Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu thực thi công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.03 KB, 14 trang )

ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐÁP ỨNG U CẦU THỰC THI CƠNG ƯỚC QUỐC TẾ
VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ
Nguyễn Hữu Khánh Linh
Nguyễn Thị Hạnh

TÓM TẮT: Châu Á là khu vực chiếm 90% tổng số vụ án thi hành án tử hình trên thế
giới1. Trong đó, Việt Nam là một trong những quốc gia ở Châu Á còn nhiều quy định về tội
danh áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình, bao gồm 18 tội danh theo Bộ luật Hình sự 2015,
có hiệu lực vào ngày 01/01/2018. Sau khi Việt Nam là thành viên của Công ước ICCPR,
thông qua các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền của Liên hợp quốc, Việt Nam cần xác
định rõ các tiêu chí để thực thi quyền con người theo quy định của Cơng ước ICCPR nói
chung và quyền được sống trong pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Tác giả khơng loại trừ các tiêu chí khác để có thể đảm bảo quyền sống và thực thi
quyền con người trong Công ước ICCPR và pháp luật hình sự Việt Nam. Để thực thi các quy
định về quyền con người nói chung và quyền sống nói riêng, bài viết phân tích các vấn đề
sau: i) Đảm bảo bình đẳng thực chất thể hiện qua việc cung cấp các cách thức tiếp cận
thông tin, cách thức giải quyết vấn đề pháp lý cho người phạm tội. ii) Không phân biệt đối
xử giữa chủ thể bị tổn hại và chủ thể phạm tội.; iii) Được xét xử cơng bằng bởi Tịa án và
cải cách tư pháp nhằm định tội danh đúng mức độ và hành vi.
Vì vậy, dựa vào nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự, thực thi hiệu quả các
tiêu chí thực thi quyền con người, việc áp dụng các biện pháp cắt giảm hình phạt tử hình và
bãi bỏ hình phạt tử hình trong tương lại là xu hướng hiện nay của Việt Nam.
Từ khóa: quyền con người, hoạt động tư pháp, hình sự.
ABSTRACT: Asia accounts for 90% of all death penalty cases in the world. In
particular, Vietnam is one of the countries in Asia that still has many regulations on the
crime of applying the highest penalty of death, including 18 crimes under the 2015 criminal


ThS., GV Khoa Luật quốc tế, Trường Đại học Luật, Đại học Huế; Email:
ThS., GV Khoa Luật quốc tế, Trường Đại học Luật, Đại học Huế; Email:


1
Giáo Sư Pip Nicholson, Tổng Quan về Hình Phạt Tử Hình và Cắt Giảm Hình Phạt Tử Hình ở Châu Á,
Trung tâm Luật Châu Á, Đại học Luật Melbourne, tr.4.
530



law, which come into effect in January 2018. After becoming a member of the ICCPR
Convention, through the recommendations of the United Nation’s Human Rights
Commission, Vietnam should clearly define criteria to ensure human rights according to the
regulation of the ICCPR Convention in general and the right to live in Vietnamese criminal
law in particular.
The author does not exclude other criteria to be able to guarantee the right to life and
execute the human rights under ICCPR Convention and Vietnamese criminal law. To
enforce human rights regulations in general and the right to life in particular, this article
analyzes the following issues: i) Ensure intrinsic equality through the provision of methods
to access information, solve legal problems for offenders. ii) No discrimination between the
harmed subject and the offender; iii) Fair trial by Court and judicial reform to condemn the
correct degree of crime and behavior.
Therefore, based on the humanitarian principle in criminal law to effectively execute
human rights criteria, apply measures to reduce the death penalty, and abolish the death
penalty in the future is the current tendency of Vietnam.
Keywords: Human rights, judicial activities, Vietnamese criminal law.
1. Các quy định quốc tế về hình phạt tử hình và khuyến nghị cho Việt Nam
Khuôn khổ pháp lý quốc tế về bãi bỏ hình phạt tử hình đã được các cơ quan của Liên
hợp quốc và các cơ chế khu vực về quyền con người phát triển và hoàn thiện qua từng thời
kỳ. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) là văn kiện pháp lý đầu tiên
quy định về nghĩa vụ các quốc gia trong việc bảo đảm quyền sống của con người như một
quyền tối cao. Công ước này kêu gọi các quốc gia thành viên cịn duy trì hình phạt tử hình
giới hạn việc áp dụng hình phạt này chỉ đối với những tội phạm nghiêm trọng nhất với

những điều kiện chặt chẽ. Một dấu ấn quan trọng trên con đường tiến tới bãi bỏ tử hình là
việc Đại hội đồng LHQ thơng qua Nghị định thư về bãi bỏ tử hình vào tháng 12 năm 19892.
Các quốc gia thành viên Nghị định thư này có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để

