Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

24223 16122020235234270khaluntonvn converted

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.89 KB, 51 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

Hoạt động chống thổ phỉ của triều Nguyễn (1802 – 1883)”.

Sinh viên thực hiện: Lê Thị Niên
Chuyên ngành

: Sư phạm Lịch Sử

Lớp

: 15SLS

Người hướng dẫn : TS.Trương Anh Thuận

Đà Nẵng, tháng 01năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian bốn năm, từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến
nay, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của Qúy thầy cơ, gia đình và bạn
bè. Đặc biệt các thầy cô đã trực tiếp và gián tiếp tận tình giúp đỡ tơi trong q trình
làm luận văn cũng như q trình học tập tại nơi đây.
Tơi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của tập thể lãnh đạo, các nhà khoa học, cán
bộ, Ban Giám hiệu, đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp với đề
tài: “ Hoạt động chống thổ phỉ của triều Nguyễn (1802 – 1883)”. Tôi xin bày tỏ lịng


cảm ơn chân thành nhất. Đồng thời, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Qúy thầy cô
giáo trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã tận tình giảng dạy và truyền đạt
kiến thức cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại giảng đường đại học. Và đặc
biệt là TS. Trương Anh Thuận, người đã ln tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn
thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Ngồi ra, tơi cũng xin cảm ơn những người bạn bè thân thiết đã giúp đỡ, đóng góp
những ý kiến hữu ít cho đề tài nghiên cứu này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến ba mẹ, anh chị, những người luôn theo sát, cổ
vũ, động viên tôi về tinh thần lẫn vật chất, ln tạo điều kiện tốt nhất để tơi có thể học
tập và hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Khóa luận tuy còn nhiều hạn chế nên rất mong sự góp ý của Qúy thầy, cơ để khóa
luận của tơi được hồn thiện và tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm quý báu.

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU............................................................................................................01
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................01
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...........................................................................02
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................03
3.1. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................03
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................04
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................04
4.1. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................04
4.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................04
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu...................................................04
5.1. Nguồn tư liệu......................................................................................04
5.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................05
6. Đóng góp của đề tài......................................................................................05
7. Bố cục của khóa luận....................................................................................06

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
VÀ NẠN THỔ PHỈ TRONG GIAI ĐOẠN (1802 – 1883).......07
1.1. Tình hình việt nam dưới triều Nguyễn...............................................07
1.1.1. Chính trị, kinh tế và xã hội...........................................................07
1.1.2. Quân sự và ngoại giao..................................................................15
1.1.3. Văn hóa và giáo dục.....................................................................17
1.2. Nạn thổ phỉ dưới triều Nguyễn (1802 – 1883) ..................................19
1.2.1. Khái niệm thổ phỉ.........................................................................19
1.2.2. Thành phần xuất thân của thổ phỉ................................................20
1.2.3. Địa bàn hoạt động của thổ phỉ......................................................23
1.2.4. Quy mô và tác động của thổ phỉ...................................................26
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP CHỐNG THỔ PHỈ CỦA TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1883)
..................................................................................................................29
2.1. Kiểm tra chặt chẽ tình hình người dân tại các địa phương.................29
2.2. Huy động các lực lượng tiễu trừ thổ phỉ.............................................30
2.3. Trang bị vũ khí phương tiện cho các lực lượng tham gia tiễu trừ thổ
phỉ.......................................................................................................42
2.4. Thực hiện chính sách thưởng phạt......................................................44
2.5. Đánh giá các biện pháp phòng chống thổ phỉ của triều Nguyễn (1802 –
1883) ...............................................................................................46
2.5.1. Ưu điểm............................................................................46
2.5.2. Nhược điểm......................................................................48
KẾT LUẬN.........................................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................51


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài


Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng
Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra triều
Nguyễn. Trong suốt thời gian của bốn vị hoàng đế Gia Long Minh Mệnh, Thiệu Trị
và Tự Đức, này triều này phải đối mặt với vơ vàn những khó khăn, thách thức. Ở
bên ngồi, đó là sự uy hiếp của thực dân phương Tây đối với nền độc lập tự chủ của
quốc gia. Ở bên trong, triều Nguyễn phải giải quyết các vấn đề nội trị hết sức cấp
thiết. Trong đó, nạn thổ phỉ là một trong những vấn đề tiêu biểu. Nạn thổ phỉ diễn ra
liên tục khiến cho tình hình chính trị khơng ổn định, xã hội rối ren, mâu thuẫn giữa
nông dân với triều đình ngày càng bị đẩy lên cao, thêm vào đó sự canh phịng, bảo
vệ an ninh lại sơ hở, lỏng lẻo dẫn đến việc cướp phá của cải của bọn thổ phỉ ngày
càng mạnh mẽ. Nó khơng chỉ đem đến cho nhân dân sự lo sợ, mà còn gây ra nhiều
áp lực cho triều đình nhà Nguyễn trong việc chống lại thổ phỉ. Vậy trên thực tế,
trong giai đoạn 1802 – 1883, hoạt động của thổ phỉ diễn ra như thế nào? Triều
Nguyễn đã có những biện pháp gì để giải quyết vấn nạn này? Hiệu quả của các biện
pháp ấy ra sao? Tất cả những vấn đề trên đã thực sự mang lại cho chúng tôi một
nguồn cảm hứng nghiên cứu sâu sắc.
Mặc dù là một vấn đề được ghi chép tương đối nhiều trong các bộ sử lớn của
triều Nguyễn như Đại Nam Thực Lục, Khâm định tiễu bình lưỡng kì nghịch phỉ
phương lược chính biên, hay đại cương lịch sử Việt Nam,... tuy nhiên cho đến này,
do nhiều lí do khác nhau nên vấn đề này vẫn chưa thu hút sự quan tâm đúng mức
của giới nghiên cứu. Chính vì vậy, các thành quả nghiên cứu về hoạt động phòng
chống thổ phỉ của triều Nguyễn vẫn chưa thực sự phong phú và đa dạng. Đặc biệt,
cho đến nay, một cơng trình nghiên cứu mang tính chất toàn diện, xuyên suốt qua
các triều vua nhà Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức về hoạt
động phịng chống thổ phỉ thì vẫn cịn nằm trong sự kì vọng và mong đợt của giới
học giả và bạn đọc. Đó chính là một động lực nữa để khiến chúng tôi mạnh dạn
chọn vấn đề “Hoạt động chống thổ phỉ của triều Nguyễn (1802 – 1883)” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.


2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4


Vấn đề thổ phỉ và các biện pháp phòng chống vấn nạn này của triều Nguyễn là
một nội dung được đề cập tản mạn và rời rạc trong các bộ sử lớn của vương triều
này cũng như một số công trình nghiên cứu của giới học giả. Những tài liệu đã thể
hiện sâu sắc được bối cảnh lúc bấy giờ của triều Nguyễn, việc thổ phỉ lộng hành
mạnh mẽ cũng như cách phòng chống của triều Nguyễn, cụ thể:
Tiểu luận “Hoạt động của thổ phỉ và hải tặc dưới thời Tự Đức 1848 - 1883”
của Nguyễn Ngọc Trìu, lớp CLC K49 Lịch sử. Tiểu luận đã làm rõ được hoạt động
của thổ phỉ, hải tặc và chính sách đối phó của Tự Đức đối với thế lực này. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ một bài bài tiểu luận nên nội dung của nó vẫn cịn hạn chế
về phạm vi, thời gian và không gian, mới chỉ nghiên cứu ở một triều vua Tự Đức.
Gần đây nhất, trong hội thảo khoa học“Nguyễn Tri Phương và nghệ thuật
quân sự chống ngoại xâm”, PGS.TS Đỗ Bang, Chủ tịch Hội KHLS tỉnh Thừa Thiên
Huế cũng đã đề cập đến hoạt động chống thổ phỉ của Nguyễn Tri Phương ở phía
Nam, cung cấp thêm một tư liệu quý giá nữa để chúng tôi nghiên cứu tổng thể về
hoạt động phòng chống thổ phỉ của triều Nguyễn (1802-1883).
Tác phẩm “Hình thức xử phạt quan lại dưới triều Gia Long và Minh Mệnh”
của tác giả Phạm Thị Thu Hiền xuất bản năm 2016 cũng đã đưa ra được một số hình
thức xử phạt đối với các quan lại và nhân dân trong quá trình tiễu trừ thổ phỉ. Đối
với mỗi cuộc tiễu trừ hay các hoạt động phòng chống thổ phỉ, nhà vua đều ban
thưởng cho những ai lập cơng và có hình phạt thích đáng đối với những người
khơng hồn thành trách nhiệm. Tác phẩm đã có sự khái qt cao về các hình phạt
cũng như chính sách khen thưởng trong triều Gia Long và Minh Mệnh. Tuy nhiên
để hồn thiện đề tài, chúng tơi cịn thiếu những biện pháp trong hai triều vua Thiệu

