Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học đề tài vai trò của con người trong hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.99 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
‘Vai trò của con người trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng hiện nay’

Họ tên Học viên : Trần Sỹ Nghĩa
Mã Học viên: CH 290312
STT: 40
LỚP: K29V - QTDN
GVHD: TS. Lê Thị Hồng

Nghệ An, Tháng 7 năm 2021

download by :


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN………………………………………………………3
1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và vai trò của con người

1.1 Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người…………………………….
a. Bản chất con người
1.2 Quan điểm triết học Mác – Lênin về vai trò con người……………………..
PHẦN II: SỰ VẬN DỤNG VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HIỆN NAY……………………………
1.Vai trò của ngân hàng trong hoạt động hệ thống tài chính hiện nay:


1.1 Khái niệm về ngân hàng……………………………………………………….
1.2 Vai trò của ngân hàng trong hệ thống tài chính tiền tệ……………………...
2. Vai trò của con người trong hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay……

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..

download by :


LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ điển đến
hiện đại. Đó là vấn đề mà ln được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích
một cách sâu sắc nhất. Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không
ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự
hiểu biết và có tác động trở lại đối với con người, từ đó con người có sự nhận thức sâu
sắc về thế giới quan xung quanh để khơng ngừng sáng tạo biến đổi chính mình cũng
như xã hội.
Từ khi Triết học Mác – Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung liên quan đến
con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với thế giới và
trong thực tiễn hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã
hội. Con người đối với công cuộc đổi mới xã hội, phát triển đất nước luôn là yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố chính, là nguồn lực
mang tính quyết định sự thành cơng hay thất bại. Trong từng lĩnh vực cụ thể con người
là yếu tố để duy trì hoạt động, khơng ngừng tạo ra sản phẩm vật chất vơ hình và hữu
hình góp phần để cung ứng cho xã hội, hơn nữa chính mối quan hệ giữa con người với
con người đã tạo nên sự đa dạng trong tư duy, sự cạnh tranh trong sản xuất đây là yếu tố
quan trọng góp phần đổi mới xã hội. Giữa con người, xã hội ln có sự tác động qua lại,
vận động song hành cũng như liên hệ chặt chẽ với nhau để luôn luôn phát triển và tránh
không bị tụt hậu.

Do nhận thức được tầm quan trọng của con người và vai trò của con người trong
đời sống xã hội nói chung, trong các ngành lĩnh vực nói riêng, đặc biệt là hiện nay Việt
Nam đang trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ, ngồi các ngành
cơng nghiệp mũi nhọn thì sự phát triển của nền kinh tế cũng có sự hỗ trợ và đóng góp
của hệ thống tài chính trong đó có ngành ngân hàng, đây là một trong những ngành
quan trọng, được coi là huyết mạch của bất cứ một đất nước hay thể chế chính trị nào
trên thế giới. Trong bối cảnh thế giới đang chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid19 gây ra cú sốc, dẫn tới cuộc suy thối kinh tế tồn cầu chưa từng có trong nhiều thập
kỷ qua. Kinh tế Việt Nam nổi lên là điểm sáng hiếm hoi với những thành công trong
điều hành kinh tế thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục
hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống nhân dân”, hệ thống ngân hàng

1

download by :


thực sự đã phát huy để chính phủ có thể hồn thành mục tiêu kiểm sốt lạm phát, hỗ trợ
các doanh nghiệp do dịch bệnh Covid-19, cũng như thay đổi linh hoạt các phương thức
thanh toán để bắt kịp xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát
triển các mơ hình kinh doanh mới, sự thay đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao
tiếp trên toàn cầu, sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng khoa học công nghệ từ cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 trong thời đại hiện nay, coi đây là cơ sở nền tảng và điều
kiện tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững mà trong
đó nội lực để thực hiện các chính sách quan trọng đã được đề ra đó chính là con người,
vì vậy muốn nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững thì mỗi ngành, nghề phải
biết phát huy mọi nguồn lực, nhưng quan trọng nhất là phải biết phát huy vai trị của
con người bởi vì con người ngày nay ln có sự vận động, tư duy sáng tạo ra những
điều mới mẻ trong quá trình lao động, nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Vai trò của
con người trong hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay” cho bài tiểu luận triết
học của mình.


PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và vai trò của con người:

1.1 Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người:
a. Bản chất con người:
Đầu tiên con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Các
yếu tố và mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội; cơ chế di truyền và hoạt động
xã hội của con người
Bên cạnh đó con người còn là một thực thể cá nhân - xã hội: Con người vừa là một
chỉnh thể đơn nhất, vừa mang những phẩm chất của hệ thống các quan hệ xã hội và có
sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người
chính là giới tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản
của con người, loài người.
Về mặt sinh vật, con người là bộ phận của tự nhiên, sản phẩm của quá trình phát triển
lâu dài trong tự nhiên; chịu sự tác động của các quy luật sinh học tự nhiên. Con người
cũng có những nhu cầu tự nhiên giống các loài vật khác. Mặt sinh vật là cơ sở, tiền đề

2

download by :


cho mặt xã hội trong bản chất của con người. Trong quá trình phát triển của con người,
yếu tố cá nhân có trước yếu tố xã hội và sự biến đổi mặt sinh vật sẽ tác động đến sự
thay đổi mặt xã hội. Mặt cá nhân của con người thể hiện qua các nhu cầu tự nhiên và
việc thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu này là cơ sở, mục đích cho sự phát triển
và hồn thiện mặt xã hội của con người.
Về mặt xã hội, con người chỉ tồn tại với tính cách là con người khi được sống trong môi

trường xã hội; chịu sự tác động của các quy luật xã hội, các quy luật tâm lý. Bản chất xã
hội của con người được hình thành và thể hiện tập trung ở hoạt động lao động sản xuất.
Mặt xã hội là phương thức, là điều kiện cho con người thoả mãn nhu cầu sinh vật. Con
người muốn thoả mãn nhu cầu cá nhân phải dựa vào lao động sản xuất và yếu tố xã hội
góp phần tăng thêm hoặc làm giảm đi sức mạnh của yếu tố sinh vật. Xét từ giác ngộ
nguồn gốc hình thành con người, lồi người thì khơng phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến
hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ
bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua
lồi động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện
mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó mà có thể hồn chỉnh học thuyết về nguồn gốc
loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và
đầy đủ.
Xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, lồi người thì sự tồn tại của nó ln
ln bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi
con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của
mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi
con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là
“con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Ngồi ra bản chất con người cịn là tổng hịa các quan hệ xã hội trong đó khi nói về con
người thì có sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân loại.
Bản chất xã hội, địa vị kinh tế xã hội và điều kiện sinh hoạt vật chất quy định sự đồng
nhất và sự khác biệt giữa tính giai cấp và tính nhân loại của con người.
Con người còn là thống nhất biện chứng giữa tất yếu và tự do. Hoạt động của con người
là sự thống nhất biện chứng giữa tự phát và tự giác, giữa tất yếu và tự do.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản

tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những

3


download by :


quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về
Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắt tắt nhưng quan niệm đó và xác lập quan niệm mới
của mình: “Bản chất của con người khơng phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội”
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là trừu tượng hóa, tuyệt

đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ
phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con
người.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình

thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải
được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan
hệ xã hội của nó trong lịch sử xã hội.
- Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông

qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu
cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của
chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người có thể thấy:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì khơng thể chỉ đơn
thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định
phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế – xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng lực sáng
tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con
người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển

của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó
phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế – xã hội. Trên ý nghĩa
phương pháp luận đó có thể thấy: Một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã hội
áp bức và bóc lột ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
– những chủ thể sáng tạo đích thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại; thông qua cuộc

4

download by :


cách mạng đó nó cũng có thực hiện sự nghiệp giải phóng tồn nhân loại bằng phương
thức xây dựng mối quan hệ kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều
kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đây chính là thể hiện của sự thống nhất biện
chứng giữa tất yếu và tự do.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một
chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người là sản
phẩm của sự tiến hố lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật
sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách là một con
người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống... Điều đó giải thích vì sao quan
điểm Mác-Lênin cho rằng con người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì khơng thể giải thích
được bản chất của con người. Khơng chỉ có “con người là tổng hồ các quan hệ xã hội”
mà thực ra quan điểm của Mác-Lênin là một quan điểm toàn diện.
Quan điểm triết học Mác-Lênin nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết
học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội,
nhưng khác với họ, xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, u thích...

Khơng cịn hồn tồn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. Theo
Các Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hồ của
những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên
Các Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con
vật có bản năng gần giống với con người... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Các Mác đã
chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình,
con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn
vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết
chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác-Lê nin
về con người.
1.2 Quan điểm triết học Mác – Lênin về vai trò con người:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì vai trị xun suốt và chủ đạo chính của con người là
chủ thể của hoạt động thực tiễn.

