Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

24231 16122020235238279bnhonthinkhalungiangminhchnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 61 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1883

Sinh viên thực hiện
Chuyên ngành
Lớp
Ngƣời hƣớng dẫn

: Giang Thị Minh Chính
: Sƣ phạm Lịch sử
: 15sls
: TS. Trƣơng Anh Thuận

Đà Nẵng 01/ 2019


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trong
Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, đã trang bị cho chúng
em những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy Trương Anh Thuận, một người
thầy, một người bạn nhiệt tình hướng dẫn cũng như trang bị nhiều kĩ năng q báu


cho chúng em trong suốt q trình làm khóa luận của mình.
Chúng em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ban quản lý thư viện Tổng hợp Đà
Nẵng, thư viện trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, phòng học liệu Khoa Lịch sử và
sự giúp đỡ nhiệt tình từ các bạn bè đã tạo điều kiện cho chúng em tìm kiếm tư liệu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong phạm vi giới hạn của đề tài cũng như
kiến thức bản thân cịn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng em rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cơ, các bạn để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó!

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019
Sinh viên
Giang Thị Minh Chính


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................... 3
4.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 3
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................ 4
7. Bố cục của đề tài ..................................................................................................... 5
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 6
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 1883)................................................................................................................................ 6

1.1 Khái quát tình hình Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802 - 1883) ........................ 6
1.1.1. Chính trị ............................................................................................................. 6
1.1.2. Kinh tế .............................................................................................................. 11
1.1.3 Văn hóa ............................................................................................................. 15
1.1.4. Xã hội ............................................................................................................... 18
1.2. Khái quát hoạt động khai thác khoáng sản trước triều Nguyễn (1009-1802) ... 21
Chương 2: TRIỀU NGUYỄN VỚI HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢNGIAI
ĐOẠN 1802- 1883 ........................................................................................................ 27
2.1. Các hình thức khai thác chủ yếu ........................................................................ 27
2.1.1. Do nhà nước quản lý ........................................................................................ 27
2.1.2. Do tư nhân người Việt tổ chức khai thác ......................................................... 29
2.1.3. Do thương nhân Hoa kiều khai thác ................................................................ 31
2.1.4. Do các tù trưởng người dân tộc thiểu số khai thác .......................................... 32
2.1.5. Do nhân dân tự đứng ra tổ chức khai thác ....................................................... 33
2.2. Kỹ thuật khai thác khoáng sản dưới triều Nguyễn (1802-1883) ........................ 33
2.2.1 Kỹ thuật khai thác mỏ do nhà nước quản lý ..................................................... 33


2.2.2. Kỹ thuật khai thác mỏ do tư nhân quản lí ...................................................... 34
2.3. Chế độ thưởng phạt trong khai thác khoáng sản của triều Nguyễn ................... 35
2.3.1. Vấn đề khen thưởng ........................................................................................ 35
2.3.2. Vấn đề trách phạt ............................................................................................ 38
2.4. Quy định về thuế ................................................................................................ 39
2.5. Thành quả đạt được trong q trình khai thác khống sản giai đoạn 1802 - 1883
46
2.6. Đánh giá hoạt động khai thác khoáng sản dưới triều Nguyễn .......................... 48
2.6.1. Tích cực .......................................................................................................... 48

2.6.2. Hạn chế……………………………………………………………………..49
2.7. Một số bài học kinh nghiệm cho vấn đề khai thác khoáng sản hiện nay .......... 51

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 54


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam.
Ra đời trong bối cảnh đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua nhiều biến cố trong suốt thời
gian tồn tại, mang nhiều thị phi như cầu viện ngoại bang, làm mất nước vào tay Pháp,
nhưng không thể phủ nhận rằng nhà nguyễn củng có nhiều cơng lao trong việc thống
nhất đất nước mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Trong suốt thời gian trị vì của
mình, các vua nhà Nguyễn đã đưa ra hàng loạt các chính sách để phát triển kinh tế, văn
hóa, giáo dục. Trong đó các vua Nguyễn cũng đặc biệt chú ý đến việc khai thác
khống sản. Đến thời nhà Nguyễn, chính sách khai thác và chế biến các loại khống
sản có sự thay đổi so với giai đoạn trước. Điểm nhấn nổi bật là nhà Nguyễn đã biết tận
dụng các nguồn tài nguyên sẵn có để tiếp tục phát triển, mở rộng. Trên cơ sở đó đã tạo
ra một thời kì “thai nghén” mới cho nền cơng nghiệp khai khống của dân tộc.
Từ trước đến này, việc nghiên cứu về triều Nguyễn đã được tiến hành trên nhiều
lĩnh vực, trong đó lĩnh vực kinh tế đã thu hút khơng ít sự quan tâm của giới học giả.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào việc nghiên cứu các chính sách khai thác khống sản của
triều Nguyễn, thì cho đến hiện tại, vẫn chưa có bất kì cơng trình nghiên cứu hồn
chỉnh nào. Điều đó ở một mức độ nhất định đã ảnh hưởng đến tính tồn diện và khách
quan trong q trình đánh giá vai trò triều Nguyễn đối với lịch sử dân tộc. Trong khi
đó, bản thân chính sách khai thác khống sản của triều Nguyễn trong giai đoạn 1802 1883 lại là một đề tài khoa học hết sức hấp dẫn. Việc làm rõ cơ sở đề ra chính sách
trên, những chủ trương cụ thể được thể hiện bằng các văn bản hành chính đương thời
của triều Nguyễn, hình thức và kĩ thuật cũng như những thành quả đạt được trong quá
trình khai thác..., tất cả những vấn đề trên đã thực sự có một sức hút đặc biệt và mang
lại cho tơi một niềm cảm hứng nghiên cứu sâu sắc.
Trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang đối mặt với nguy cơ cạn kiệt các loại tài

ngun khống sản do tình trạng khai thác q mức. Điều đó địi hỏi chúng ta phải có
một chính sách đúng đắn và phù hợp để vừa có thể giúp cho hoạt động khai thác đạt