Trị và Tự Đức, thêm vào đó phải làm rõ những ưu nhược điểm của những biện pháp
ấy.
Một tác phẩm thể hiện chân thực nhất về đời sống và các phong trào đấu tranh
của nhân dân Việt Nam đó là “Phong trào nơng dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX”
của tác giả Nguyễn Phan Quang xuất bản năm 1986. Tác phẩm đã vẽ nên bức tranh
những người nông dân dưới triều Nguyễn, đặc biệt giai đoạn 1802 -1883, những
cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821- 1827), khởi
nghĩa Nông Văn Vân dưới triều Minh Mạng (1833- 1835), thời Tự Đức có cuộc
khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854- 1856),... Tác phẩm đã làm rõ được nguyên nhân,

5


diễn biến, kết quả của các cuộc nổi dậy. Đương thời, nhà Nguyễn xem lực lượng
nông dân nổi dậy chống lại triều đình là thổ phỉ. Điều đó được thể hiện qua nguồn
sử liệu được ghi chép trong các bộ sử lớn của triều Nguyễn. Chính vì vậy, ở một
mức độ nhất định, cơng trình “Phong trào nơng dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX”
của tác giả Nguyễn Phan Quang cũng góp thêm một phần tư liệu giúp nghiên cứu
sau sắc hơn về “nạn thổ phỉ” dưới triều Nguyễn theo quan niệm thiểm cận của vua
quan vương triều này.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước,
chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau, để nghiên cứu một
cách toàn diện nạn thổ phỉ và các biện pháp phòng chống thổ phỉ của nhà Nguyễn
(1802 – 1883) trong đề tài khóa luận tốt nghiệp này.

3.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu


Tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới một số mục tiêu sau:
Thứ nhất là nghiên cứu những khó khăn mà triều Nguyễn phải đối mặt trên
phương diện nội trị thông qua sự bùng phát vấn nạn thổ phỉ trong cả nước.
Thứ hai là làm rõ sự quan tâm cũng như các biện pháp của chính quyền nhà
Nguyễn trong việc phòng chống thổ phỉ, dẹp loạn yên dân.
Thứ ba là đánh giá kết quả, tác dụng, ưu điểm và hạn chế của cácbiện pháp
phòng chống thổ phỉ của triều Nguyễn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra đối với tác giả là phải tìm
kiếm, tập hợp, phân loại, xác minh, so sánh tư liệu gốc cũng như thành quả nghiên
cứu để phục dựng bức tranh toàn cảnh nạn thổ phỉ dưới triều Nguyễn và những đối
sách của vương triều này trong việc giải quyết vấn nạn này.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là nạn thổ phỉ và các biện pháp phòng
chống dưới triều Nguyễn.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nạn thổ phỉ trên phạm vi tồn quốc và biện pháp phịng
chống của triều Nguyễn qua 4 đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức từ
năm 1802 đến năm 1883.


5.

Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu

Triều Nguyễn là triều đại của những bộ tư liệu quý giá và được lưu giữ cẩn
thận đến tận ngày nay như Đại Nam thực lục, Hồng Lê nhất thống chí, Đại Nam
nhất thống chí, Khâm định tiễu bình lưỡng kì nghịch phỉ phương lược chính
biên,...những tư liệu này đều đóng góp những thành quả khơng nhỏ trong q trình
nghiên cứu. Tuy nhiên, trong đó tư liệu chủ yếu mà chúng tơi sử dụng trong khóa
luận là bộ Đại Nam thực lục - bộ sử lớn nhất và quan trọng nhất của nhà Nguyễn và
các cơng trình nghiên cứu của các học giả.
Đại Nam thực lục, bộ sử ghi chép đầy đủ nhất về diễn trình lịch sử và các triều
vua Nguyễn theo thể biên niên.Tuy cịn có nhiều hạn chế, trong cách biên chép này
chủ yếu nghiên cứu về hoạt động, chính sách của các vị vua, các cơ quan hành
chính, triều thần, chưa đi sâu vào cách thực hiện trong dân gian, đời sống nhân dân.
Nhưng Đại Nam thực lục đã cung cấp cho đề tài một nguồn tư liệu phong phú và tin
cậy.
Cơng trình Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ do Viện Sử học xuất
bản năm 2009, trong đó phần nội dung về Hồng Việt luật lệ đã góp phần cung cấp
tư liệu về việc xử phạt, ban thưởng các quan đại thần cũng như nhân dân trong việc
phòng chống thổ phỉ dưới triều Nguyễn, trở thành một nguồn tư liệu quan trọng
giúp tác giả hồn thành khóa luận này.
Tác phẩm Tình hình nơng nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của
tác giả Trương Hữu Quýnh là một tư liệu quan trọng và khơng thể thiếu trong q
trình nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội dưới triều Nguyễn. Tác phẩm đã tái hiện
được tình hình sản xuất nơng nghiệp, đời sống của người nông dân và ảnh hưởng
tiêu cực của nạn thổ phỉ đến lực lượng này thời bấy giờ. Trong quá trình nghiên
cứu, tơi đã sử dụng những phần viết liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nội dung
khóa luận trong cơng trình này.


7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng hai phương pháp
nghiên cứu chính của sử học là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngồi
ra, chúng tơi cịn áp dụng các phương pháp thống kê, định lượng, so sánh, tổng hợp,
phân tích… để xử lí tư liệu và các nội dung trong đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
Sưu tầm lựa chọn những tài liệu liên quan đến lịch sử triều Nguyễn, trong đó
đề tài góp phần khơng nhỏ trong việc làm nổi bật tình hình nhà Nguyễn, những khó
khăn nhà Nguyễn gặp phải, đặc biệt là nạn thổ phỉ.
Khóa luận này còn là nguồn tài liệu cho những ai quan tâm đến vấn đề thổ phỉ
dưới triều Nguyễn, là tài liệu tham khảo cho sinh viên và những ai đam mê lịch sử
Việt Nam trung cận đại.

