản đều là
anh em”. Hành trình qua các nước vào những năm đầu của thế kỷ XX giúp Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và cách
mạng thuộc địa. Ngày từ năm 1921, Người khẳng định thực dân đế quốc là kẻ thù của nhân
dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Người đã chứng minh
được bọn đế quốc không chỉ áp bức bốc lột nhân dân các nước thuộc địa, mà cịn thống trị
nhân dân lao động và giai cấp vơ sản chính quốc. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản,
đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ
đó địi hỏi phải đồn kết cả hai lực lượng nói trên.

Người vui mừng khi các đảng anh em và phong trào thế giới phát triển mạnh và rất
đau lòng trước sự bất hòa của các đảng anh em. Nếu tinh thần u nước khơng chân chính
và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc
chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy có
thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ
tinh thần đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng
đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới
hiện nay. Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát
triển đất nước chính là mở rộng tình đồn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ
động, tích cực hội nhập.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương u đối với con người, vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho con người. Từ chủ
nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tinh
thần đoàn kết quốc tế rộng lớn cho nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp
phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
1.2. Các yếu tố, đặc điểm của niềm tin chính trị của sinh viên
1.2.1. Khái niệm niềm tin
Có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu niềm tin khác nhau, ở mỗi góc độ khác nhau niềm
tin được hiểu một cách khác. Theo tâm lý học niềm tin là những cảm xúc của chủ thể giành
cho khách thể với một trạng thái tâm lý nhất định. Niềm tin theo góc độ nhân học là sự tin
19


tưởng của con người vào một vấn đề nào đã được trải qua trong thực tế. Một số quan niệm
cho rằng niềm tin là hành động của chủ thể nhằm một mục tiêu nhất định.
Niềm tin, là sự định hướng giá trị được xác định vững chắc trong sự hòa quyện giữa nhận
thức, tình cảm, ý chí của con người và chi phối, thúc đẩy chủ thể hành động phù hợp với những
định hướng, giá trị đã được xác định, ln hướng con người tìm đến các giá trị chân - thiện - mỹ
để tạo dựng nhân cách con người. Niềm tin là sự thừa nhận tính chân lý về hiện tượng, sự vật,

q trình mà khơng cần chứng minh. Niềm tin được hình thành trên kinh nghiệm thực tiễn, tri
thức khoa học, lập trường triết học duy vật biện chứng và tình cảm tích cực được gọi là niềm tin
khoa học (phi tơn giáo), hồn tồn đối lập với niềm tin các tín điều tơn giáo. Niềm tin khoa học
trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực thực tiễn của con người, góp phần
xây dựng xã hội phát triển”. [30, tr. 46]
Khái niệm niềm tin chính trị
Niềm tin chính trị là sự định hướng giá trị được xác định vững chắc trong tư tưởng, nhận
thức và chi phối hành động của cá nhân trong cuộc sống vì sự phát triển và tiến bộ con người,
ln hướng con người tìm đến các giá trị chân - thiện - mỹ để tạo dựng nhân cách. Niềm tin chính
trị được hình thành trên kinh nghiệm thực tiễn, tri thức khoa học chính trị, lập trường triết học
duy vật biện chứng và trong mối quan hệ xã hội. Niềm tin chính trị tạo động lực tinh thần mạnh
mẽ thúc đẩy tính tích cực thực tiễn của con người, góp phần xây dựng xã hội phát triển .
Khái niệm niềm tin chính trị của sinh viên
Niềm tin chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay (theo nghĩa khoa học) là sự kiên định
con đường đã lựa chọn đó là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, trong đó trước hết có sự thể
hiện rõ ràng về nhận thức mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân,
là ý thức, trách nhiệm trong học tập, lao động để tạo ra cho mình có đủ trí tuệ, trình độ học vấn,
tài năng, ý chí góp phần xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. [30, tr.49]
1.2.2. Yếu tố cấu thành, đặc điểm và quá trình hình thành niềm tin chính trị của sinh
viên
1.2.2.1. Yếu tố cấu thành niềm tin chính trị của sinh viên
Tri thức chính trị của sinh viên
Khi nói đến ý thức chính trị là nói đến năng lực của con người nhận biết về thế giới
xung quanh, về đời sống chính trị, hiểu được những tư tưởng, hành động, quan hệ đối với
thế giới đó và với chính bản thân mình. Như vậy, ý thức chính trị trong đó đã bao gồm tri
thức, nhu cầu, cảm xúc, bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin, ý chí về chính trị, trong đó tri thức về
chính trị là yếu tố quan trọng nhất và cốt lõi nhất.
Các nhà khoa học đã phân chia tri thức ra thành các cấp độ khác nhau là tri thức
thông thường và tri thức khoa học. Trong tri thức khoa học lại phân ra hai cấp độ là tri thức