1


được hiệu quả kinh tế cao, tránh lãng phí tài nguyên khoáng sản của quốc gia, nhưng
mặt khác cũng phải có những chính sách hữu hiệu để bảo vệ các nguồn tài ngun
khống sản. Vì vậy, việc nghiên khống sảnkhơng chỉ có ý nghĩa trên phương diện học
thuật mà cịn tạo ra một cơ sở khoa học vững chắc để lãnh đạo chính quyền các cấp
nhìn từ góc độ lịch sử, lĩnh hội và vận dụng các bài học kinh nghiệm do tiền nhân để
lại trong quá trình hoạch định chính sách phù hợp và đúng đắn trong việc thăm dị,
khai thác, sử dụng các tài ngun khống sản của đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên, thêm vào đó với niềm đam mê nghiên cứu tìm tịi
của mình về lịch sử của một triều đại dân tộc, tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Hoạt
động khai thác khoáng sản dưới triều Nguyễn (1802 – 1883)” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay, triều Nguyễn vẫn luôn là một đề tài lớn thu hút sự quan tâm của
giới nghiên cứu trong và ngồi nước. Vì vậy, số lượng cơng trình khoa học khảo cứu
về vương triều này trên một số lĩnh vực như chính trị, xã hội, văn hóa, quân sự... là
tương đối phong phú.Tuy nhiên, vì là một vấn đề nhỏ nằm trong mãng kinh tế Việt
Nam dưới triều Nguyễn, nên cho đến nay xoay quanh việc nghiên cứu chính sách khai
thác khống sản của triều Nguyễn thì vẫn còn nhiều khoảng trống.Các tài liệu sách báo
nghiên cứu về vấn đề này được cơng bố vẫn rất ít. Thời gian gần đây, một vài tác giả
cũng đã bắt đầu tìm hiểu vấn đề này, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu khá hẹp, chưa
khảo cứu một cách toàn diện chính sách khai thác khống sản triều Nguyễn. Tiêu biểu
cho hướng nghiên cứu này là cơng trình “Chính sách khai thác mỏ đồng dưới triều
Nguyễn” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung. Tuy nhiên cơng trình này chỉ đề cập
đến vấn đề khai thác mỏ đồng dưới triều Nguyễn còn những loại mỏ khác vẫn chưa

được quan tâm tìm hiểu. Hay như cơng trình luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Xuân
Thanh “Hoạt động khai thác mỏ của người Hoa ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam từ cuối thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XX” cũng chỉ đề cập đến hoạt động khai thác
khoáng sản của người Hoa chứ khơng đề cập đến một cách tồn diện hoạt động khai
thác khoáng sản dưới triều Nguyễn, với sự tham gia của nhiều lực lượng khác nhau.

2


Và nó cũng chỉ đề cập đến vấn đề khai thác khống sản ở phía Bắc Việt Nam cịn ở
miền Trung và miền Nam vẫn chưa được tìm hiểu. Nhìn chung những cơng trình này
chỉ mới khai thác một khía cạnh của vấn đề khai tháckhoáng sản dưới triều Nguyễn
chứ chưa tìm hiểu tồn diện về vấn đề này. Chính vì số lượng cơng trình nghiên cứu về
vần đề này cịn rất ít nên nguồn tư liệu để tơi tìm hiểu vấn đề này là tương đối hạn chế.
Tuy nhiên, một điều thuận lợi là các tư liệu liên quan đến chính sách khai thác
khống sản của triều Nguyễn ít nhiều vẫn được ghi chép trong các bộ sử lớn của
vương triều này như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.... Với
thành quả nghiên cứu về vấn đề này tương đối khiêm tốn như hiện nay, thì đây là một
nguồn tư liệu gốc vơ cùng q giá giúp tơi có thể tiếp tục theo đuổi việc nghiên cứu đề
tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài này, tôi tập trung nghiên cứucác hoạt động khai thác khoáng sản dưới
triều Nguyễn như: các hình thức khai thác, kỹ thuật khai thác, các quy định về thuế
hay cách xét thành tích cũng như sản lượng khống sản khai thác được dưới triều
Nguyễn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các hoạt động khai thác khoáng sản dưới triều
Nguyễn (1802 – 1883).
- Về khơng gian: bao gồm tồn bộ lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Bắc đến Nam.

- Về thời gian: từ năm 1802 đến năm 1883, trải qua bốn triều vua Gia Long, Minh
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tơi lựa chọn nghiên cứu đề tài này nhằm khơi phục lại một cách chân xác nhất có
thể hoạt động khai thác khoáng sản dưới triều Nguyễn(1802 – 1883), từ đó, hi vọng sẽ
giúp lãnh đạo chính quyền đứng từ phương diện lịch sử để đánh giá và hoạch định

3


được chính sách đúng đắn, phù hợp trong việc thăm dò, khai thác, sử dụng và bảo vệ
nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước ở hiện tại và tương lai.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra ở trên, tác giả phải đảm bảo việc khảo cứu
sâu sắc và hoàn chỉnh một số nội dung trọng tâm sau:
Thứ nhất, trên cơ sở các nguồn tư liệu tập hợp được, tác giả luận văn khái qt tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dưới triều Nguyễn (1802 - 1883), đồng thời làm
rõ hoạt động khai thác khống sản của các chính quyền qn chủ trước thế kỉ XIX.
Thứ hai, phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu tư liệu để tái hiện lại một cách
tương đối hồn chỉnh hoạt động khai thác khống sản dưới triều Nguyễn (1802 –
1883) trên một số phương diện như chủ trương thăm dò khai thác của triều đình, hình
thức, kĩ thuật khai thác, việc đánh thuế…. cũng như những thành quả đạt được trong
việc khai thác khoáng sản thời gian này.
Thứ ba, dựa trên toàn bộ nội dung hoạt động khai thác khoáng sản dưới triều
Nguyễn được phục dựng ở trên, tác giả tiến hành đánh giá điểm tích cực và hạn chế
của hoạt động này, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho việc thăm dị, khai
thác, sử dụng tài ngun khống sản của nước ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ đạo của sử

học là phương pháp lịch sử và phương pháp lơgic.Ngồi ra, tơi cịn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống và các
phương pháp liên chuyên ngành khác.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài “Hoạt động khai thác khoáng sản dưới triều Nguyễn (1802 -1883)” được
nghiên cứu hồn thành sẽ có một số đóng góp sau:
Thứ nhất, “phục dựng” tương đối hoàn chỉnh toàn bộ hoạt động khai thác khoáng
sản dưới bốn triều vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, từ đó, cung cấp, bổ
sung thêm một nguồn tư liệu nữa, giúp việc nghiên cứu kinh tế Việt Nam ở thế kỉ XIX
cũng như đánh giá triều Nguyễn thêm toàn diện và khách quan hơn.

4


Thứ hai, cơng trình được hồn thành sẽ là một tài liệu nghiên cứu chuyên sâu có
giá trị tham khảo cao, phục vụ cho công việc giảng dạy, nghiên cứu, học tập lịch sử
Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng của giảng viên các trường đại học cao
đẳng cũng như sinh viên khoa học xã hội nhân văn, đặc biêt là sinh viên chuyên ngành
lịch sử.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được cấu trúc
thành 2 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn (1802 - 1883)
Chƣơng 2: Triều Nguyễn với hoạt động khai thác khoáng sản giai đoạn
1802- 1883

5


NỘI DUNG


Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆT NAM DƢỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802 - 1883)