7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
được chia làm 2 chương:

8


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU
NGUYỄN VÀ NẠN THỔ PHỈ TRONG GIAI ĐOẠN 1802-1883

1.1. Tình hình ViệtNam dưới triều Nguyễn (1802-1883)
1.1.1. Chính trị, kinh tế và xã hội
Sau khi lật đổ Tây Sơn, nhà Nguyễn đã thiết lập một hệ thống cai trị từ trung

ương đến địa phương trên một lãnh thổ rộng lớn bao gồm cảĐàng Trong và Đàng
Ngoài được mở rộng đến tận mũi Cà Mau. Nhà Nguyễn lấy Phú Xuân (Huế) là kinh
đô và chia địa phương thành các trực, cơ, kỳ tùy thuộc và mức độ xa hay gần.
Những địa phương gần kinh đơ là trực doanh, trực thuộc triều đình, sau đó là các
trấn do kinh sư gián tiếp quản lý, gọi là cơ trấn. Hai miền Nam, Bắc của đất nước
được phân ra Bắc Kỳ và Nam Kỳ do hai quan Tổng trấn tại Bắc Thành và Gia Định
thay mặt hồng đế trực tiếp điều hành. Vua Gia Long cịn “ra lệ “tứ bất” là không
đặt tể tướng, không lấy trạng ngun, khơng lập hồng hậu và khơng phong tước
vương để tránh sự lấn át của quần thần”[3, tr.25].
Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong chức tước cho những người theo phị tá
mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hồng đế, ơng lại tiếp tục kiện
tồn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính quyền mới. Nhà Nguyễn về cơ
bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như
các triều đại trước đó. Đứng đầu nhà nước là vua, nắm mọi quyền hành trong tay.
Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là
Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì “có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại
thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật. Ngồi ra cịn có Tơng nhân phủ phụ
trách các cơng việc của Hồng gia”[3, tr.37].
Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng thư chịu
trách nhiệm chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước, các bộ gồm: Lại,Hộ,
Lễ,Binh, Hình và Cơng. Bên cạnh 6 Bộ cịn có “Đơ sát viện (tức là Ngự sử đài bao
gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm thanh tra quan lại, Hàn Lâm viện phụ trách các sắc
dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc

9


Tử giám phụ trách giáo dục, Thái Y viện chịu trách nhiệm về việc chữa bệnh và
thuốc thang,... cùng với một số Ti và Cục khác”[26, tr.78].
Theo Trần Trọng Kim, người ta “thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế

theo nghĩa của các nước Tây Âu ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học
Nho giáo có nhiều chỗ khác nhau...”[3, tr.26]. Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi có
việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét. Quan lại
bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định,
đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có quyền lớn nhưng
lại khơng được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì sai thì các quan
Giám sát Ngựsử có quyền can ngăn vua và thường là vua phải nghe lời can ngăn của
những người này. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở
xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà
cử ra quản trị mọi việc tại đia phương. “Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai
tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê
điều và trị an trong tổng”[3, tr.75].
Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ.Kể từ thời vua Minh Mạng được xác
định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh
và tòng 2 bậc.Trừ khi chiến tranh loạn lạc cịn bình thường quan võ phải dưới quan
văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân
lính của tỉnh nhà. Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng
nhiều quyền lợi, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn
hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cái các quan còn được hưởng lệ tập ấm.
“Tuy bộ máy không thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham nhũng vẫn là một trong những
vấn đề lớn.Trong bộ luật triều Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắc đối với
tội này”?[8, tr.26].
Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quân
chủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc
quản lý đất nước. Đặc biệt là những thành tựu trong cải cách hành chính dưới triều
Minh Mạng cịn có nhiều giá trị. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng: “Nhà
Nguyễn có nhiều chính sách hay. Chính sách Đình Nghị: Đã đi họp là phải phát
biểu. Ý kiến trong Đình Nghị phải được ghi chép.Nếu khơng phát biểu trong kỳ họp
trước, kỳ sau sẽ không được đi họp nữa. Hay chủ trương Hầu trị: Người của địa


10


phương không được đứng đầu trong địa phương. Phải đi nơi khác làm quan, khi
đến địa phương khác, không được lấy vợ, mua đất ở đó.Giám khảo chấm thi khơng
được tham gia khi có người nhà đi thi, hoặc phải trình báo…Đây là những chính
sách mà ngày nay chúng ta cần học tập”[3, tr.38].
Triều Nguyễn từng bị Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa) đánh giá là “Chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động” và cho rằng
nhà Nguyễn đã “tăng cường bộ máy đàn áp”, “Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”[2;
tr.23]. Nhưng nhiều nhà sử học về sau cho rằng bộ máy quan lại triều Nguyễn
không thực sự hủ bại, thối nát, rằng từ thời vua Gia Long (1802-1820) đến Minh
Mạng (1820-1840), nhà Nguyễn đã “thực hiện công cuộc cải cách hành chính theo
xu hướng đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại có năng
lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước”[3, tr.40]. Sự thay đổi về quan điểm này được
cho là do hiện nay các nhà sử học đã có được nguồn sử liệu toàn diện, phong phú và
phương pháp tiếp cận khách quan, khoa học, cộng với độ lùi thời gian cần thiết
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đơ, Nguyễn Ánh vẫn
tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một Tổng
trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
Đến thời Minh Mạng, để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong cả nước,
năm 1831-1832 nhà vua thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, theo đó bỏ các
tổng trấn, đổi các dinh, trấn trấn thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên đơn vị hành chính
tỉnh xuất hiện ở Việt Nam. Năm 1831, “Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở
ra thành 18 tỉnh, và vùng cịn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh”[2, tr.435].
Thừa Thiên, nơi toạ lạc của kinh đô Phú Xuân, là phủ trực thuộc Trung ương. “Cả
nước được chia làm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên”[2, tr.435].
Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1
tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Giúp việc có Bố chánh sứ ti
lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách

về quân sự có chức lãnh binh. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền
trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp, về sau mới bổ dụng
thêm các quan văn. “Hệ thống chính quyền được phân biệt rõ rệt giữa Trung ương
và địa phương, và trong hệ thống này nhà vua, người đứng đầu đất nước, nắm
nhiều quyền lực hơn hẳn so với các thời kỳ trước”[2, tr.437].

11


Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân
ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản trị. Tổng
gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của
các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Nhìn chung, “cơ cấu
hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình dễ dàng quản
lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra”[2, tr.438].
Đối với vùng thượng du và với các khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số,
Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các vùng miền
xuôi.Năm 1829 ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc
thiểu số) mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu
huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ
để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy
nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, “cùng với sự bất mãn của các lưu
quan, vào những năm trước khi thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn đã bỏ chế độ
này”[2, tr.437].
Tính đến cuối thế kỷ 19, “Việt Nam có 98 phủ bao gồm 342 huyện và châu”
[2, tr.33]. “Đối với những hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vua Gia Long từ
năm 1816 đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa, cắm cờ trên đảo và đo thuỷ
trình. Sang triều Minh Mạng, nhà Nguyễn cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và
trồng cây”[2, tr.33]. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn:
“khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần

đảo”[2, tr.45].
Về kinh tế, triều Nguyễn quản lý đất nước từ năm 1802, đứng trước những khó
khăn, thử thách to lớn về kinh tế, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó có
vấn đề ruộng đất và đời sống của nhân dân. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được cử
làm Doanh điền sứ, “Ông chiêu mộ dân lưu vong khai phá miền ven biển, lập nên
các huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Hàng trăm đồn điền được
thành lập rải rác ở các tỉnh Nam Kì. Việc khai hoang đã tăng thêm diện tích canh
tác. Nhưng ruộng đất bỏ hoang vẫn cịn nhiều, vì nơng dân bị địa chủ, cường hào
cướp mất ruộng đất, phải lưu vong” [7, tr.28]
Nhà Nguyễn đặt lại chế độ quân điền. Nông dân bị trói buộc vào ruộng đất để
nộp tơ thuế và đi phu dịch cho nhà nước. Nhưng phần lớn ruộng đất đã tập trung