kinh nghiệm và tri thức lý luận. Nói chung, các cấp độ khác nhau đều là những quá trình
nhận thức bản chất sự vật hiện tượng khách quan từ thấp đến cao. Dù ở dạng nào, trình độ
nào thì những tri thức nói chung đều là phương thức tồn tại cơ bản của ý thức, là cơ sở, là
một yếu tố của niềm tin. Như vậy tri thức chính trị chính là q trình nhận thức về đời sống
chính trị được thể hiện thơng qua học vấn chính trị và kinh nghiệm chính trị là phương thức
tồn tại cơ bản của ý thức chính trị, là cơ sở, là một yếu tố của niềm tin chính trị.
20


Tri thức chính trị của sinh viên hiện nay là sự hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Đó là lịng yêu nước, tự hào về truyền thống dân tộc, thái độ đối với sự
nghiệp đổi mới, quan tâm đến chính trị, các quan hệ chíxã nh trị, các hoạt động chính trị ,
ở sự hiểu biết nhu cầu và lợi ích chính trị trên cơ sở đó biến thành niềm tin , tình cảm, động
lực cho hành vi hoạt động xã hội của bản thân vì mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tình cảm chính trị của sinh viên
Ngồi tri thức chính trị, một yếu tố cơ bản khác, một điều kiện khơng thể thiếu cho
sự hình thành niềm tin chính trị - đó là tình cảm chính trị. Chúng ta đều biết rằng, tình cảm
phát sinh hết sức phức tạp. Tùy thuộc vào mức độ thỏa mãn nhu cầu của con người trong
quá trình nhận thức và cải tạo thế giới khách quan mà xúc cảm thường biểu hiện ra bằng
tình cảm tích cực hay tình cảm tiêu cực. Ngồi tri thức ra, trước mỗi xúc cảm khi tiếp xúc
với đối tượng đều gây ra cho ta một niềm tin nào đó. Niềm tin sinh ra từ đó thường đem
đến cho ta những tâm trạng, những biểu hiện tâm lý khác nhau quy định mức độ tư duy và
hành động của mình về tương lai. Nhều học giả cho rằng, cảm xúc đã hướng tâm lý khúc
xạ vào ý thưc, tạo ra hành động, có lúc nó trở thành yếu tố có vai trị hết sức to lớn trong
việc hình thành niềm tin. Chính xúc cảm chính trị kết hợp được với tri thức chính trị mang
lại một sắc thái đặc biệt, làm rung động tâm hồn, tạo ra một niềm tin chính trị cho chúng
ta. Khơng có xúc cảm chính trị, con người khơng có nhu cầu hiểu biết về đời sống chính
tri, khơng có niềm tin chính trị chắc chắn sẽ khơng thể có được sự tìm tịi để đạt tới chân lý

phấn đấu cho mục tiêu chính trị. Con người có hành vi chính trị khơng chỉ bằng tri thức
chính trị, sự hiểu biết về đời sống chính trị mà cịn bằng cả cảm xúc chính trị. Nếu biết dựa
vào tri thức khoa hoc, tri thức chính trị, có tình cảm trong sáng sẽ có niềm tin chính trị đúng
đắn. Và ngược lại, sẽ có niềm tin phi chính trị. Niềm tin lấy tri thức, cảm xúc làm cơ sở
ln có tác động mạnh mẽ tới hoạt động của con người. Sự tích hợp tri thức - cảm xúc hành đông tạo cho chủ thể niềm tin khoa học vững chắc và niềm tin đó trở thành động lực
tinh thần hết sức quan trọng đối với hoạt động của chủ thể.
Tình cảm chính trị của sinh viên là một đặc trưng cơ bản nhất trong ý thức chính
trị của sinh viên, là cơ sở để xây dựng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và đấu tranh chống lại
mọi thế lực thù địch trong công cuộc xây dựng CNXH của sinh viên, được biểu hiện là
những phản ứng của mỗi sinh viên đối với vấn đề chính trị. Thái độ, tình cảm của sinh viên
về các hiện tượng trong sinh hoạt chính trị, cũng như các vấn đề liên quan đến chính trị
càng mạnh mẽ, càng sâu sắc thì ý thức chính trị của sinh viên càng phát triển. Sự kết hợp
giữa tri thức chính trị và tình cảm chính trị tạo thành niềm tin chính trị. Niềm tin chính trị
là động lực mạnh mẽ, thúc đẩy và quy định mức độ khám phá, hiểu biết về chính trị bởi nó
trực tiếp quy định hành động chính trị của mỗi người. Từ đó nâng cao ý thức chính trị và
biến thành ý chí, thành hành động thực tiễn chính trị của sinh viên, thể hiện ở sự quyết tâm,
lòng kiên trì vượt khó, đó cũng là sự độc lập, sáng tạo, nhạy bén trong việc tìm ra những
giải pháp tối ưu để đạt kết quả học tập tốt.
Lý tưởng chính trị của sinh viên
Lý tưởng là hình ảnh hồn mỹ, mục đích cao đẹp mà chủ thể vươn tới. Lý tưởng
chính trị là mục tiêu chính trị cao nhất của chủ thể chính trị. Lý tưởng chính trị quy định
21