1.1 Khái quát tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn (1802 - 1883)
1.1.1. Chính trị
Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng
Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh tự đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà
Nguyễn. Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long ( 1802 – 1819), Minh Mạng (1820 –
1840) đến Thiệu Trị (1841 – 1847), Tự Đức (1848 – 1883) kế tiếp nhau xây dựng
và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng, suy
vong.
Về tổ chức bộ máy nhà nước:Sau khi lập ra triều Nguyễn, Gia Long đã xây
dựng, kiện tồn hệ thống hành chính cũng như quan chế cho chính quyền mới. Về
cơ bản hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương của triều đại này giống
như các triều đại trước đó: Vua vẫn có quyền tối thượng. Hai cơ quan làm tham
mưu đắc lực và trực tiếp cho Hoàng đế là Tam nội viện, sau đổi làm Văn thư phòng
rồi Nội các, gọi chung là Văn phòng Trung ương.Các cơ quan này chuyên phụ trách
về giấy tờ, văn thư và ghi chép. Tứ trụ Đại thần (bốn vị Đại điện học sĩ), đảm đương
những việc quân cơ đại sự, tới năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó cịn có
Tơng nhân phủ lãnh nhiệm các cơng việc của Hồng tộc [3,tr. 102].
Bên dưới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng. “Mỗi Bộ có
Văn phịng Bộ với hai cơ quan Ấn ty và Trực ty. Ấn ty phụ trách Cơ quan Bộ và
Trực ty tiếp nhận công văn các địa phương” [3, tr. 115]. Thượng thư đứng đầu mỗi
bộ, có vai trị chỉ đạo các cơng việc chung của Nhà nước. Bên cạnh đó có Đô sát
viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng trách thanh tra quan lại, Hàn
lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ

6



trơng coi các kho tàng, Quốc tử giám quản lí mảng giáo dục, Thái y viện thực hiện
việc chữa bệnh và thuốc thang,… cùng với một số Ti và Cục khác[3, tr. 117].
Để đề cao hơn nữa quyền lực của nhà vua, Gia Long đặt lệ “tứ bất" (nhưng
không ghi thành văn bản), tức là: không đặt tể tướng, không lập hồng hậu, khơng
lấy trạng ngun trong thi cử, khơng phong tước vương cho người ngoài họ vua.
Các chức tam Thái, tam Thiếu trở thành vinh hàm gia phong cho các đại thần.
Đế quyền triều Nguyễn đạt đến sự tuyệt đối của quyền lực. Tuy nhiên, các vua
triều Nguyễn cũng tự giới hạn mình trong sự điều tiết của “mối quan hệ Thiên – Địa
- Nhân của học thuyết chính trị phương Đơng” [3, tr. 107].Khi có việc quan
trọng, vua sẽ giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm như thế
nào đều được quyền đưa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự phê chuẩn của vua mới
được thi hành. Hồng đế tuy ở ngơi vị cao nhất nhưng không được phép làm điều
sai trái. Các quan Giám sát Ngự sử có quyền can gián khi vua mắc phải sai lầm[3,
tr. 142].
Quan lại trong triều thì được phân ra ban văn, ban võ. Minh Mạng đã xác định
rõ rệt quan chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và
tòng 2 bậc. Lúc đất nước ổn định quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình;
cịn khi có binh biến thì ngược lại. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy
quân lính của tỉnh. Lương bổng của quan lại tương đối ít nhưng họ được hưởng
nhiều phúc lợi, phụ thân khơng phải đi lính, miễn sưu thuế dựa theo ngạch (văn, võ)
và phẩm hàm. Không những vậy, con cái các quan còn được hưởng tập ấm, tức là
hưởng phúc cha ơng để lại, có thể là được ban đất đai, chức quan. Bộ máy quan lại
không quá nặng nề, nhưng nhà Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng.
Bộ máy chính quyền tại địa phương cũng được nhà Nguyễn xây dựng chặt chẽ.
Lúc mới lên ngôi, Gia Long kế thừa đơn vị hành chính và tên gọi của chúa Nguyễn
ở Đàng Trong, Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài. “Chia nước ra làm 23 trấn, 4 dinh. Bốn
dinh cho đất trực lệ kinh kì ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam.
Dinh (doanh) là tên gọi đơn vị hành chính trực thuộc trung ương thời chúa Nguyễn.
Bắc thành có 11 trấn là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải


7


Dương, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên.
Trấn là đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền trung ương thời Lê – Trịnh. Gia
Định thành có 5 trấn là Phiên An, Biên Hịa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.
Trực thuộc triều đình trung ương ngồi 4 dinh cịn có 7 trấn ở miền Trung là Thanh
Hóa, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú n, Bình Khương và Bình Thuận”[3,
tr. 145-146]. Đứng đầu mỗi thành là một Tổng trấn, đứng đầu mỗi trấn là trấn thủ,
đứng đầu mỗi dinh là lưu thủ.
Đến thời Minh Mạng, một cuộc cải cách hành chính tại địa phương đã được tiến
hành(1831- 1832). Ông cho quy đổi các tổng trấn, các dinh, trấn hợp nhất trong đơn
vị tỉnh. Đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng cịn lại ở phía Nam
được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, thủ phủ của kinh đô Phú Xuân, trực thuộc
Trung ương. Toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên [3, tr. 150].
Tổng đốc đứng đầu liên tỉnh (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1
tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ trợ như
Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật
pháp, còn lãnh binh đảm đương mặt quân sự. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do
chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp, về sau
mới bổ dụng thêm các quan văn.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra
tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản trị. Tổng gồm
có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các
làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Hệ thống chính quyền có xu hướng giảm bớt quyền lực ở địa phương, tập trung
ở Trung ương, cùng với cơ cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt
chẽ để triều đình dễ dàng quản lý và có đối sách kịp thời khi có sự cố.
Đối với miền núi và địa bàn sinh sống của những tộc người thiểu số, Minh Mạng

thực hiện nhất thể hóa hành chính đồng loạt với miền xi. Năm 1829, ơng bãi bỏ
chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc thiểu số), để quan lại lựa
chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu huyện. Sau đó, Minh Mạng

8


còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này
tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của người
dân địa phương, vua Tự Đức đã bãi bỏ chế độ này.
Về luật pháp:Thuở mới khai quốc, vua Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan
tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất.
Năm 1811, Gia Long lệnh cho tổng trấn Bắc Thành – Nguyễn Văn Thành chủ trì
biên soạn một bộ luật mới. Đến năm 1815,bộ luật mới được ban hành, mang
tên Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là luật Gia Long). Bộ luật này gồm 398 điều,
chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm22 cuốn, được in phát ra khắp
mọi nơi [33, tr. 442]. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành dựa trên việc tham
khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh, nhưng trên thực tế là chép luật của nhà
Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều. Chương “Hình luật” chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều,
trong khi những chương khác như “Hộ luật” chỉ có 66 điều cịn “Cơng luật” chỉ có
10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản
nghịch, tội tuyên truyền “yêu ngôn, yêu thư” và tệ tham nhũng. Những vị vua sau
này đã chỉnh sửa và cải tiến luật Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mạng, những hạn
chế của luật Gia Long được sữa chữa ít nhiều, tuy nhiên nó vẫn là bộ luật chính
thống được thực hiện hầu như suốt thời Nguyễn.
Về quân đội:Một trong những thành quả mà vua Gia Long đạt được sau nhiều
năm nội chiến với Tây Sơn là có một quân đội tương đối mạnh được xây dựng theo
hơi hướng phương Tây. Sau khi làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn cho xây
dựng quân đội chính quy hơn, hoàn thiện hơn.Quân đội nhà Nguyễn được tổ chức
thành 5 cấp, cấp cao nhất là cấp Doanh, thấp nhất là cấp Ngũ. Doanh có 5 vệ đứng