12


vào tay địa chủ. Do vậy, “chế độ quân điền khơng cịn tác dụng phát triển nơng
nghiệp và ổn định đời sống nhân dân”[7, tr.33].
Vấn đề thuế khóa cao, lao dịch nặng và đời sống khó khăn của người dân cũng
khiến nhà Nguyễn mất lòng dân. Thời kỳ hai triều vua đầu tiên là Gia Long và Minh
Mạng, đất nước mới ra khỏi chiến tranh nên lẽ ra cần giảm thuế, miễn lao dịch để
sức dân được khôi phục. Nhưng Gia Long lại đánh thuế quá nặng và bắt dân chúng
lao dịch quá nhiều, thuế khóa và lao dịch tăng lên gấp ba so với nhà Tây Sơn, đồng
thời huy động hàng vạn dân phu để xây các cơng trình lớn như thành Phú Xuân và
đào kênh Vĩnh Tế. Đến thời Minh Mạng thì lại phung phí ngân khố và nhân lực vào
những chiến dịch quân sự lớn ở Chân Lạp. Gánh nặng thuế khóa, lao dịch và chiến
tranh đổ lên người dân khiến số cuộc nổi dậy của người dân vào thời kỳ đó nhiều
hơn hẳn các triều đại trước.
Ở các tỉnh phía bắc, việc sửa đắp đê khơng được chú trọng.Lụt lội, hạn hán
xảy ra luôn.Thời Tự Đức, tài chính thiếu hụt, nạn tham nhũng phổ biến, việc sửa
đắp đê càng khó khăn hơn.Có nơi như phủ Khối Châu (Hưng Yên), đê vỡ 18 năm

liền[2;tr.456]. Dân phiêu tán khắp nơi, trong dân gian có câu: “Oai ối như phủ
Khối xin cơm”[2, tr.455]. Cả một vùng đồng bằng phì nhiêu biến thành bãi sậy.
Về công thương nghiệp, theo đà phát triển của các thế kỉ trước, cơng thương
nghiệp có điều kiện phát triển thêm. Nhà Nguyễn thành lập nhiều xưởng đúc tiền,
đúc súng, đóng tàu ở kinh đơ Huế, Hà Nội, Gia Định… Thợ giỏi các địa phương
được tập trung về sản xuất trong các xưởng của nhà nước. Thợ đóng tàu nước Việt
Nam có tay nghề khá cao, biết ứng dụng kĩ thuật châu Âu. Một người Mĩ đến Việt
Nam năm 1820 nhận xét: “Người Việt Nam là những thợ đóng tàu thành thạo. Họ
hồn thành cơng trình với kĩ thuật hết sức chính xác”[7, tr.67].
Ngành khai thác mỏ được mở rộng. Cả nước có hàng trăm mỏ được khai thác
(các mỏ vàng, bạc, đồng, kẽm, chì, diêm tiêu...). Nhưng cách khai thác còn lạc hậu,
các mỏ hoạt động thất thường và sa sút dần.
Các nghề thủ công ở nông thôn và thành thị vẫn không ngừng phát triển.
Nhiều làng thủ công nổi tiếng khắp nước như làng Bát Tràng (Hà Nội), làng đúc
đồng Ngụ Xã (Hà Nội), làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Tây), Bảo An (Quảng Nam)...
Nhưng hoạt động thủ cơng nghiệp trong dân gian cịn rất phân tán.Thợ thủ công
phải nộp thuế sản phẩm nặng nề.

13


Sang thế kỉ XIX, đất nước đã thống nhất, việc bn bán có nhiều thuận lợi.
Ngồi các thành thị nổi tiếng truớc kia như Hà Nội, Phú Xuân (Huế), Gia Định,
nhiều thị tứ mới xuất hiện rải rác ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ.Một thuyền
trưởng người Pháp đến Hội An năm 1819 nhận xét: “Hội An chỉ có một đường phố
nhưng rất dài. Nhà cửa đều xây bằng gạch.Gian trước bày bán hàng hoá, gian sau
là kho hành kín đáo. Hàng hố vận chuyển đến Hội An rất thuận lợi nhờ có nhiều
kênh đào”[19, tr.78].
Theo Trịnh Hồi Đức, “Thành phố Mĩ Tho nhà ngói cột chạm, ghe thuyền tấp
nập, phồn hoa huyên náo, thực là một nơi đại đô hội”. Ở Sa Đéc, “phố chợ thẳng bờ

sông, nhà cất liền nhau kéo dài 5 dặm. Dưới sông, nhà bè đậu thẳng hàng, bán đủ
các thứ tơ lụa Nam - Bắc, dầu mỡ, than củi, tre mây, mắm muối. Trên bờ sơng bn
bán tấp nập, hàng hố chóa mắt, thật là một nơi phồn hoa danh thắng vậy” [19,
tr.79].
Dưới triều Nguyễn, thuyền buôn các nước Xiêm, Mã Lai, nhất là Trung Quốc,
thường xuyên sang Việt Nam mua bán hàng hoá. Các vua Nguyễn cũng nhiều lần
phái quan sang Trung Quốc, Singapore, Philippines, Xiêm, Nam Dương bán gạo,
đường, các lâm sản... và mua về len dạ, đồ sứ, vũ khí...Tàu buôn phương Tây (Bồ
Đào Nha, Pháp, Mĩ) cũng đến buôn bán ở các hải cảng Việt Nam.Nhưng “nhà
Nguyễn không cho người phương Tây mở cửa hàng.Họ chỉ được ra vào một số cảng
đã quy định”[19, tr.95]. Vì vậy các tàu bn Phương Tây khơng có nhiều cơ hội trao
đổi bn bán ở Việt Nam.
Về xã hội, Trong khi các nước tư bản phương Tây ngày càng phát triển thì tình
hình Việt Nam vào giữa thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX lại không ổn định. Chiến
tranh Trịnh - Nguyễn (1627 – 1775), chiến tranh Nam Bắc triều (1533 – 1592),
phong trào đấu tranh của nông dân Tây Sơn lật đổ các tập đoàn phong kiến trên để
lập nên triều Tây Sơn, cuối cùng là sự phục thù của dòng họ chúa Nguyễn lật đổ
triều Tây Sơn lập nên triều đại mới – vương triều Nguyễn. Mặc dù nội chiến kéo dài
triền miên hơn 300 năm song tình hình kinh tế, chính trị cũng có những bước phát
triển nhất định. Đặc biệt là sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi, ông đã có xây dựng kinh
đơ Huế quy mơ hơn và rộng lớn hơn. Triều Nguyễn cũng là triều đại hoàn thành
thống nhất lãnh thổ và chính quyền trên cơ sở nền tảng của triều đại Tây Sơn để lại,
tạo thế ổn định để xây dựng đất nước sau chiến tranh.

14


Triều Nguyễn xây dựng một đế quyền vững mạnh và chặt chẽ từ trung ương
đến tận làng xã, hải đảo, biên giới. Thông qua việc tổ chức địa bạ, triều Nguyễn có
một phương thức quản lý kết hợp giữa xã hội, kinh tế, tài chính, lãnh thổ, chính

quyền và luật pháp tốt nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam.
Sau khi Gia Long lên ngôi, phong trào đấu tranh của nhân dân nổi dậy chống
triều Nguyễn đã bùng nổ. Các cuộc đấu tranh nổ ra rầm rộ, lan rộng trong cả nước,
đặc biệt là các dân tộc ít người ở miền núi. Theo tính tốn của các nhà nghiên cứu,
“dưới thời Nguyễn có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ các loại, riêng thời Gia
Long có khoảng 90 cuộc, thời Minh Mạng có khoảng 250 cuộc, thời Thiệu Trị có
khoảng 50 cuộc…”[2, tr.456.]. Nhà Nguyễn cũng là triều đại chứng kiến các cuộc
nổi dậy của nông dân cũng như các tầng lớp khác bùng nổ dữ đội, nhất là ở Bắc Hà.
Từ năm 1802 cho tới năm 1862, “tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của
nơng dân nổ ra …”[2, tr.457]. Trong số đó có “50 cuộc diễn ra dưới thời Gia Long
từ 1802-1820, 254 cuộc dưới thời Minh Mạng (1820-1840), 58 cuộc dưới thời Thiệu
Trị (1840-1847) và 40 cuộc nổi dậy dưới thời Tự Đức (1847-1862) …”[2, tr.457],
các toán cướp nổi lên hùng cứ địa phương, các tốn tàn qn Thái Bình Thiên
Quốc vượt biên vào cướp phá và cả những vụ bạo loạn như của Lê Duy Phụng do
thực dân Pháp kích động để rảnh tay xâm chiếm Việt Nam. Vậy nguyên nhân chính
làm bùng nổ nhiều cuộc nổi dậy là vấn đề kinh tế và đời sống khó khăn của người
dân:
Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân
phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú
Xuân (Huế): “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tịa thành và các cơng
trình cơng cộng khác. Khi tơi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ
các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng
gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt
hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua (Gia Long) đã vung ra
những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm
việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một cơng trình kỳ
diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động” [2, tr.456- 457]. Giáo sĩ người
Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng và bắt dân chúng lao
dịch quá nhiều, sự bất công và lộng hành của quan lại làm cho người dân khổ cực.