hoạt động chính trị, nếu khơng có lý tưởng con người sẽ khơng có ý thức và hành vi chính
trị. Hơn nữa, lý tương chính trị do tri thức chính trị quy định và tri thức chính trị đúng đắn
sẽ dẫn đến lý tưởng chính trị đúng. Đến lượt mình, lý tưởng chính trị định hướng tư tưởng,
tình cảm, ý chí chính trị và hoạt động chính trị. Lý tưởng chính trị đúng là cơ sở tạo nên
văn hóa chính trị. Lý tưởng chính trị đúng là lý tưởng vì sự phát triển và tiến bộ của con
người. Lý tưởng chính trị ngày nay của nhân dân ta là lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Có thể

nói, khơng có niềm tin chính trị khi khơng hiểu biết gì về đời sống chính trị. Khơng có tri
thức chính trị, khơng có niềm tin chính trị thì khơng có hành vi chính trị, không thực hiện
được nhu cầu, lý tưởng và mục đích cao đẹp của cuộc sống.
Lý tưởng chính trị của sinh viên là phát triển hoàn thiện bản thân hướng tới “Chân,
Thiện, Mỹ”; kiên định và trung thành với Đảng, Nhà nước và từng bước hoàn thiện bản
thân để trở thành lớp lao động trẻ hướng tới xây dựng phát triển đất nước theo hướng Xã
hội chủ nghĩa gắn với nền kinh tế tri thức.
Đối với mỗi sinh viên, bên cạnh trình độ chun mơn tốt để thích ứng sự phát triển
của thời đại, cần phải có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, trung thực, nhân cách cao
đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tự lập, tự chủ, có hồi bão và ước mơ, năng động và
sáng tạo bước vào cuộc sống. Để hình thành nhân cách con người mới XHCN ở sinh viên
không thể một sớm một chiều mà phải thơng qua q trình giáo dục toàn diện trong suốt
thời gian sinh viên ngồi trên ghế nhà trường và suốt cuộc đời. Mỗi môn khoa học được
giảng dạy trong nhà trường đều có vai trị của mình trong việc giáo dục và phát triển nhân
cách cho sinh viên; trong đó, giáo dục ý thức chính trị đóng vai trị quan trọng để hình thành
và hồn thiện nhân cách con người mới XHCN ở sinh viên.
1.2.2.2. Đặc điểm hình thành niềm tin chính trị ở sinh viên
Hình thành niềm tin chính trị ở sinh viên là một quá trình, phản ánh theo các giai
đoạn và theo các trình tự nhất định
Hình thành niềm tin chính trị của sinh viên phải qua một q trình đó là từ nhận thức
đi đến thực tiễn. Sinh viên phải có một lượng tri thức chính trị đúng đắn thêm vào đó là tình
cảm chính trị và sẽ dần đi đến lý tưởng chính trị, và đó chính là cái gốc để hình thành niềm
tin chính trị. Muốn có được những điều đó thì chính là cả một q trình bồi dưỡng, rèn
luyện của sinh viên, phải đi theo một trình tự nhất định và phản ánh được đặc điểm của
từng giai đoạn.
Với việc được trang bị những kiến thức khá bài bản về tri thức chính trị, cùng với
việc được sinh sống trong một mơi trường học tập tích cực, sinh viên có cơ sở để xây dựng
niềm tin chính trị. Cùng với những chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với sinh
viên, những hoạt động của các đồn thể, hội sinh viên…. Sẽ dễ dàng hình thành niềm tin
chính trị cho sinh viên.