đầu là Đơ thống, vệ có 10 đội đứng đầu là Vệ úy, đội có 5 thập đứng đầu là Cai đội,
Thập có 2 ngũ, đứng đầu là Thập trưởng, cuối cùng là đến cấp Ngũ, được biên chế 5
người, do Ngũ trưởng chỉ huy [35, tr.30]. Quân lính được chia thành các binh
chủng: bộ binh, thủy binh, tượng binh, pháo binh. Nhưng trên thực tế “chỉ có bộ
binh và thủy binh mới được coi là binh chủng đúng với ý nghĩa của nó. Nhà Nguyễn
đã dồn cả tài sức để xây dựng hai binh chủng này trở thành hai binh chủng mạnh”

9


[7, tr.46].Lực lượng qn đội chính quy thì được chia thành hai bộ phận là vệ binh
và cơ binh. Vệ binh là lực lượng quân đội thường trực đóng tại kinh đơ, có nhiệm
vụ chính là bảo vệ kinh thành Huế và hoàng tộc. Lực lượng này lại được phân thành
3 loại: Thân binh, Cấm binh, Tinh binh. Cơ binh là lực lượng quân đội đóng giữ các
trấn, tỉnh, phủ, huyện... thuộc quyền quản lí của từng địa phương. Ngồi ra cịn có
lực lượng lính trạm (phục vụ trong các dịch trạm lo việc chuyển phát công văn giấy
tờ) và lính lệ (lính để hầu hạ và sai phái của các quan lại ở phủ, huyện), phân bố
rộng khắp cả nước. Về số lượng, đội quân thường trực của nhà Nguyễn khá đông.
Theo Đại Nam thực lục, số quân vào cuối thời Gia Long (1820) là hơn 204.220
người đến cuối đời Minh Mệnh (1840) đã tăng 212.090 người [33, tr. 443]. Theo
ước tính số quân các loại là 4 vạn bộ binh bảo vệ Triều đình Trung ương, 15.000
thủy binh và 10 vạn biền binh. Ngồi ra cịn có một đạo tượng binh mạnh (riêng ở
kinh thành có 105 thớt voi với 500 qn, Bình Định có 15 thớt voi với 223 quân…)
và một lực lượng pháo binh lớn (các thành, tỉnh đều có đại bác: Hà Nội 150 cỗ,
Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh đều có 200 cỗ v.v… các thành phủ,
huyện cũng đặt đại bác…), cùng với đó có thêm một số quân dùng súng cầm tay[33,
tr. 443].Vũ khí tuy chưa đạt trình độ kỹ thuật cao, cịn các loại vũ khí cổ truyền như
gươm, giáo, cung tên, súng hỏa mai, song cũng có nhiếu cải tiến, nhất là tàu thuyền
và đại bác. Các loại súng thần cơng, đại bác được đúc với kích thước, trọng lượng
thống nhất; thành luỹ, đồn to, nhỏ cũng được quy định cho từng cấp với số lượng

quân nhất định.Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện phép giản
binh, theo hộ tịch tuỳ nơi mà định, theo đó cứ 3, 5 hay 7 suất đinh thì tuyển 1 người
lính. Để làm cho binh lính gắn bó với triều đình, triều Nguyễn đã đặt chế độ ruộng
lương rất hậu, cấp 7 sào đến 1 mẫu cho mỗi binh lính, ngoài ra họ vẫn được hưởng
một số ruộng quân cấp khá lớn [36, tr. 34].
Sang thời Tự Đức, công tác quốc phịng bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Một
ngun nhân quan trọng là vấn đề tài chính. Bộ binh được trang bị thơ sơ: 50 người
mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Chất lượng bảo trì vũ khí cũng
kém[7, tr.46]. Về thuỷ binh, khơng có thêm tàu hơi nước mới nào, thuỷ quân yếu ớt

10


đến mức không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Đời sống qn lính
khơng được quan tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Bởi vậy nhuệ khí của
quân sĩ suy giảm. Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề
vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc giảng dạy binh pháp
không hướng tới học hỏi phương Tây nữa mà quay về Binh thư yếu lược của Hưng
Đạo Đại vương. Chính vì Pháp bỏ xa Đại Nam về khoảng cách vũ khí tân tiến, quân
đội thiện chiến, nên nhà Nguyễn dần dà trở nên sợ hãi.
Như vậy, ta có thể thấy quân đội dưới thời nhà Nguyễn trong giai đoạn từ 1802 1883 được tổ chức khá chặt chẽ với số lượng binh lính rất đơng và tinh nhuệ. Nhà
nguyễn đã chăm lo xây dựng quân đội, củng cố quốc phịng, chú trọng rèn đúc,
trang bị vũ khí, làm cho qn đội khơng phải suy yếu mà có thể liệt vào loại mạnh
trong khu vực. Đặc biệt dưới thời Minh Mạng quân đội triều Nguyễn có thể coi là
lực lượng quân sự tân tiến hiện đại nhất ở khu vực Đông Á, hơn hẳn các nước lân
bang như Trung Hoa, Thái Lan, Campuchia. Tuy nhiên do sự không bắt kịp thành
tựu khoa học phương Tây và chế độ đại ngộ binh lính hà khắc dưới thời Tự Đức đã
làm cho quân đội nhà Nguyễn suy yếu dần và mất khả năng chiến đấu trước quân
Pháp
1.1.2. Kinh tế

Nông nghiệp:Cũng như các triều đại khác, triều Nguyễn vẫn chủ trương “dĩ
nơng vi bản”. Tâm lí này đã đưa đến những chính sách phát triển nơng nghiệp, như
là cấm mua bán ruộng đất cơng, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh,
kho Bình thiếu, Sở Đồn điền… Năm 1828, bộ Lễ vâng mệnh vua, soạn thảo các
điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật lệ lâu dài, cũng như quy
định rất nghiêm túc, cụ thể.
Quỹ ruộng đất công là một vấn đề nan giải của triều Nguyễn, nó ảnh hưởng đến
thu nhập quốc khốvà cũng là một trong những nguyên nhân khích lên khởi nghĩa
nông dân. Ý thức được được điều này, ngay từ đầu triều đại, Gia Long đã ra lệnh
cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ
này để đảm bảo nông dân ai cũng có đất cày. Khi nhân dân liên tục thất thu, triều