15


Ông viết: “Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và
lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì
tăng lên gấp ba”[2, tr.113]. Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải
huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Sự tham nhũng của quan lại cũng là một
nguyên nhân, dân chúng thì hết sức khốn khổ, vua và quan lại làm khổ dân một
cách kỳ lạ.
Nạn đói thường xuyên đe doạ cuộc sống của người nông dân. Theo lời tâu
của Nguyễn Cơng Trứ vào năm 1833, “dân đói đến tỉnh Hải Dương kiếm ăn có tới
27.000 người. Trận bão đổ bộ vào tỉnh Nghệ An 1842 đã làm cho 40.753 ngơi nhà
bị đổ, 5.420 người bị chết, cùng với đói kém, mất mùa, lụt lội và bệnh dịch. Trận
dịch xảy ra năm 1840, riêng ở Bắc Kì số người chết đã lên tới 67.000” [18, tr.113].
Nạn đói thường xuyên đe doạ cuộc sống của người nông dân.
Do bị áp bức trăm đường, không chịu nổi nên nhiều nông dân đã phải bỏ làng
mà đi. Có năm tại trấn Hải Dương, trong tổng số 13 huyện, dân phiêu tán mất 108
thôn xã. Tình trạng của nơng nghiệp đã như vậy, thì công thương nghiệp lại càng bi
đát. Dưới thời Nguyễn, nhà nước vẫn duy trì chế độ cơng tượng cũ. Việc lùng bắt
các thợ giỏi đưa về kinh đô phục vụ cuộc sống cung đình khiến cho thủ cơng dân
gian ngày thêm tàn lụi. Thêm vào đó là chính sách ngăn sông cấm chợ, tục giấu
nghề và các quy định ngặt nghèo vô lý của nhà nước như cấm buôn bán đồ sắt, cấm
khai thác mỏ ở một số vùng; tư nhân khơng được giao thương với nước ngồi... đã
khiến cho các trung tâm thương mại trở nên thưa thớt, công thương nghiệp tiêu
điều. Những người thợ khéo tay nhiều khi chỉ được sử dụng vào việc làm thỏa mãn
tính hiếu kì của các bậc vương giả... đã khiến cho nền cơng nghiệp chân chính
khơng thể ra đời. Chính sách ”bế quan tỏa cảng” khước từ mọi quan hệ thông
thương với bên ngoài đã làm cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Chính sách
thuế ngặt nghèo lại giáng tiếp địn nặng nề vào cơng thương nghiệp làm cho nó
khơng sao phát triển được; cơng nghiệp cũng khơng có điều kiện để trở thành một

ngành riêng, ngược lại, nó có xu hướng bị hòa tan vào nền kinh tế tự cung tự cấp
của xã hội phong kiến lạc hậu. Về Chính trị xã hội Về chính trị : Thừa hưởng thành
quả của phong kiến Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ
nhà Nguyễn đã xây dựng một bộ máy tập trung, độc đoán cao độ chưa từng có trong
lịch sử nước ta. Nhà Nguyễn đã nghi kỵ tất cả những ai dính líu đến nhà Tây Sơn và

16


đã trả thù một cách tàn khốc, kể cả những người đã nằm trong lịng đất, chính Gia
Long đã tun bố “Trẫm vì chín đời mà trả thù”, “Trẫm khơng đội trời chung với
nông dân” [2; tr211]. Nhà Nguyễn đã làm tổn thương tinh thần đoàn kết thống nhất
của dân tộc, làm suy yếu tiềm lực của đất nước, gây thù hằn trong nhân dân. Những
chính sách nhằm duy trì sự tồn tại của nhà Nguyễn nó trở thành xiềng xích trói buộc
nhân dân. Về xã hội Ách áp bức nặng nề cùng với những chính sách đối nội, đối
ngoại thiển cận của Nhà nước phong kiến Nguyễn đã trở thành nguyên nhân của
hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài suốt từ thời Gia Long đến thời Tự Đức,
trong đó có những cuộc khởi nghĩa lớn kéo dài nhiều năm thu hút hàng ngàn người
tham gia, khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Trong suốt 18 năm
thời Gia Long (1802-1820) có 73 cuộc khởi nghĩa nông dân. Từ thời Minh Mạng
trở về sau, cho đến năm 1858, các cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày càng nhiều hơn, quy
mô ngày càng lớn hơn. Năm 1821 có cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành ở vùng Nam
Định (kéo dài tới tận năm 1827). Năm 1833 có khởi nghĩa của Lê Duy Lương ở
Ninh Bình, Lê văn Khôi ở Gia Định, Nông văn Vân ở Tuyên Quang. Năm 1854 nổ
ra cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát ở Bắc Ninh... Trong vịng 7 năm ở ngơi của
Thiệu Trị, đã có tới 56 cuộc khởi nghĩa nơng dân. Thời Tự Đức, cao trào nông dân
khởi nghiã đã làm cho nền tảng chế độ phong kiến lung lay muốn đổ. Từ năm 1848
khi Tự Đức lên ngôi đến năm 1862 là năm thực dân Pháp cuớp trắng ba tỉnh miền
Đơng Nam Kì đã có 40 cuộc khởi nghĩa và nếu tính đễn năm 1883, khi nhà Nguyễn
ký điều ước Hác măng, thừa nhận sự chiếm đóng của Pháp trên tồn cõi Việt nam

thì các cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã lên tới con số 103.
Một số cuộc nổi dậy lớn kế tiếp là cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam
Định (1821-1827), Lê

Duy

Lương ở Ninh

Bình (1833-1834), Nơng

Văn

Vân ở Tuyên Quang (1833-1835) và của Cao Bá Quát (1854-1856) ở Hà Nội, đặc
biệt là phong trào bạo loạn do Lê Duy Phụng dẫn đầu (1861-1865) trên khắp lãnh
thổ Bắc Kỳ.
Với chính sách của triều đình Huế gia giảm các chương trình phúc lợi, giải tán
các cộng đồng Cơng giáo, gia tăng kiểm soát mua bán lương thực, tăng thuế, cộng
với nạn giặc Khách đánh phá mạn ngược và bọn cướp biển Tàu Ô đánh cướp các
làng ven biển, khiến tình hình miền Bắc càng trở nên nguy hiểm, có thể bùng nổ bất
kỳ lúc nào. Các thành phần bị ảnh hưởng nặng nề nhất, dễ nổi lên đối kháng nhất là