Hình thành niềm tin chính trị ở sinh viên là quá trình thể hiện quan điểm khác nhau,
đấu tranh với nhau
Qúa trình hình thành nên niềm tin chính trị là một q trình lâu dài khơng ngừng rèn
luyện. Trong q trình đó thì mỗi cá nhân sinh viên phải luôn trau dồi và trang bị cho mình
những kiến thức, hiểu biết về chính trị, từ đó biểu hiện ra hoạt động thực tiến của sinh viên.
Và trong q trình hình thành được niềm tin chính trị đó sinh viên khơng ngừng đấu tranh,
về phương hướng để có thể hình thành một niềm tin chính trị đúng đắn. Ở mỗi thời gian,
22


mỗi địa điểm mỗi cá nhân sinh viên có thể có những suy nghĩ, những quan niệm riêng vì
vậy muốn hình thành được niềm tin chính trị đúng đắn thì tự mỗi cá nhân sinh viên phải
biết cách lựa chọn, đấu tranh và giữ vững quan điểm lập trường chính trị đúng đắn của
mình.
Hình thành niềm tin chính trị là q vận động giáo dục khơng ít trở ngại, gian trn,
thậm chí cịn biểu hiện hồi nghi, dao động
Muốn có được một tri thức chính trị thì mỗi sinh viên phải qua quá trình giáo dục,
học hỏi và rèn luyện. Qúa trình đó phải đi theo một trình tự nhất định và lâu dài vì vậy mỗi
cá nhân sinh viên phải có tính kiên trì, ham học hỏi và biết nhẫn nãi. Trong q trình hình
thành tri thức chính trị thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vấp ngã trong quá trình nhận thức bởi
vậy sinh viên cần phải xác định được mục tiêu, quan điểm của mình để từ đó có thể tiếp thu
những tri thức đúng đăn trong hoạt động nhận thức.
1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng và niềm tin chính trị ở sinh viên
1.3.1. Đạo đức cách mạng là nguồn gốc hình thành niềm tin chính trị
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây đắp nên truyền
thống, văn hóa, đạo đức, nhân cách con người Việt Nam. Nét đặc sắc của truyền thống Việt
Nam là yêu nước, thương nòi, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, sống nhân nghĩa, thủy
chung, thông minh, hiếu học, đề cao nhân phẩm, quý trọng tình người, khiêm tốn, trung
thực, cần kiệm, ln chí cơng, vơ tư. Những đức tính ấy đã trở thành tình cảm sâu sắc, lẽ
sống cao đẹp, phong tục tập quán văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được các thế

hệ con cháu trân trọng, bồi đắp và giữ gìn. Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là một tất yếu của sự phát triển. Đó là cái nền gốc vững chắc để phát triển đạo đức
cách mạng của mỗi sinh viên trong thời kỳ lịch sử mới của dân tộc phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh. Và chính sự phát triển đạo đức cách mạng đã giúp các sinh viên
có thể hình thành nên niềm tin chính trị đúng đắn dựa trên sự kế thừa và phát triển từ các
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó chính là nguồn gốc cho sự hình thành niềm tin chính
trị ở sinh viên.
1.3.2. Đạo đức cách mạng giúp hình thành nên lý tưởng chính trị ở sinh viên
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, thanh niên nói chung và sinh viên nói
riêng bị tác động của nhiều nhân tố, trong đó có sự đan xen của những nhân tố thuận lợi và
những nhân tố bất lợi, khó lường. Thanh niên đang đứng trước sự chọn lựa giữa giá trị sống
tích cực và những đòi hỏi vật chất tầm thường, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa lợi ích
và trách nhiệm, giữa được và mất.
Thực tế cho thấy, phần lớn học sinh, sinh viên hiện nay tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, vào con đường phát triển đất nước, sống có trách nhiệm với tổ quốc, gia đình,
bản thân, có ước mơ hồi bão, có đạo đức, văn hóa lành mạnh, tích cực tham gia các hoạt
động, vận động mọi người tham gia các hoạt động vì cộng đồng, biết phê phán những tiêu
cực, tệ nạn xã hội, các hành vi trái với thuần phong và có ý trí vươn lên trong cuộc sống.
Nhiều sinh viên đã tích cực khởi nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, dưới tác động của cơ chế thị trường, những
ảnh hưởng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, một bộ phận thanh niên, sinh viên có biểu hiện
23


sa sút về đạo đức, lối sống, thiếu trung thực, lười lao động, thích hưởng thụ; số ít cịn rơi
vào tình trạng cờ bạc, rượu bia, game, đặc biệt là nghiện điện thoại di động, đam mê với
cuộc sống ảo. Tình trạng bạo lực học đường vẫn xảy ra. Một bộ phận học sinh, sinh viên
vẫn chưa nhận thức được đầy đủ về vai trị, trách nhiệm của mình.