11


đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Vua Minh Mạng đã định lại
phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, cơng tượng (thợ làm quan
xưởng) cùng các hạng dân đinh, phẩm trật cao thấp đều có khẩu phần, nhưng quan
lại, cường hào giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được
nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3 [33, tr. 447].
Tại Nam Kì,số lượng ruộng đất tư rất lớn nhưng chính quyền không thể chạm
tay vào, bởi lực lượng đại địa chủ Gia Định đã từng ủng hộ Nguyễn Ánh trong thời
kì nội chiến. Vì vậy nhà Nguyễn vẫn phải tiếp tục việc khai hoang và phục hóa
ruộng đất từ thời các chúa Nguyễn để lại. Nhắc đến vấn đề khẩn hoang ta không
thể không nhắc đến hai tên tuổi là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương với
những công trạng to lớn trong việc khai hoang lập đồn điền. Đồn điền xuất hiện
nhiều nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là
Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối
ở cả 6 tỉnh[33, tr. 448]. Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều
đình và nhân dân, thực hiện di dân để lập ấp mới. Hình thức này bắt đầu được thực

hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Nguyễn Công Trứ.
Bản thân Nguyễn Công Trứ cũng là người khai lập của hai huyện Tiền Hải (Thái
Bình), và Kim Sơn (Ninh Bình).
Ngồi ra, triều đình nhà Nguyễn cịn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang
kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn.
Ruộng đất thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số
đinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất. Diện tích ruộng đất
thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 là 4.273.013 mẫu [30, tr.425]. Tuy nhà Nguyễn
đã hết sức nỗ lực trong việc mở rộng quỹ đất công, hạn chế chiếm hữu đất đai thành
tài sản riêng, nhưng vấn nạn này vẫn nhức nhối, không những thế, vẫn còn nhiều
đất đai bị bỏ hoang.
Nhà nguyễn cũng đặc biệt chú trọng đến việc trị thủy và thủy lợi. Trong suốt
thời gian trị vì của mình các vua triều Nguyễn đã nhiều lần ra chỉ dụ về việc đắp đê,
trị thủy. Riêng thời Gia Long, nhà nước đã 11 lần cấp kinh phí cho địa phương làm

12


việc này, mỗi lần từ 7 – 9 vạn quan tiền. Hơn 47 km đê được tu sữa nhưng nạn vỡ
đê vẫn diễn ra. Thời Minh Mạng ông cũng đã 14 lần cấp kinh phí cho việc sữa đắp
đê, điều, đào kênh sông [33, tr. 449]. Các vua triều Nguyễn cũng cho đặt các chức
quan chuyên chăm lo việc đê điều “năm 1809, Gia Long cho đặt các chức Tổng lí
và Tham lí đê chính lo việc đê điều ở Bắc thành; năm 1028 theo đề nghị các quan,
Minh Mạng cho thành lập Nha Đê chính gồm nhiều quan chức và thơ lại, phụ trách
công tác thủy lợi” [33, tr. 449]. Làng xã cũng góp phần vào việc sữa đắp đê điều,
phịng lụt lội. Nhiều đoạn sơng được nạo vét, khai thông, nhiều cống đập được xây
dựng.... Thế nhưng, các cơng trình này cịn thiếu tính phối hợp và quy hoạch chung
cũng như do thiên tại, lũ lụt thường xuyên xảy ra nên các đê vẫn bị vỡ liên tục. Từ
năm 1802 – 1858 cả nước phải chịu 38 đợt thiên tai, lũ lụt và 16 lần vỡ đê [ 33, tr.
449]. Công việc trị thủy vẫn tiếp tục trong những năm sau nhưng nhìn chung khơng

có kết quả và nhà Nguyễn cũng đã tỏ ra bất lực trước vấn đề này.
Thủ công nghiệp:Thiên nhiên nước ta chứa đựng tiềm năng to lớn và đa dạng
về nguồn tài nguyên cho các ngành nghề thủ cơng, từ lâm khống sản miền núi đến
cây trồng vùng đồng bằng và hải sản ở miền biển. Mỗi vùng đất là đặt trưng của
mỗi loại thổ sản, mỗi loại cây trồng của mỗi ngành nghề thủ cơng thích ứng. Tài
ngun là yếu tố để hình thành và mở rộng các ngành nghề thủ công theo nhu cầu
của con người và sự phát triển của dân số.
Từ các thế kỉ đầu công nguyên, ở nước ta một số ngành nghề thủ công phát triển
như dệt, gốm, luyện kim,… đã hình thành các làng chun thủ cơng. Nhiều làng
nghề đã tồn tại và phát triển trong nhiều thế kỉ. Đến thời nhà Nguyễn thủ công
nghiệp vẫn tồn tại và phát triển dưới hai hình thức là thủ công nghiệp dân gian và
thủ công nghiệp nhà nước.
Cũng như các triều đại trước, dưới thời Nguyễn thủ công nghiệp nhà nước vẫn
giữ vị trí quan trọng. Chính quyền trung ương đã tập trung xây dựng hệ thống các
xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Nó chịu trách
nhiệm chế tạo mọi thứ cần dùng cho bộ máy vua quan, hồng gia, đóng thuyền, đúc
tiền,…. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng

13


Long. Từ năm 1812, do nhà Nguyễn khơng có đủ ngun liệu làm tiền đồng lưu
thơng trên tồn quốc nên đã cho đúc thêm tiền kẽm làm đồng tiền cơ bản. Việc đúc
tiền được vua Gia Long giao cho thương nhân Trung Quốc thực hiện và trả công
cho họ. Tiền sau khi đúc được đổi theo quy thức nhà nước, “cứ 130 quan tiền mới
đúc thì đổi lấy 100 quan tiền trong kho” [33, tr. 452].Nhà Nguyễn cũng lập các Ti
trông coi các ngành thủ công, như Vũ khố chế tạo ti gồm 57 cục chuyên quản lí các
nghề thủ công như: làm đất, đúc, làm đồ bằng bạc, kim hồn, vẽ tranh, làm ngói,
làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,…). Ti Thuyền đảm
nhiệm các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trong phạm vi cả