17


những nông dân bị nạn lũ lụt, các tộc người thiểu số nghèo khổ và các cộng đồng
Công giáo bị bách hại.
Tại Nam Kỳ ít xảy ra các cuộc nổi dậy chống triều đình hơn, nhưng số vụ nổi
dậy cũng khá nhiều. Ngồi ra, tại Nam Kỳ, chính sách khơng phù hợp của nhà
Nguyễn với người thiểu số, đặc biệt là người Khmer và chính sách đối ngoại với
vương quốc Chân Lạp cũng gây bất mãn trong cộng đồng người Khmer, dẫn đến

nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình, như các cuộc nổi dậy ở Lâm Sâm, Ba
Xuyên, Thất Sơn, Hà Tiên. Các cuộc khởi nghĩa này được xếp vào các cuộc nổi
loạn của thổ phỉ dưới triều Nguyễn.
1.1.2. Quân sự và ngoại giao
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến với
Tây Sơn là quân đội tương đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu phương Tây. Sau
khi làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây dựng quân đội hoàn thiện hơn, chính
quy hơn. Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện phép giản binh,
“theo hộ tịch tuỳ nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1 người lính”[2, tr.440].
Qn chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các địa phương đều có
lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. “Qn chính quy có 14 vạn người,
ngồi ra cịn có qn trừ bị”[2, tr.440]. Qn đội cịn được tổ chức thành 4 binh
chủng: bộ binh, tượng binh, thủy binh và pháo binh, trong đó bộ binh và thuỷ binh
được chú trọng xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất cao.
Ngồi vũ khí cổ truyền, quân chính quy được trang bị hoả khí mua của phương Tây
như đại bác, súng trường, thuyền máy, thuốc nổ...Các loại súng thần cơng, đại bác
được đúc với kích thước, trọng lượng thống nhất; thành luỹ, đồn to nhỏ cũng được
quy định cho từng cấp với số lượng quân nhất định.
Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được xem là do
tình thế bắt buộc thì với Minh Mạng lại hồn tồn tự nguyện. Minh Mạng “lấy
phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng đến việc quân cần tinh
nhuệ, không cần nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người
trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 người)”[26, tr.37] . Phương thức tác chiến được các
học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp, do trong quân đội Minh Mạng
có thuê các sĩ quan huấn luyện Tây Dương.

18


Sang thời Tự Đức, cơng tác quốc phịng của nhà Nguyễn có sự tương phản rõ

rệt với các triều trước. Một trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn
đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như khơng có. Trang bị bộ binh
rất lạc hậu: “50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn”[26,
tr.38]. Vũ khí được bảo trì cũng kém. Về thuỷ binh, khơng tàu hơi nước nào được
đóng mới, thuỷ qn thậm chí khơng đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc.
Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở
lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính khơng được quan
tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của quân sĩ
không cao. Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt
quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu
mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc hậu
nhiều. Do đó, khi người Pháp vào xâm lược Việt Nam (1858), “khoảng cách về
trang thiết bị giữa quân đội nhà Nguyễn và quân Pháp đã khá xa”[26, tr.67]
Quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng và các nước Phương Tây giai
đoạn này có vẻ yếu và ít giao lưu. Từ khi đánh bại triều Tây Sơn và lập nên nhà
Nguyễn, Nguyễn Ánh đã cầu viện nhà Thanh: “Cử đoàn do Lê Quang Định cầm
đầu sang nhà Thanh xin cầu phong, quốc ấn và quốc hiệu”[2, tr.441]. Thái độ của
Nguyễn trong quan hệ của mình với nhà Thanh là thần phục một cách mù quáng.
Trong lúc này quan hệ với nước Xiêm thất thường thì nhà Nguyễn lại khống chế
Cao Miên: “Nhà Nguyễn lại dùng lực lượng quân sự khống chế Cao Miên, đặt
thành Trấn Tây, bắt Lào thần phục. Quan hệ với Xiêm cũng thất thường, lúc thân
thiện, hịa hỗn, lúc tranh chấp.” [2, tr.441].
Còn đối với các nước phương Tây, thời Gia Long quan hệ giao thương giữa
triều Nguyễn với các giáo sĩ thương nhân phương Tây rất tốt. Nhưng vào nửa sau
thế kỉ XVIII quan hệ này yếu dần, do chính sách đóng cửa của nhà Nguyễn. Đặc
biệt Gia Long chịu ơn Bá Đa Lộc “ buộc phải giữ quan hệ với nước Pháp, nhưng
lạnh nhạt dần với Tây Ban Nha, Anh, Mỹ” [2, tr.441] .Với triết lí từ ngàn xưa dạy
rằng đừng có vời với những người ở nơi xa xôi đến. Vả lại thực tiễn xung quanh đất
nước cũng làm cho ông lo lắng.


19


Trì hỗn được nhiều cuộc xâm lược có thể xảy ra của các nước phương Tây
nhưng nhà Nguyễn lại không tận dụng được thời gian, tăng cường sức tự vệ của đất
nước. Nên năm 1858 Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
1.1.3. Văn hóa và giáo dục
Vào cuối thế kỉ XIX, tình hình văn hóa nghệ thuật có chút sa sút. Nhắc đến
văn hóa chúng ta sẽ nghĩ đến cơng trình văn hóa, điêu khắc, tạc tượng, hội họa, nghệ
thuật, sân khấu, ca múa... Vào triều Nguyễn, nhìn chung tình hình văn hóa có phát
triển tuy nhiên chưa đạt mức cao nhất. Các cơng trình lớn triều Nguyễn như điện
Thái Hịa, Long An, Ngọ Mơn, Hồng cung (Huế),...mang hình dáng phong cách
phương Tây và nhà Thanh. Về điêu khắc tạc tượng: “Nổi lên 18 tượng La Hán ở
chùa Tây Phương (Hà Tây) mang phong cách dân tộc, hiện thực sinh động” [2,
tr.466]. Hội họa cũng rất phát triển, một số tranh vẽ màu, chân dung, những đề tài
quen thuộc về làng quê dân dã, tranh sơn mài,... được lưu giữ tại các nhà trưng bày.
Người ta từng nói rằng: “ Tranh dân gian vừa là một nghề thủ công mới nổi tiếng
vừa là một biểu tượng khác của hội họa dân gian với đề tài quen thuộc hàng ngày
trong nhân dân được mơ hình hóa một cách đặc sắc ( từ con người đến con lợn, con
gà, con mèo, con chuột, cây dừa…” [2, tr.466]. Đặc biệt thời Minh Mạng hội họa
phát triển mạnh mẽ, nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng sơn mài, hay sơn nước đã được
cơng nhận là di sản văn hóa. Ngồi ra, nghệ thuật sân khấu, tuồng chèo, từ lâu đã trở
thành món ăn tinh thần của nhân dân Việt Nam, đặc biệt đến thời Nguyễn thi nghệ
thuật hát múa phát triển trên khắp cả nước và ngày càng được nhân dân lưu giữ và
bảo tồn: “Trong lúc ở miền xuôi phổ biến các câu hát, điệu hị thì ở miền núi phát
triển các điệu nhảy, điệu múa làm cho cuộc sống thêm vui tươi và tăng tính cộng
đồng.” [2, tr.466]. Từ đó trong nhân dân họ thường coi sân đình, sân chùa trở thành
sân khấu chèo vào những ngày lễ hội.
Từ giữa thế kỉ XVIII tình hình giáo dục Việt Nam sa sút và lạc hậu, đến đầu
thế kỉ XIX Gia Long lên ngôi chấn chỉnh lại việc giáo dục thi cử nhưng không thực

hiện được. Mãi đến thời Minh Mạng vua đã đề ra nhiều chính sách tiến bộ nên tình
hình giáo dục đã khắc phục được ít nhiều: “Năm 1829, Minh Mạng cho lấy thêm học
vị Phó bảng (tiến sĩ hạng 3), kì hạn thi khơng cố định” [2;tr.464]. Vua cho mở thêm
các trường học, chẳng hạn ở Huế “trường Quốc Tử Giám đặt ở Huế, lấy con em
quan chức, các thổ quan, người học giỏi ở địa phương vào học” [2, tr.464]. Một