Eric Neumayer (2008) Bãi bỏ tử hình và Phê chuẩn Nghị định thư tùy chọn thứ 2, Báo quốc tế về Quyền
con người , 12:1, 3-21
531
2


bãi bỏ hồn tồn hình phạt tử hình trong phạm vi quyền tài phán trong hệ thống pháp luật lẫn
trên thực tế.
Theo pháp luật quốc tế hiện hành về nhân quyền, quyền sống là không tuyệt đối. Mặc
dù một số tổ chức quốc tế tranh đấu cho sự bãi bỏ án tử hình như một sự vi phạm quyền
sống, trong luật nhân quyền quốc tế ngày nay, ý nghĩa thực của quyền sống chỉ có nghĩa là
quyền đó khơng thể bị tước đoạt một cách độc đoán3. Nếu theo đúng diễn tiến luật định, cả
về nội dung lẫn thủ tục, án tử hình có thể áp dụng bởi Nhà nước trong phần lớn các quốc gia:
một tòa án đủ thẩm quyền có thể kết án tử hình một người phạm vào một trọng tội do luật có
hiệu lực quy định, theo đúng thủ tục pháp lý, trên căn bản của chứng cứ rõ rệt.
Hiện nay, việc duy trì hay bãi bỏ hình phạt tử hình vẫn cịn là một vấn đề được pháp
luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Tùy thuộc vào tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội và quan điểm của nhà làm luật, ở mỗi quốc gia khác nhau có các quy
định khác nhau về vấn đề này.
Tổ chức Ân xá Quốc tế ghi nhận ít nhất 657 vụ hành quyết ở 20 quốc gia trong năm
2018, giảm 5% so với năm 2018 (ít nhất 690 vụ hành quyết). Con số này thể hiện số vụ hành
quyết thấp nhất mà Tổ chức Ân xá Quốc tế đã ghi nhận trong ít nhất một thập kỷ. Tính đến
năm 2018, có 142 quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình (trong hệ thống pháp luật và trên thực
tế); chỉ còn 56 quốc gia vẫn duy trì và áp dụng hình phạt tử hình trong hệ thống pháp luật
của mình4. Mặc dù phạm vi áp dụng hình phạt tử hình ngày càng được thu hẹp, Việt Nam
vẫn là một trong những quốc gia cịn duy trì hình phạt tử hình đối với một số tội phạm. Vì

vậy, việc bãi bỏ hình phạt tử hình, trong đó có việc phê chuẩn Nghị định thư về bãi bỏ hình
phạt tử hình là một trong những chủ đề quan tâm mà các cơ chế về quyền con người của
LHQ, bao gồm cả Cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) và cơ chế điều ước, thường nêu ra đối
với Việt Nam.
Theo cơ chế của Hội đồng Quyền con người, Việt Nam đã nộp các Báo cáo quốc gia về
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam và tham gia đối thoại tại ba chu kỳ UPR
vào các năm 2009, 2014 và 2019. Trong lần thực hiện Báo cáo UPR lần thứ nhất, Việt Nam
3

William A. Schabas, Luật quốc tế và sự bãi bỏ tử hình, 55 Wash. & Lee L. Rev. 797 (1998),
. wlu.edu/wlulr/vol55/iss3/10
4
Giáo Sư Pip Nicholson, Tổng Quan về Hình Phạt Tử Hình và Cắt Giảm Hình Phạt Tử Hình ở Châu Á,
Trung tâm Luật Châu Á, Đại học Luật Melbourne, tr.10.
532