nước. Bên cạnh đó là các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược [33, tr.
450].
Thợ làm việc trong các công xưởng chủ yếu là những người thợ giỏi ở các tỉnh
được nhà nước tập trung lại, được tổ chức theo chế độ công tượng. Chế độ công
tượng đã được đặt ra dưới thời Lý, đến thời Nguyễn chế độ này được tổ ở một quy
mô lớn và chặt chẽ hơn. Buổi đẩu các công xưởng nhà nước được giao cho Vũ khố
trông coi. Năm 1829, công việc điều hành các công tượng được giao trực tiếp cho
Bộ Cơng quản lý. Bộ Cơng có các Thanh lại ty chuyên trách. Thợ thủ công các nơi
được trưng tập về hoạt động trong các công trường dưới sự quản chế của các ty. Các
đơn vị sản xuất đó, được gọi là Tượng cục. Cứ 10 nguời thợ trở lên lập một cục,
đứng đầu là cục trưởng, được ban hàm tịng cửu phẩm.Cơng xưởng là loại hình kinh
tế công nghiệp quốc doanh của nhà nước nên mọi hoạt động và tổ chức đều tuân thủ
theo pháp quy một cách chặt chẽ với sự giám sát của nhiều Bộ, Nha... Ngồi Bộ
Cơng cịn có Bộ Hình, Nội Các, Đô Sát Viện... ở kinh đô Huế, Hà Nội, Gia Định,
nhà nước đặt chức Chính sứ ty để quản lý các cục tư nhân đánh thuế hợp đồng theo
yêu cầu của nhà nước. Ở các tỉnh giao quyển cho quan Bố chánh. Tiêu chuẩn để
tuyển chọn công tượng là phải đảm bảo về sức khỏe và kỹ thuật ngành nghề. Để
đảm bảo nguồn lao động, Nhà nước quy định hàng năm cảc tỉnh phải cung cấp đúng
định lượng mà Triều đình phân bổ. Một số nghề như mộc, nề, được đặt tượng cục ở
các tỉnh. Thợ được tuyển theo phép tuyển binh đối với định ngạch mà Nhà nước

14


phân bổ cho các tỉnh. Tuy nhiên, một số ngành như kỹ thuật máy móc, đúc đồng lại
phải tuyển theo tự nguyện. Một số nghệ nhân lại được ưu ái theo chế độ thuê mộ,
hợp đồng lao động. Mỗi loại thợ tùy theo ngạch tuyển, ngành nghề và nhu cầu có
một chế độ lương bổng sinh hoạt khác nhau; nhưmg nói chung, thân phận họ đã bị
quân đội hóa ở các mức độ khác nhau. Thợ được phân làm hai loại: lính thợ và dân
thợ để quản lí và hưởng lương trả cơng. Quản lí tượng cục là tượng mục, đó là thợ

cả được phong hàm bát, cửu phẩm có chế độ lương bổng theo ngạch quan chức của
nhà nước. Các thợ bạn gọi là tượng dịch.
Chế độ công tượng của triều Nguyễn đã trói chân người thợ ở kinh thành và có
ảnh hưởng đến đời con cháu của họ. Lương bổng thấp, chế độ quản lí chặt chẽ theo
lối quân sự khiến cho những người thợ thủ công bị bó buộc trong khn khổ khơng
thể thỏa sức sáng tạo, nên không mấy ai hăng hái sản xuất. Các nghệ nhân muốn
được dấu nghề để an thân do đó các sáng kiến cũng dần mai mọt [2, tr. 124].
Như vậy ta có thể thấy thủ cơng nghiệp dưới triều Nguyễn đã có một bước phát
triển hơn so với thời kì trước. Tuy nhiên, nó chỉ dừng lại ở sự phát triển nhất định
của thủ cơng nghiệp nhà nước, cịn thủ cơng nghiệp dân gian thì khơng có nhiều
tiến triển. Sự bó buộc của triều đình đã làm kiềm hãm đi sự phát triển của thủ cơng
nghiệp, khiến nó khơng thể tiến một bước xa hơn mà nó có thể đạt được.
1.1.3 Văn hóa
Tơn giáo, tín ngưỡng:Theo xu thế của các thế kỉ trước, các hệ tư tưởng, tôn
giáo lớn như Nho, Phật, Thiên Chúa tiếp tục tác động vào sinh hoạt tinh thần, tâm
linh của người dân Việt. Nho giáo khơng cịn là tơn giáo chi phối tồn bộ đời sống
nhân dân, đặt biệt là tầng lớp trẻ.Đứng trước thực trạng suy thối của Nho
giáo“nhàNguyễn cố tìm mọi cách củng cố địa vị độc tôn của Nho giáo bằng việc
hạn chế xây dựng chùa chiền, cấm dân theo đạo Ki tô, lập nhà thờ, theo gương nhà
Lê ban “Mười điều huấn dụ” giao cho các làng xã giảng giải cho dân, nội dung
học tập, thi cử được củng cố” [33, tr. 452].
Mặc dù nhà nước cấm đoán gắt gao, nhưng các giáo sĩ phương Tây vẫn tìm mọi
cách hoạt động truyền giáo, một số giáo sĩ đã tích cực hoạt động chuẩn bị cho cuộc

15


xâm lược thực dân của tư bản Pháp “từ khi phong trào cách mạng bùng lên ở Tây
Âu, một số quan chức thực dân tìm cách dựa vào các giáo sĩ để lo điều kiện nhảy
vào Việt Nam. Các giáo sĩ Xanh Phan (S’S – Phalles), Bá Đa Lộc, Phelơranh

(Pellerin)... đã giúp họ” [33, tr. 467], bất chấp mọi chính sách cấm đạo ngặt nghèo
của nhà nước.
Trong dân chúng, đạo Phật và các tín ngưỡng cổ truyền vẫn được duy trì. Chùa
chiền, đền thờ các thần linh khác nhau được xây dựng ở nhiều nơi trong cả nước.
Tục thờ tổ tiên trở thành tín ngưỡng chung của nhân dân Việt ở miền xuôi và cũng
ảnh hưởng đến vùng các dân tộc ít người. Ở nhiều nơi, để có thể phát triển, các giáo
sĩ Thiên Chúa giáo cũng phải chấp nhận điều này. Ngoài ra tục thờ Thành Hoàng
cũng rất phát triển, đi cùng với nó là tục thờ cúng các vị anh hùng dân tộc, các vị có
cơng với làng xã, cùng với nhiều vị thần thiên nhiên khác nhau. Theo thống kê của
nhà nước, “cuối những năm 60, cả nước có đến 7000 vị thần” [33, tr. 467].
Văn học, nghệ thuật, giáo dục, thi cử: Trước tình hình giáo dục, thi cử sa sút
nghiêm trọng ở thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn cố gắng chấn chỉnh lại giáo dục Nho học.
Khi Gia Long lên ngôi định tổ chức lại việc giáo dục thi cử nhưng không làm được.
Năm 1807, quy chế thi Hương mới được ban hành. Đến năm 1822, nhà Nguyễn mới
có điều kiện mở khoa thi Hội đầu tiên. Dưới triều Nguyễn, kỳ thi Đình cũng chủ
trương khơng lấy Trạng nguyên.

ế, biểu ở trường thứ hai, thơ, phú ở trường
thứ ba và thi văn sách ở trường thứ tư. Từ năm 1807 đến năm 1918, triều Nguyễn tổ
chức được 47 kỳ thi Hương, lấy đỗ 5.000 cử nhân và hơn 10.000 tú tài. Từ năm
1822 đến 1919, mở được 39 khoa thi Hội, lấy đỗ 558 tiến sĩ và phó bảng, số người
đỗ bảng nhãn, thám hoa, hồng giáp chỉ hơn 10 người [39].
Giáo dục, thi cử dưới triều Nguyễn sa sút về nhiều mặt so với các triều đại trước.
Tuy nhiên cũng có một điểm mới đáng chú ý đó là năm 1836, Minh Mạng đã cho

16


thành lập “Tứ dịch quán” để dạy tiếng nước ngoài ( Pháp, Xiêm,..) cho con em quí
tộc.