20


điểm đáng chú ý là năm 1836, Minh Mạng cho thành lập “Tứ dịch quán” để dạy
tiếng nước ngoài như tiếng Pháp, tiếng Xiêm....
Đến thời nhà Nguyễn, tuy văn học chữ Hán khơng cịn chiếm ưu thế nữa,
nhưng các nhà thơ nhà văn vẫn nổi lên với những tác phẩm nổi tiếng được mọi
người biết đến như Lê Quý Đôn, Ngơ Thời Sĩ, Ngơ Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Bùi
Huy Bích, Nguyễn Thiếp, Trịnh Sâm, Cao Bá Quát,... Minh Mạng và Tự Đức cũng
là hai nhà thơ văn lỗi lạc của thế kỉ XIX. Thời kì này ra mắt những bộ sưu tập thơ và
một số tác phẩm kí sự nổi tiếng: “Xuất hiện những bộ sưu tập thơ như Toàn Việt thi
tập, Hoàng Việt văn hải của Lê Quý Đơn,...cùng một số tác phẩm thuộc thể kí sự
như Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Hồng Lê nhất thống chí của các tác giả
họ Ngơ, Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ....”[2, tr.464].
Riêng văn học dân gian, phát triển mạnh theo nhiều thể loại khác nhau như tục
ngữ, phương ngôn, đến ca dao, ví dặm... Văn học dân gian đã mang đến cho đời
sống nhân dân một âm hưởng mới, tư tưởng xây dựng một nền văn hóa riêng cho
q hương của mình, tạo nên đặc sản của địa phương mình. Vậy nên mỗi miền quê
đều mang một bản sắc riêng. Chẳng hạn Phía Bắc nổi tiếng với hát quan họ, hát giao
duyên,.. Thanh Nghệ Tĩnh đặc sản của những làn điệu dân ca ví dặm, ca trù,...Qua
Thừa Thiên Huế chúng ta cảm nhận được hương vị của những làn điệu Huế hòa
quyện trên dịng chảy của dịng sơng Hương,...Về Miền Tây lại đắm say trong
những câu vọng cổ, những câu hò, điệu lý,...Qua các câu chuyện những tác phẩm
như Trê Cóc, Trang Quỳnh, Trạng Lợn,... nhân dân đã thể hiên sự châm biếm, phê

phán, hay là những tố cáo đến một số nhân vật, từ đó mươn thơ văn, người dân đã
nói lên tâm tư suy nghĩ của mình.
1.2. Nạn thổ phỉ dưới triều Nguyễn (1802-1883)
1.2.1. Khái niệm thổ phỉ
Chúng ta nghe rất nhiều về cụm từ “thổ phỉ” nhưng lại ít người có thể hiểu
một cách đầy đủ về khái niệm này. Có rất nhiều định nghĩa về thổ phỉ, tuy nhiên
chung quy lại nó đều mang một nội dung. Trong Từ điển Việt – Việt, khái niệm “thổ
phỉ” được diễn giải là “bọn giặc chuyên quấy phá tại địa phương mình”[27, tr.2].
Chúng là những người đến từ nhiều nơi, khơng quen biết nhau và hoạt động theo
nhóm, theo đồn, lực lượng rất mạnh. Đám thổ phỉ này tuyệt đối không đơn giản.
Chúng khơng những người đơng thế mạnh mà cịn tác chiến dũng mãnh, thông tin

21


nhanh nhạy, mỗi khi quan binh xuất kích nếu khơng vơ ích thì cũng bị mai phục.
Hiếm khi nào có đủ điều kiện để triển khai tác chiến tiêu diệu chúng.
Tựa như những con người sống “mai danh ẩn tích” chúng sống theo từng tốn
và khơng cố định nơi ở, lang thang phiêu bạt giang hồ, gặp chỗ nào dân chúng hiền
lành, thì họ lại lên tiếng bắt bớ, thậm chí chém giết cướp của cải mang đi. Đặc biệt
nơi có binh lính hay triều đình thì chúng ít xuất hiện, và nếu có xuất hiện chúng
cũng cải trang thành dân thường, trà trộn vào nhân dân, thậm chí vào Cung tẩm.
Có ý kiến cũng cho rằng: “Thổ phỉ là lũ trộm cướp, chuyên gây án tại một
vùng (ám chỉ là những nơi hẻo lánh). Chúng là một nhóm cơn đồ manh động nhưng
khơng có tổ chức quy củ. Chúng có ở những nơi luật pháp lỏng lẻo, chính quyền bất
lực trong việc trấn áp nhóm tội phạm đó. Trong thời phong kiến nó cịn được gọi là
bọn giặc cỏ. Ngày nay khái niệm đó khơng cịn được dùng nữa, có lẽ vì xã hội mỗi
thời kì mỗi khác. Nó chỉ xuất hiện trong một số tác phẩm văn học, sách báo cũ
thôi”[27, tr.1].
1.2.2. Thành phần xuất thân của thổ phỉ

* Họ xuất thân là những người từng làm quan hoặc giả danh đạo sĩ, lừa bịp
mê hoặc dân chúng.
Sử triều Nguyễn còn ghi chép, năm Minh Mệnh thứ 15, khi vua đặt ra phủ Lạc
Hóa thống trị hai huyện Trà Vinh và Tân Nghĩa, lúc này dồn các binh lính làm cơ
Long Nhuệ. Lúc trước với lối dùng thổ quan triều đình càng thêm rối loạn, khơng
đem lại hiệu quả cao, nay vua đã thay bằng hình thức lưu quan và lấy người thổ
trước để coi quản. Năm 1834, thành Trấn Tây có việc binh biến, đất Ba Xuyên rối
loạn, điều kiện để thổ phỉ hoành hành, bạo loạn: “Đến đây, thành Trấn Tây có việc
binh biến, đất Ba Xuyên rối loạn, có thổ mục là Lâm Sâm nguyên là quan lục phẩm
của Cao Miên, trốn đến ở phủ Lạc Hóa, đem tà thuật để mê hoặc dân chúng. Mình
mặc áo đạo sĩ, tay cầm phớn tà thuật, tự nói là có thể làm phép để Sâm chiêu tập
các thổ mục hai huyện tụ họp ở Trà Cú. Chúng suy tôn Sâm làm thủ lĩnh, mưu lập
con cháu vua Cao Miên. Đảng khỏa đến và nghìn người đánh phá phủ lỵ”[13,
tr.118]. Hay như ở Ơ Mơn bọn thổ phỉ đội lốt quan qn triều đình đó là Quản cơ
Trần Đức Tế và Tô Văn Hương ra sức ức hiếp, bóc lột và vơ vét của cải của dân
chúng, khiến cho cuộc sống của dân chúng càng nghèo lại thêm túng thiếu.