nhận được 93 khuyến nghị, trong đó có 8 khuyến nghị liên quan đến hình phạt tử hình. Việt
Nam đã tiếp nhận 3 khuyến nghị trong 8 khuyến nghị này, bao gồm sửa đổi luật về hình phạt
tử hình, giảm số lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình và hạn chế việc thi hành
án tử hình. Trong số 227 khuyến nghị mà Việt Nam nhận được trong lần Báo cáo UPR chu
kỳ II vào năm 2014, có 29 khuyến nghị liên quan đến hình phạt tử hình, trong đó có 6
khuyến nghị kêu gọi Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư về bãi bỏ hình phạt tử hình. Hội
đồng Quyền con người cũng khuyến nghị Việt Nam hạn chế hình phạt tử hình theo hướng
chỉ áp dụng hình phạt này đối với những tội phạm nghiêm trọng nhất và áp dụng cơ chế tạm
ngừng thi hành án tử hình với ý định là sẽ bãi bỏ hình phạt tử hình. Các quốc gia thành viên
của Hội đồng cũng khuyến nghị Việt Nam có biện pháp để cơng bố các số liệu về việc áp
dụng hình phạt tử hình. Việt Nam đã tiếp nhận những khuyến nghị về việc tiếp tục giảm số
lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình và tiến đến việc tạm ngừng thi hành án tử
hình và bãi bỏ hình phạt tử hình.

Tại Phiên đối thoại UPR chu kỳ III năm 2019, Việt Nam nhận được 291 khuyến nghị
từ 118 quốc gia. Trong số các khuyến nghị này, có 9 khuyến nghị từ 20 quốc gia về vấn đề
hình phạt tử hình5. Việt Nam cũng là thành viên của hai điều ước quốc tế trực tiếp liên quan
đến hình phạt tử hình là ICCPR và CAT. Theo các điều ước này, một trong những vấn đề mà
Việt Nam nhận được các khuyến nghị nhiều nhất là hình phạt tử hình, bao gồm cả các
khuyến nghị về việc phê chuẩn Nghị định thư về bãi bỏ hình phạt tử hình, các khuyến nghị
về giảm việc sử dụng hình phạt tử hình trong luật, áp dụng cơ chế tạm ngừng thi hành án tử
hình và bãi bỏ hình phạt tử hình.
Uỷ ban đã kêu gọi Việt Nam giảm và hạn chế số lượng các tội danh có thể phải chịu
hình phạt tử hình và chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội được coi là những tội
nghiêm trọng nhất được quy định tại Điều 6 (2) và hướng đến mục tiêu dần bãi bỏ hình phạt
tử hình. Vấn đề này cũng đã được nhắc lại trong bản khuyến nghị kết luận về Báo cáo quốc
gia lần thứ ba của Việt Nam năm 2019 về việc thực hiện ICCPR cùng với các khuyến nghị
về việc xem xét tạm ngừng áp dụng hình phạt tử hình và phê chuẩn hoặc gia nhập Nghị định
thư về bãi bỏ hình phạt tử hình và cơng bố các số liệu chính thức về án tử hình.
5

United Nations Human rights Council, Universal Periodic Review - Viet Nam:
/>533


Trong bản khuyến nghị, Ủy bản nhân quyền khuyến nghị VN thực hiện một số vấn đề
liên quan đến quyền được xét xử công bẳng, bao gồm: các khuyến nghị liên quan đến “Tính
độc lập của cơ quan tư pháp và xét xử công bằng” (đoạn 34, 36); các khuyến nghị liên quan
đến “Tư pháp cho người chưa thành niên” (đoạn 38).
Pháp luật hình sự Việt Nam đã có những sửa đổi theo hướng giảm thiểu số tội danh có
áp dụng hình phạt tử hình và các trường hợp đình chỉ tạm thời án tử hình. Với bối cảnh pháp
lý trong nước như vậy, Việt Nam cam kết việc áp dụng hình phạt tử hình tuân thủ nghiêm
túc các quy định của Công ước về các quyền dân sư và chính trị.
Một trong những khuyến nghị mà Việt Nam khơng chấp thuận, đặc biệt khuyến nghị