Văn học chữ Hán khơng cịn chiếm ưu thế như trước nhưng vẫn có nhiều nhà
thơ, nhà văn nổi tiếng như Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Tùng Thiện Vương,
Tuy Lý Vương, Minh Mệnh, v.v..
Văn học dân gian tiếp tục phát triển, các loại thơ ca, hị vè ca dao, tục ngữ,
phương ngơn, truyện tiếu lâm, v.v. xuất hiện nhiều. Với tư tưởng xây dựng một nền
văn hóa riêng của mình, người dân lao động Việt Nam đã truyền nhau hàng loạt thơ
ca nói lên phong cảnh, đặc sản địa phương, kinh nghiệm sản xuất, các ngành
nghề,…. Đặc biệt thể loại văn trào phúng cũng rất phát triển nhằm châm biếm, phê
phán những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến. “Cuộc đấu tranh chống phong
kiến, chống áp bức bóc lọt khơng chỉ biểu hiện quyết liệt bằng vũ khí bạo lực mà
cịn cả trên mặt trận văn học” [33, tr. 469].
Các thể thơ Nôm như lục bát, song thất lục bát được sử dụng phổ biến và ngày
càng được trau chuốt. Một số tập thơ dài có nội dung sâu sắc, hình thức đẹp, trong
sáng, nâng cao vai trò tiếng Việt. Các nhà thơ như Hồ Xuân Hương, Bà huyện
Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Du, v.v., đã trở thành tiếng nói vĩnh cửu của
một thời và của muôn đời.
Nghệ thuật kiến trúc nổi trội ở thế kỷ XIX là khu hoàng thành ở kinh đô Huế
bao gồm hàng loạt cung, điện được trang trí phong phú, các lăng tẩm của các vua
triều Nguyễn. Một số tranh chân dung, tranh vẽ sơn mài trên gỗ ở các đền, chùa,
tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống cũng là nét mới của nghệ thuật bấy giờ.
Nghệ thuật sân khấu, ca nhạc phát triển rộng rãi. Ở kinh đơ Phú Xn có nhà
hát, sàn diễn. Những ngày lễ hội cổ truyền đã có thêm hàng loạt câu hát, điệu hò,
điệu nhạc.
Khoa học, kỹ thuật:Ở thế kỷ XIX, sử học rất phát triển. Bên cạnh các bộ sử
chính thống như Đại Việt sử ký tục biên, Đại Việt thông sử, Việt sử tiêu án ... của
giai đoạn trước, đã xuất hiện nhiều bộ sử mới đồ sộ do các cơ quan làm sử của nhà
nước biên soạn như Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục,

17



Minh Mệnh chính yếu, Bản triều bạn nghịch liệt truyện của Quốc Sử quán và Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ của Nội các quan triều Nguyễn... Nhiều tác phẩm sử
học địa phương cũng được biên soạn như Đại Nam nhất thơng chí , các tỉnh chí,
huyện chí, xã chí.
Ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật phương Tây cũng ít nhiều để lại dấu ấn trong
các sáng chế của người thợ thủ công Việt Nam đương thời như súng tay, máy tưới
nước, máy xẻ gỗ và đặc sắc nhất là đã thế tạo được các tàu thuỷ chạy bằng máy hơi
nước.
1.1.4. Xã hội
Trong lòng xã hội triều Nguyễn lúc này chất chứa nhiều mâu thuẫn đối kháng.
Chính sách cai trị hà khắc, sự bất lực của chính quyền trung ương đã làm cho các
mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, đời sống nhân dân cực khổ, xã hội lâm vào tình
trạng khủng hoảng liên miên. Những mâu thuẫn đó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa triều
đình phong kiến nhà Nguyễn với quần chúng nhân dân xuất phát từ nhiều nguyên
nhân:
Thứ nhất là do nguồn gốc ra đời của triều Nguyễn, triều Nguyễn đã dựa vào các
thế lực bên ngồi để tiêu diệt triều Tây Sơn nên khơng được dân chúng ủng hộ.
Thứ hai, triều Nguyễn được thiết lập trên cơ sở sự tan vỡ của ba chính quyền Lê,
Trịnh và Tây Sơn. Chính những điều đó đã làm tư tưởng nhân tâm ly tán, là mầm
mống cho các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp nơi, đặc bìệt, vùng Băc Hà trở thành cái
nôi của các cuộc khởi nghĩa.
Trong điều kiện xã hội chính trị phức tạp, triều Nguyễn cho thi hành chính sách
cai trị hà khắc, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị một cách cực đoan. Các chính
sách do triều Nguyễn đề ra khơng thực hiện được, mà còn gây ra sự phản đối gay
gắt trong nhân dân, làm cho xã hội càng trở nên rối loạn. Chẳng hạn như triều
Nguyễn thì hành chính sách quân điền, lấy ruộng đất của địa chủ đem sung công, để
bảo vệ ruộng công trước xu thế tư hữu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Song triều
Nguyễn đã thất bại, gây nên phản ứng gay gắt trong giới địa chủ, đồng thời làm đảo
lộn nền tảng kinh tế xã hội. Địa chủ và cường hào cấu kết với nhau ra sức lũng đoạn


18


đời sống làng xã, đổ mọi gánh nặng kinh tế lên vai người nơng dân. Bị bóc lột thậm
tệ, nơng dân bị dồn tới bước đường cùng, mất tư liệu sản xuất, thậm chí khơng cịn
khả năng làm nghĩa vụ sưu thuế, lối thoát duy nhất của họ là đi xiêu tán, hoặc tham
gia vào các phong trào khởi nghĩa. Dân xiêu tán và phong trào nổi dậy là hai hiện
tượng phổ biến trong xã hội thời kỳ n
[35, tr. 320].
Trong vịng 80 năm đầu triều Nguyễn có tới gần 400 cuộc khởi nghĩa [33, tr.
457], với những cuộc khởi nghĩa nơng dân có quy mơ lớn như cuộc khởi nghĩa Phan
Bá Vành, Ba Nhàn Tiền Bột…
Để củng cố quyền lực của nhà nước, triều Nguyễn, đặc biệt là triều Minh Mệnh
đã tiến hành cải cách hành chính trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, ở những vùng
dân tộc thiểu số, chính sách cư dân, dân tộc cứng nhắc của triều Nguyễn đã làm cho
đời sống chính trị, xã hội, văn hố và tín ngưỡng ở nơi đây bị đảo lộn. Hàng loạt các
cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của các dân tộc thiểu số đã nổ ra. Vùng núi phía Bắc,
cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương ở Hồ Bình (1832 1838) có liên quan đến người
Mường, cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vản (1829 1943) ở vùng Bảo Lạc, Đồng
Mu có liên quan đến người Tày. Phía Nam, có cuộc nổi dậy của nhân dân Vách Đá
từ năm 1803 kéo dài suốt thời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Đặc biệt
là cuộc khởi nghĩa của người Khơ me ở các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang,
Kiên Giang diễn ra trong suốt những năm 40 [33, tr. 462 - 463].
Cuối cùng là sự suy yếu và bất lực của chính quyền trung ương trước các vấn đề
xã hội. Dưới triều Nguyễn, ngoài gánh nặng sưu thuế, binh dịch, bệnh dịch, hạn
hán, mất mùa, xảy ra thường xuyên làm cho đời sống nhân dân càng thêm cơ cực.
Nhiều bằng chứng cho thấy triều Nguyễn có quan tâm tới đời sống nhân dân. Song,
sự suy yếu của chính quyền trung ương và lơi lỏng quản lý, nên quan lại địa phương
mặc sức hoành hành bớt xén, ăn chặn của dân. Nhà nước thì tốn kém tiền của trong

khi đời sống nhân dân vẫn không được cải thiện [33, tr. 454-457].