22


Ngự sử Phan Văn Xưởng đã tâu rằng: “Mới về, bọn thổ phỉ ở Ơ Mơn làm
loạn, dân ở đấy bỏ đi nơi khác, thế mà Quản cơ Trần Đức Tế và đội trưởng Tô Văn
Hương do tỉnh phái đến đóng để phịng giữ, mượn cớ bới việc, hoặc lấy khơng
thuyền của dân, hoặc thu riêng thóc gạo” [13, tr.126] đó chẳng phải việc làm vơ cớ
mục đích bắt ép dân chúng cung phụng cho họ những của cải mồ hôi nước mắt hay
sao? Trong khi chúng lại là những người được cử đến để giữ an cho dân, đem đến
cho dân chúng cuộc sống an toàn, ấm no. Vậy mà chẳng những dân khơng được bảo
vệ ngược lại cịn phải cống nộp hàng tháng cho họ những sản vật, nộp thóc gạo vơ
cớ, bị cướp thuyền,...
Tại An Giang, tên thổ phỉ là Hòe Ất (nguyên trước làm Huyện úy ở Phong

Phú) làm phản, chúng kéo theo bang phái tổng thể gần 1.000 người quấy rối tại
vùng đất này.
Nam Bộ sông nước luôn là nơi sản sinh ra nhiều bậc nhân tài, anh hùng võ
kiệt, nhưng cũng là nơi xuất hiện nhiều vị quan thần nổi loạn chống lại triều đình,
cụ thể ở tỉnh Hà Tiên có Quản cơ Nha Tiên, Huyện úy huyện Khai Biên là Biên Kế:
“ Tụ họp thổ binh, thổ dân, hơn 2000 người, giữ trạm Quảng Trường, huyện Vĩnh
Tường làm phản, đánh hãm đồn cửa biển ở bên tả phủ lỵ. Binh ở đồn ấy ít và yếu
khó chống nổi đều chạy đến phủ Tĩnh Biên.” [12, tr.787]. Bọn thổ phỉ ở Huyện
Thượng Phong có hơn 300 tên kết hợp với bọn giặc ở Khai Biên, Quảng Biên làm
một tụi cứu viện hỗ trợ cho nhau lấn qua huyện Hà Âm xua đuổi bắt hiếp thổ dân
nơi đây. Như vậy triều đình khơng chỉ đối phó với bọn giặc phỉ mà cịn phải chống
chọi lại với số quan quân nôi lên làm phản chống lại triều đình. Đây là một vấn đề
khó khăn đặt ra cho triều Nguyễn lúc bấy giờ, và yêu cầu phải có những biện pháp
cụ thể để giải quyết.
*Họ xuất thân là những kẻ côn đồ, cướp giật lâu năm.
Nguyên nhân do sự bần cùng, túng thiếu nên một bộ phận người bất chấp biến
mình thành thổ phỉ. Khi nhắc đến thổ phỉ chúng ta chỉ có thể nghĩ tới những tên
cướp của, những kẻ đánh đập người vô tội để lấy tài sản, để phá hoại cuộc sống của
người dân thậm chí đánh phá phủ lị, trấn, thành,...mục đích phá hoại tài sản quốc
gia.
Như chúng ta đã biết, dưới triều Nguyễn đời sống nhân dân cực khổ bởi nhiều
tầng lớp áp bức, đè nén, bóc lột trên mọi mặt, phải cống hiến từng chút sức lực. Nên

23


miếng cơm manh áo của nhân dân đôi khi đếm trên từng ngón tay, dẫn đến việc
thiếu ăn thiếu mặc, kẻ cướp hồnh hành càng nhiều, gồm có cướp nhà dân, cướp
làng xóm, thậm chí cướp kho của triều đình.
Như thảm cảnh thời Gia Long, một giáo sĩ người Pháp đã nhận định: “Gia

Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách. Sự bất công và lộng hành làm cho
người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn: thuế khóa và lao dịch thì tăng lên gấp ba”
[2, tr.452]. Sự bất cơng về cách đối xử, hay sự bóc lột về sức người và sức của đã
khiến một bộ phận không thể chịu nổi cảnh đọa đày, một là vùng lên đấu tranh và
hai là cướp giật của dân lành.
Trong bài “ Tố khuất khúc” của Sơn Nam Hạ có câu:
“Binh tài hai việc đã xong
Lại cịn lực dịch thổ cơng bây giờ
...Một năm ba bận cơng trình
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao”
Hay thời Tự Đức có bài vè tố cáo rằng:
“Bắt dân đào kênh
..Đo đất đếm người
Một suất dinh hai thước
Bắt đào cho được
Hạn trong mười ngày
Cai phó tổng, cai thầy
Khất xin đào một tháng
Dân tình ngao ngán
Có thể trốn khơng đi
...vợ con thêm nheo nhóc
Chồng lại phải phu phen
Muốn vạch cả trời lên
Kêu gào cho hả dạ...”
[2, tr.453]
Như vậy chúng ta thấy được từ tình hình đất nước như vậy, cướp giật trong xã
hội lan tràn nhiều và từ đó lâu dần chúng lập thành bang phái hoặc các nhóm, hoạt
động mạnh lên và chúng ta vẫn thường gọi họ với cái tên “thổ phỉ” quen thuộc.

24



1.2.3. Địa bàn hoạt động của thổ phỉ
Qua bốn triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức chúng ta đều nhận
ra một điểm chung đó là ở thời kì nào thổ phỉ cũng hoạt động tại những địa điểm
quen thuộc, cụ thể:
*Chúng chủ yếu hoạt động ở những nhánh sơng nhỏ, nơi có địa bàn thuận lợi
trong việc ẩn nấp và tẩu thốt nhanh chóng. Vào thời Gia Long, bọn phỉ làm loạn
chủ yếu tại vùng núi phía Bắc, cụ thể tại tỉnh Hưng Hoá, bao gồm bọn phạm trốn
như các tên phỉ Bột, phỉ Giám, phỉ Đẫn ẩn nấp tại các thung lũng của những con
đồi, sống dựa vào các thổ dân. Bởi vậy, tại Ninh Bình, Hà Nội đã có biền binh ba
tỉnh đến đóng giữ và chia nhau vây đánh: “Kể đã nhiều lần, mà đia hạt Ninh Bình
lại có thêm biền binh Thanh Nghệ đến đóng giữ từ trước, binh uy hẳn thêm mạnh[1,
tr.180]. Với địa bàn là các con sơng, ngọn đồi thì bọn phỉ ln có cách để tẩu thốt
nhanh chóng, tuy nhiên lực lượng triều đình đã bao vây chặt chẽ những khu vực mà
chỉ dụ nhà vua đã ban bố, cũng như q trình thăm dị của các tướng qn.
Phổ biến nhất là tại các vùng hạ lưu sông ở miền Tây, và khu vực Tây Nam
Bộ, cụ thể ở tỉnh An Giang “ tên thổ phỉ là Hòe Ất (nguyên trước làm Huyện úy ở
Phong Phú) làm phản, kết đồ đảng đến hơn 1.000 người, rủ nhau họp ở sơng Chánh
Ơ Mơn tỉnh An Giang” [13, tr.118]
Có thể nói rằng, vị trí các con sơng mà bọn thổ phỉ lựa chọn để đóng qn
ln ln làm kế cố thủ và qn triều đình khó có thể tìm được như ven bờ đất Sơn
Tĩnh, đất Nam Thái, đường rừng nhiêu lối, địa thế rộng xa. “Bọn Tiến Lâm và Công
Trứ lại cùng với Kinh lược sứ đại thần Phạm Văn Điển, và Tá lý cơ vụ Đinh Văn
Huy tiếp tục dâng sớ nói về tình hình biên giới ở Trấn Tây, đại lược. Trước đây, đã
gửi thư cho bọn đầu mục nước Xiêm, đại ý về việc hòa hay đánh, nhưng vì thể thống
của nước, mưu kế việc binh, rất là quan trọng, mà sự thế ở nơi biên cương, sớm
chiều biến đổi một khác. Hiện nay, bọn thổ phỉ chỗ nào cũng đóng đồn liên kết, dựa
chỗ hiểm đóng quân chống lại, làm kế cố thủ. Từ trước đến nay, ta chỉ đánh phá
được ở nơi ven sông và những chỗ tiếp cận đồn, bảo của địch mà thôi ; cịn chỗ sào

huyệt chứa để của chúng thì ta chưa từng đến được, như: đạo quân Định – Biên
chưa thể qua được đất Nam Thái; đạo quân Long – Tường cũng chỉ đi lùng bắt theo
ven bờ ở đất Sơn Tĩnh, rồi lại đem quân về; đạo binh thành hạt Mỹ Lâm cũng chỉ từ
phủ Hải Tây về phủ Hải Đông; đạo binh Kinh lược cũng chỉ đi về những chỗ tiếp

25


×