5

download by :


Lịch sử chẳng qua chỉ là hành động có ý thức của chính bản thân con người . Hành vi
lịch sử đầu tiên của con người là lao động sản xuất ra của cải vật chất, và nhờ đó mà
con người tách mình ra khỏi thế giới động vật để làm người, để tồn tại và phát triển với
tư cách là con người
Con người làm ra lịch sử trên cơ sở những điều kiện hiện có, những điều kiện do thế hệ
trước để lại. Con người đã tiếp tục hoạt động cũ của các thế hệ trước trong điều kiện
mới, và đồng thời tiếp tục hoạt động mới để biến đổi hồn cảnh cũ.
Con người từ rất lâu đã có thể chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên theo ý muốn của
riêng mình. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong q trình tiến hố nhưng
như thế khơng có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên để khơng cịn

một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người là sản phẩm tự nhiên, là kết quả của
quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người thì phải trải qua giai đoạn
sinh trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt... Song con
người không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà xét trên khía cạnh xã
hội thì con người là động vật có tính xã hội, con người là sản phẩm của xã hội, mang
bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện
do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về mặt xã hội toạ
nên con người. Con người chỉ có thể tồn tại được khi tiến hành lao động sản xuất của
cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định
hình thành con người và ý thức. Lao động là nguồn gốc duy nhất của vật chất, vật chất
quyết định tinh thần theo logic thì lao động là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh
thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, đó là
những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác trong các lĩnh vực
đời sống và tinh thần.
Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên con người chịu sự chi
phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng. Các quy
luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và mơi trường, quy luật về q
trình trao đổi chất... tác động tạo nên phương diện sinh học của con người. Các quy luật
tâm lý, ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người hình thành
tư tưởng tình cảm khát vọng niềm tin, ý chí. Các quy luật xã hội quy định mối quan hệ
giữa người với người, điều chỉnh hành vi của con người. Hệ thống các quy

6

download by :


luật trên cũng tác động lên con người, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa sinh học
cái xã hội trong con người.

Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn con người sản xuất và
của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là chủ thể cải tạo
tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào tự nhiên vừa tác
động vào tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có con người mới khắc phục được tự
nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như tự nhiên bằng cách toạ ra
những vật chất, hiện tượng khơng như tự nhiên vốn có bằng cách đó con người đã biến
đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ con người. Tuy nó là sản phẩm của
tự nhiên. Một điều chắc chắn rằng có con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết
tuân theo và nắm bắt các quy luật của chính bản thân đó. Q trình cải biến tự nhiên,
con người cũng tạo ra lịch sử cho mình. Con người khơng những là sản phẩm của xã hội
mà con người còn là chủ thể cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất con
người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách mạng.
Con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho chính mình mặc dù tự nhiên và xã hội
đều vận động theo những quy luật khách quan song quá trình vận động của con người
luôn xuất phát từ nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và
do đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng cuả quy luật cho phù hợp với
nhu cầu và mục đích của mình. Nếu khơng có con người với tư cách là chủ thể sinh
động nhất của xã hội thì khơng thể có xã hội, khơng thể có sự vận động của xã hội mà
vượt lên tất cả chính là của cải vật chất.
PHẦN II: SỰ VẬN DỤNG VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HIỆN NAY
1.Vai trò của ngân hàng trong hoạt động hệ thống tài chính hiện nay:
1.1 Khái niệm về ngân hàng:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng theo quy định của Luật tổ chức tín dụng. Trong đó hoạt động của ngân hàng bao
gồm việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh tốn qua tài khoản. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.


7

download by :


Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về quy mô tài sản, số lượng các ngân hàng.
1.2 Vai trò của ngân hàng trong hệ thống tài chính tiền tệ:
- Trung gian tài chính:

Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm đầu
tư dưới hình thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng.
Hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời có
nhu cầu chi cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập/hoặc vốn hiện có, vì vậy phát
sinh nhu cầu bổ sung vốn và (2) các cá nhân và tổ chức có thu nhập/hoặc vốn hiện tại
lớn hơn các khoản chi cho hàng hóa, dịch vụ, vì vậy có tiền để tiết kiệm. Tiền sẽ chuyển
từ nhóm thứ (2) sáng nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy lợi nhuận là động
lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Dòng tiền di chuyển với điều kiện phải
quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó quan hệ
tín dụng. Nếu khơng thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.
Thơng qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế,
ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh
tế. Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trị là người đi vay vừa đóng vai trò là
người cho vay. Với vai trò là trung gian tín dụng, ngân hàng đã góp phần tạo lợi ích cho
tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình dưới
hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo cho

họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh
tốn mà khơng phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng
vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ
chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng mơi giới. Lợi nhuận
này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.