Vì lẽ đó, chúng ta cần phải định hướng cho thanh niên chọn lựa đúng những giá trị
tốt đẹp, phù hợp với truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc, gạt bỏ, loại trừ những thói
hư, tật xấu. Lý tưởng chính trị ở sinh viên hiện nay là phấn đấu hy sinh vì mục đích lý tưởng
của Đảng, của Bác Hồ kính u. Đó là xây dựng nước Việt Nam hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, giàu mạnh, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Để làm được
điều đó thì phụ thuộc rất nhiều yếu tố : kiến thức chuyên môn, nắm vững khoa học kỹ thuật,
giàu lòng yêu nước,…nhưng yếu tố quan trọng nhất là sinh viên cần phải có đạo đức cách
mạng. Đạo đức cách mạng giúp sinh viên rèn luyện, nhận thức đúng đắn các giá trị “Chân,
Thiện, Mỹ”, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ đó hình thành cho sinh viên
cuộc sống trong sạch, lành mạnh, những hành vi đạo đức trong sáng phù hợp với các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và thời đại để hướng tới hình thành nên lý tưởng chính trị
đúng đắn.
1.3.3. Đạo đức cách mạng giúp điều chỉnh hành vi của bản thân.
Đạo đức cách mạng có ý nghĩa quyết định trực tiếp giúp sinh viên hiểu rõ mục đích, ý
nghĩa cuộc sống và xây dựng nhân sinh quan cách mạng. Đạo đức góp phần hình thành và
phát triển thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng trong nhân cách sinh viên.
Đạo đức sẽ tạo động lực thôi thúc sinh viên hăng hái quyết tâm nghiên cứu học tập, tiếp thu
tri thức khoa học để nâng cao trình độ nhận thức, cổ vũ, động viên sinh viên tự ý thức, rèn
luyện, hình thành niềm tin, hình thành thế giới quan khoa học cho mình.
Đạo đức là động lực là ngọn nguồn phát triển của dân tộc, tạo nên sức mạnh giúp sinh
viên có thể vượt qua những khó khăn hướng tới sự thành công, trở thành người công dân
có ích cho xã hội. Hơn nữa, đạo đức sẽ giúp con người sống tình cảm hơn, điều chỉnh các
mối quan hệ trong cuộc sống tốt hơn và xây dựng một môi trường sống thân thiện.
Đạo đức cách mạng giúp cho thế hệ trẻ - đặc biệt là sinh viên rèn luyện được các đức
tính cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng khơi dậy tiềm năng to lớn của tuổi trẻ, tạo cơ hội để tuổi trẻ cả nước góp sức vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, đạo đức cách mạng giúp sinh viên
có thể điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật, tránh phạm pháp, làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật. Ngồi ra đạo đức giúp các bạn sinh viên có thể làm chủ được bản thân để
không bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, tự giác tu dưỡng và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí

Minh.
Trong q trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn đặt niềm tin và kì vọng
xác định thanh thiếu niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là
một trong những nhân tốt quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc, công tác thanh niên
là một trong những yếu tố quyết định thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, hội nhập quốc té và xây dựng CNXH. Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
thế hệ trẻ luôn được Đảng, Nhà nước, gia đình, nhà trường và tồn xã hội quan tâm. Những
năm qua, nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác thanh niên và giáo dục thế hệ trẻ
được ban hành và triển khai mạnh mẽ. Thông qua các hoạt động giáo dục,các cuộc vận
24


động, phong trào thi đua yêu nước đã tạo môi trường lành mạnh để thanh (thiếu) niên rèn
luyện, trưởng thành, góp phần hình thành lí tưởng cách mạng, đạo đức cao đẹp, lối sống
nghĩa tình, tuân thủ pháp luật. từng bước hồn thiện nhân cách.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để
toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân và đặc biệt là thanh niên – lứa tuổi sinh viên. Đạo đức cách mạng là cơ sở giúp sinh
viên hoàn thiện được nhân cách và hình thành nên lí tưởng cách mạng của mình từ đó góp
phần củng cố niềm tin chính trị cho sinh viên giúp sinh viên xây dựng và hoàn thiện bản
thân cho ngày mai lập thân lập nghiệp.

25


×