19


Triều Nguyễn tỏ ra lúng túng trong chính sách cư dân, dân tộc đối với một vài
bộ phận cư dân mới, tiêu biểu là cộng đồng người Hoa và cộng đồng người Công
giáo. Cộng đồng người Hoa, vào những năm 50, lợi dụng sự nhân nhượng của triều
Nguyễn trước triều đình Mãn Thanh đã ồ ạt tràn vào Việt Nam. Trong đó, một số
phần tử quấy nhiễu và cướp phá ở những vùng biên giới giáp ranh. Có kẻ cịn tham
gia vào các cuộc nổi dậy của người Việt. Đối với cộng đồng người Công giáo, cho
đến năm 1800, cả nước có tới 310.000 giáo dân [36, tr.72]. Như vậy, cộng đồng
Công giáo đã trở thành một thực thể xã hội, địi hỏi triều đình phải có một chính
sách ứng xử phù hợp. Tuy nhiên, Công giáo thời kỳ này bị thực dân lợi dụng, nên
một số giáo dân đã bị lôi kéo vào các hoạt động chống phá triều đình, tỉêu bỉểu là vụ
Lê Văn Khơi (1832-1833), vụ đảo chính của thái từ Hồng Bảo (năm 1851), cuộc
khởi nghĩa của Lê Duy Phụng (1856). Đây là một trong nhiều ngun nhân chính
khiến cho Cơng giáo bị xã hội tẩy chay và bị triều đình đàn áp. Từ 1833 đến 1862,
triều đình ban hành liên tiếp 14 chỉ dụ cấm đạo, tạo lên những vụ bắt bớ, tàn sát
người Công giáo.
Các biện pháp cứng rắn và hành động ngược đãi giáo dân của triều Nguyễn càng
làm cho mâu thuẫn lương giáo trở nên gay gắt, đẩy người Công giáo sang bên kia
chiến tuyến. Giáo dân thì lầm tưởng người Pháp là những người bảo trợ cho quyền
tự do tôn giáo nên đã quay lưng lại với triều đình để đi theo người Pháp. Điều này
nằm trong những mưu đồ của chủ nghĩa thưc dân, phá hoại xã hội Việt Nam từ bên
trong. Mặt khác, bên ngoài chúng gây sức ép, lấy lý do bảo vệ quyền tự do tôn giáo
để nổ súng xâm lược nước ta. Sau khi Pháp nổ súng xâm lược, mâu thuẫn lương
giáo tiếp tục là nguyên nhân của nhiều cuộc nổi dậy trong nhân dân. Triều đình thì
đầu hàng từng bước rồi dựa hẳn vào Pháp để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân
dân.

Trước sự phản bội của triều đình, phong trào đấu tranh tiếp tục nổ ra mạnh mẽ
trong phạm vi cả nước. Mục tiêu của các cuộc khởi nghĩa bắt đầu thay đổi, vừa
đánh Pháp vừa chống triều đình Huế với khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả”, “Phen này ta
đánh cả triều lần Tây”. Như vậy, lên nắm quyền trong điều kiện xã hội rối ren, với

20


một chính sách cai trị hà khắc và sự suy yếu của chính quyền trung ương, triều
Nguyễn đã khơng giải quyết được tình trạng xã hội khủng hoảng. Các mâu thuẫn
đối kháng trong xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tồn thể nhân dân với chính sách
cai trị của triều Nguyễn được chuyển hoá thành hàng trăm cuộc khởi nghĩa và nổi
dậy. Nó là minh chứng chân thực nhất cho tình trạng xã hội khủng hoảng, đồng thời
phản ánh sự bất lực của triều Nguyễn trước thực tại xã hội đó. Đặc biệt, sai lầm của
triều Nguyễn trong vấn đề cộng đồng Công giáo gây ra mối xung đột lương giáo,
góp phần làm cho xã hội Việt Nam trở nên mục ruỗng và suy yếu, tạo điều kiện cho
thực dân Pháp xâm lược nước ta.
1.2. Khái quát hoạt động khai thác khoáng sản trƣớc triều Nguyễn (10091802)
Trong lịch sử các ngành nghề thủ công nghiệp ở nước ta, ngành khai thác
khống sản đã được hình thành từ rất sớm. Bắt đầu từnhững hình thức khai thác đơn
giản, trải qua các triều đại, nghề khai khoáng ngày càng được chú trọng đầu tư khai
thác, điều đó thể hiện qua sự đa dạng về chủng loại và sản lượng.
Dưới thời Lý, qua các ghi chép củasử sách cũ đã chứng tỏ việc khái thác
khống sản là khơng ít. Loại khống sản được nhà Lý chú trọng khai thác lúc bấy
giờ chủ yếu là vàng. Vàng được khai thác theo phương thức chủ yếu là vàng lộ
thiên. Theo như ghi chép của Đại Việt sử kí tồn thư thì “Năm Q Hợi, Đại Định
thứ 4(1143), mùa đơng tháng 10, sai thái phó Hoàng Nghĩa Hiền và viên ngoại lang
Khổng Trường đem quân các khe động dọc biên giới về đường bộ đi đãi vàng ở các
xứ Như Cá” [4, tr.259]. Hay như Chu Khứ Phi người đời Tống cũng viết “Vùngkhe
động ở Ung Châu Vũ An của Ung Châu chỉ cách Giao Chỉ có một con sơng. Vịt

ngỗng bơi sang ăn ở Giao Chỉ, khi về tìm thấy vàng ở trong phân… Giao Chỉ có cái
ậy có thể thấy,

lợi mỏ vàng mới mua dân ta làm nô”

thời Lý việc khai thác vàng đã có sử dụng đến nhân cơng người Hoa và triều đình
chịu trách nhiệm đứng ra quản lý khai thác. Ngoài khai thác vàng, năm 1198, nhà
nước cũng cho tổ chức khai thác mỏ đồng ở Lạng Sơn. Đồng khai thác được sử
dụng để đúc chuông, đúc tượng, tiền, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt,….

21


×