8

download by :


Đối với nền kinh tế, vai trò trung gian tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất
được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với vai trò này, ngân hàng
thương mại đã biến vốn nhàn rỗi khơng hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích q
trình ln chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Vai trị trung gian tín dụng được xem là vai trị quan trọng nhất của ngân hàng vì nó
phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các vai trò khác.
- Trung gian thanh toán:
Khi ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay – trung gian tài chính – tất yếu, dẫn đến cơ sở
của thanh toán hộ. Trước tiên là thanh toán hộ giữa những khách hàng có tiền gửi ở
cùng một ngân hàng, sau đó mở rộng ra khi hệ thống thanh tốn liên ngân hàng hình
thành. Ngân hàng thực hiện thanh tốn giá trị hàng hóa và dịch vụ theo lệnh của khách
hàng.
Hàng triệu khách hàng mở tài khoản và gửi tiền tại ngân hàng là cơ sở để ngân hàng trở
thành trung gian thanh tốn lớn nhất và có thể duy nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Ngân hàng là đơn vị làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh tốn theo u cầu

của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các
khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng đóng vai trị là người "thủ quỹ" cho
các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
Ngân hàng thực hiện vai trị trung gian thanh tốn trên cơ sở thực hiện vai trị trung
gian tín dụng vì tiền đề để khách hàng thực hiện thanh tốn qua ngân hàng chính là một
phần tiền gửi trước đó. Việc các ngân hàng thực hiện vai trị trung gian thanh tốn có ý
nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương
mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi. Nhờ đó, các chủ
thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải
thanh toán và lại đảm bảo được việc thanh tốn an tồn. Qua đó, chức năng này thúc
đẩy lưu thơng hàng hố, đẩy nhanh tốc độ thanh tốn, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp
phần phát triển kinh tế. Đồng thời, việc thanh tốn khơng dùng tiền mặt qua ngân hàng
đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thơng, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thơng tiền
mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản tiền...

9

download by :


Đối với ngân hàng, vai trị trung gian thanh tốn này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho
ngân hàng thơng qua việc thu lệ phí thanh tốn. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn
cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Vai trị này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương
mại.
- Tạo phương tiện thanh tốn:
Tiền có chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Hệ thống ngân hàng tham
giao tạo nên phương tiện thanh toán là tiền ghi sổ. Các ngân hàng không tạo được tiền
kim loại. Ban đầu các ngân hàng đã tạo ra tiền giấy thay cho tiền kim loại dựa trên số

lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã
thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thơng và phương tiện cất trữ, nó trở thành
tiền giấy. Với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dấn đến việc Nhà nước tập
trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài Chính hoặc là Ngân
hàng Trung ương, chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc cho
riêng mình.
Như vậy, khi có sự phân hố trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian khơng cịn thực hiện chức
năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với vai trò là trung gian tín dụng và
trung gian thanh tốn, các ngân hàng thương mại vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng
(hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân
hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao
dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, ngân hàng sử dụng để cho vay bằng
chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại ngân hàng một phần khi
những người sử dụng tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn. Quá trình này tiễp
diễn trong hệ thống ngân hàng và tạo nên một lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở
rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của cơng chúng.
Với vai trị là phương tiện thanh tốn, hệ thống ngân hàng đã làm tăng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng

10

download by :


khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do ngân hàng trung ương
phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân

hàng thương mại tạo ra.
Vai trò này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thơng tiền tệ. Một
khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền
của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Như vậy, vai trị tạo phương tiện thanh tốn của ngân hàng được phát sinh dựa trên vai
trị trung gian tài chính (huy động và cấp tín dụng) và vai trị trung gian thanh tốn. Khi
thực hiện các vai trị này, hệ thống ngân hàng tham gia cung tiền, tác động tới lượng
tiền cung ứng, qua đó tới lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Các vai trò nêu trên của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau,
trong đó vai trị trung gian tín dụng là vai trò cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện
các vai trò sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt vai trị trung gian thanh tốn và
chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín
dụng.
2. Vai trị của con người trong hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay:
Nếu đặt vấn đề các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nói
chung, hệ thống ngân hàng nói riêng trong giai đoạn hiện nay - thời đại của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, các quan điểm và định hướng đều tập trung vào giải pháp cơng
nghệ. Điều này hồn tồn khơng sai, bởi phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.

Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý hoạt động ngân hàng, có thể nói, nguồn nhân lực mới là
yếu tố quan trọng và có ý nghĩa chiến lược khơng chỉ đối với hiệu quả hoạt động, mà
còn tạo ra sự khác biệt trong tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nguồn nhân lực - yếu tố tạo sự khác biệt của các ngân hàng ảnh 1
Ơng Tơ Duy Lâm, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh TP.HCM
Thực tế cho thấy, sự khai thác và sử dụng tốt yếu tố nguồn nhân lực đã tạo cho các định
chế tài chính nước ngoài lợi thế cạnh tranh và hiệu quả hoạt động vượt trội trong

11

download by :



nhiều năm qua, từ đó trở thành bài học kinh nghiệm trong phát triển của các tổ chức tín
dụng (TCTD) trong nước.
Với ý nghĩa đó, bài viết đặt vấn đề phân tích vai trị và ý nghĩa tạo ra sự khác biệt của
yếu tố nguồn nhân lực trong tăng trưởng và phát triển của các TCTD giai đoạn hiện nay
dựa trên 4 phương diện:
Thứ nhất, con người - yếu tố quyết định sự tăng trưởng ổn định và bền vững đối với
mỗi ngân hàng, cũng như toàn bộ hệ thống TCTD.
Nhìn lại giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế nói chung và khó khăn của hệ thống
ngân hàng nói riêng giai đoạn 2008-2012, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng lợi ích nhóm, cũng như làm phát sinh các vụ án liên quan đến hoạt động ngân
hàng đều có yếu tố con người.
Những TCTD hoạt động yếu kém, ngồi ngun nhân khách quan, có ngun nhân chủ
quan và xuất phát từ con người, đó là năng lực cán bộ, trình độ quản lý, đạo đức nghề
nghiệp... yếu kém. Tác động tiêu cực từ yếu tố này chính là rủi ro cho các TCTD.
Ngược lại, các TCTD có nguồn nhân lực chất lượng, chiến lược kinh doanh cũng như
năng lực quản lý, quản trị kinh doanh hiệu quả, tuân thủ kỷ luật thị trường… dù chịu tác
động của khủng hoảng, nhưng khó khăn chỉ mang tính khách quan và trong ngắn hạn.
Qua giai đoạn khó khăn sẽ dần ổn định trở lại, rồi tiến đến tăng trưởng và phát triển.

Thứ hai, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực sẽ tạo ra sự khác biệt trong cạnh
tranh, thúc đẩy hoạt động tín dụng tăng trưởng.
Lợi ích mà nguồn nhân lực mang lại là rất lớn và không bị giới hạn như các nguồn lực
khác, bởi sự năng động, khả năng sáng tạo của yếu tố này luôn tồn tại và có khả năng
tạo ra những khác biệt lớn cho các TCTD để phát triển: Đề ra chiến lược kinh doanh
đúng đắn, kỹ năng quản trị tốt, sáng tạo trong phát triển sản phẩm, dịch vụ tiện ích và

12


download by :


đổi mới không ngừng… Một TCTD sở hữu nguồn nhân lực chất lượng sẽ có được các
giá trị tích cực này, từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh cao và khác biệt so với các TCTD
khác.
Mặt khác, việc sử dụng hiệu quả yếu tố nguồn nhân lực còn cho phép các TCTD tiết
giảm tối đa các chi phí như chi phí đầu vào, chi phí quản lý, nâng cao năng suất lao
động…, từ đó trực tiếp nâng cao hiệu quả kinh doanh, cũng như hiệu quả của công tác
quản trị điều hành.
Thức ba, nguồn nhân lực chất lượng góp phần xây dựng thương hiệu, tạo lập và củng
cố niềm tin thị trường.
Cùng với các nguồn lực khác (vốn, công nghệ…), nguồn nhân lực sẽ quyết định và tạo
nên sự khác biệt giữa các TCTD trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và ngân
hàng. Điều này phản ánh trên 2 yếu tố:
Nguồn nhân lực - yếu tố tạo sự khác biệt của các ngân hàng ảnh 2
Thương hiệu của tổ chức tín dụng gắn chặt với yếu tố con người, với văn hóa và phong
cách giao dịch
Một là, nguồn nhân lực quyết định việc khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn,
cơng nghệ để TCTD có thể phát triển. Với các doanh nghiệp, trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc sử dụng hiệu quả vốn, công nghệ sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp đó.
Tuy nhiên, với các TCTD, điều này cịn đặc biệt hơn và có ý nghĩa sống cịn, khi mỗi
quyết định cho vay, đầu tư hoặc cung cấp dịch vụ cho khách hàng…, đều tiềm ẩn rủi ro
và phụ thuộc rất lớn vào quyết định đúng đắn của mỗi lãnh đạo, cán bộ ngân hàng nói
riêng và hệ thống quản lý, quản trị kinh doanh ngân hàng nói chung.

13

download by :



Hai là, thương hiệu của các TCTD được hội tụ và quyết định bởi nhiều yếu tố như hiệu
quả kinh doanh ln được duy trì và khẳng định qua nhiều năm; các sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng cung ứng cho khách hàng; năng lực tài chính và vị trí trên thị trường...
Tuy nhiên, thương hiệu của TCTD còn gắn chặt với yếu tố con người, với văn hóa và
phong cách giao dịch, phục vụ khách hàng của mỗi TCTD.
Chính những điều này đã tạo ra dấu ấn riêng có cho ngân hàng, tạo ra sự khác biệt cho
thương hiệu của ngân hàng và trên hết, đó là uy tín và niềm tin của thị trường, của
người dân và doanh nghiệp đối với ngân hàng đó.
Đồng thời, giá trị của yếu tố nguồn nhân lực đã và đang được các nhà đầu tư, đặc biệt là
các nhà đầu tư nước ngoài, quan tâm đánh giá. Đây là một trong những cơ sở để họ đưa
ra quyết định đầu tư vào ngân hàng.
Thứ tư, nguồn nhân lực - yếu tố đảm bảo cho hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu
quả.
Vấn đề quan trọng và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong giai đoạn hiện nay, khi sự
phát triển của nền kinh tế ngày càng cao, công nghệ ngày càng phát triển, tạo ra môi
trường thuận lợi để các ngân hàng phát triển kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch
vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng xuất hiện nhiều thách thức và tiềm ẩn rủi ro, bởi tội phạm
ngân hàng diễn biến ngày càng phức tạp và tinh vi hơn. Điều này địi hỏi các TCTD
khơng chỉ ứng dụng cơng nghệ hiện đại, mà cịn phải phát triển và thực hiện các giải
pháp phịng ngừa, giải pháp an tồn bảo mật trong hoạt động kinh doanh.
Trong đó, vai trị của yếu tố nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định, bao gồm những yêu
cầu từ chất lượng nguồn nhân lực, đạo đức nghề nghiệp, trình độ quản lý, quản trị kinh
doanh, cho đến hệ thống quy định hoàn chỉnh và hiệu quả, tính tuân thủ kỷ luật thị
trường, kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động kinh doanh tiền tệ…

14

download by :



Tất cả những nội dung trên về bản chất đều thuộc yếu tố nguồn nhân lực và do con
người quyết định. Bởi vậy, khai thác và sử dụng hiệu quả yếu tố này không chỉ quyết
định sự thành công của đề án tái cơ cấu lại mỗi ngân hàng, mà còn quyết định sự tăng
trưởng và phát triển bền vững của toàn hệ thống ngân hàng trong giai đoạn hiện nay,
cũng như tầm nhìn chiến lược cho giai đoạn tiếp theo.
KẾT LUẬN
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong sự thống
nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học của con người thì khơng thể giải
thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt động có ý
thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong q trình hoạt động đó
những quan hệ xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành nhân
cách, bản chất con người Mác viết “Con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội”.
Hiện nay vai trò con người được thể hiện rõ trong q trình Cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của đất nước, mà cụ thể hơn là sự đóng góp trong sự phát triển chung của mọi
ngành kinh tế, xã hội đều có yếu tố con người. Do sự giao lưu, kết nối giữa các nước,
các vùng miền với nhau ngày càng sâu rộng, từ đó con người có sự tiếp thu, kế thừa và
phát triển các lĩnh vực để từ đó có sự sáng tạo riêng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác Lênin của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II).
2. Giáo trình triết học Mác Lênin của trường đại học Kinh tế Quốc dân.
3. Tạp chí cộng sản.
4. Báo nhân nhân

15

download by :



5.Giáo trình tiền tệ ngân hàng của trường Học Viện Ngân Hàng
6.Luật số 47/2010/QH12 các tổ chức tín dụng do Quốc hội ban hành ngày 16/6/2010
7.Giáo trình ngân hàng thương mại của trường đại học Kinh tế Quốc dân.

16

download by :



×