của Australia, ngừng áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội phạm khơng bạo lực, bao gồm
các tội phạm đến ma túy. Với quan điểm tình hình xã hội Việt Nam cần áp dụng hình phạt tử
hình đủ để có sức răn đe với các tội phạm về ma túy, được xem là một cách thức ngăn ngừa
tội phạm mặc dù chưa có một căn cứ thống kê nào khẳng định việc áp dụng hình phạt tử
hình giúp cải thiện vấn đề ngăn ngừa tội phạm một cách hiệu quả.
2. Những yếu tố tác động đến hình phạt tử hình và xu hướng áp dụng hình phạt tử
hình ở Việt Nam
Mỗi quốc gia cón những điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa riêng. Việt Nam
là một quốc gia có số lượng người theo tôn giáo rất lớn, đặc biệt là Phật giáo và Công giáo6.
Nên triết lý của các tơn giáo này có sự tác động tích cực đến nhìn nhận xã hội đến hạn chế
và bãi bỏ hình phạt tử hình tại Việt Nam.
2.1. Tơn giáo – góc nhìn nhận từ đức tin tín ngưỡng.
a. Cơng giáo
Đức Giáo Hồng Francis gần đây đã kêu gọi bãi bỏ hình phạt tử hình, cũng như tù
chung thân mà Ngài đã mơ tả nó như là một bản án tử hình ẩn dấu7. Đức Giáo Hoàng đã ghi
nhận rằng trong khi các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội Công Giáo khơng loại trừ án
tử hình, nhưng điều đó chỉ được chấp nhận khi khơng có cách nào khác để bảo vệ xã hội,
một lập trường mà dường như không tồn tại ngày nay, nơi các hệ thống công lý và nhà tù
truy cập ngày 20 tháng 05 năm 2021.
Francis X. Rocca, “Đức Giáo Hoàng Francis kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tù chung thân,” Catholic News
Service. Được đăng vào ngày 23 Tháng 10 năm 2014.
(truy cập 28 tháng 10 năm 2014).
534
6
7


hiện đại đã tỏ ra rất có hiệu quả trong việcbảo vệcộng đồng chống lại bọn tội phạmnguy
hiểm8. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng cũng đã gợi ý rằng:các xã hội hiện đại đã sử dụng quá
mức hình phạt dành cho các tội hình sự, điều này xảy ra, một phần vì được bắt nguồn từ xu

hướng cổ xưa muốn trừng trị và hiến tế các tội nhân đã bị cáo buộc tấn công vào cộng đồng.
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội
khơng loại trừ việc nại đến các hình phạt tử hình, nếu đây là cách duy nhất có thể bảo vệ
hiệu quả mạng sống con người nhằm chống lại những kẻ có ý đồ hãm hại người khác một
cách bất công, nhưng những tiến bộ hiện đại trong việc bảo vệ xã hội khỏi những tội phạm
nguy hiểm, không nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải xử tử những tội nhân đã vi phạm các tội
ác ghê ghớm, nếu có đi chăng nữa thì điều này rất hiếm và tưởng chừng khơng bao giờ xảy
ra9.
Hình phạt ántử hình khơng phản ánh trung trực sự tha thứ, niềm hy vọng, và ơn cứu
chuộc, đó chính là trọng tâm của Kinh Thánh10.
b. Phật giáo
Tước đoạt mạng sống của một con người, cho dù đó là một tội phạm dã man, cho dù
nhân danh công lý, cũng luôn gây ra nhiều tranh cãi và quan điểm khác nhau trên thế giới.
Dưới góc nhìn Phật giáo, án tử hình cũng là vấn đề được quan tâm, và được lý giải bởi
một triết lý nhân sinh sâu sắc và đầy từ bi11.
Đạo Phật là con đường chuyển hố khổ đau. Tất cả chúng ta có thể bị chi phối bởi
các cảm xúc tiêu cực và những tâm bất thiện quấy nhiễu hoặc không bị chi phối, có tội hoặc
khơng tội, nhưng nếu biết ứng dụng những phương pháp giáo dục nói trên vào đời sống hàng
ngày, chúng ta có thể thu hoạch được hoa quả của an lạc và hạnh phúc ở ngay đây và bây
giờ trong cuộc sống hiện tại. Giải pháp tốt nhất vẫn là ngăn ngừa hơn là can thiệp. Và

John Berkman and Stanley Hauerwas, “Capital Punishment,” in Paul Barry Clarke and Linzey
(eds.) Dictionary of Ethics, Theology and Society. (New York: Routledge: 1996), p.102.
9
Pope Francis calls for abolishing death penalty and life imprisonment.By Francis X. Rocca, Catholic News
Service.
Published
on
23
October

2014 . (accessed 28 Oct. 2014) and also Pope to
Association of Penal Law: Corruption is Greater Evil than Sin.By Vatican News – 23 October
2014. (accessed 28 October
2014).
10
Jewish-Catholic Consultation, “To End the Death Penalty,” Origin 29 (1999), 463.
11
/>535
8


việc giáo dục cần nên thực hiện trước khi đã bị trừng phạt. Bởi lẽ một nguyên nhân tốt
thường sẽ tạo ra một quả trái lành. Đó là một sự thật xuyên suốt khắp trong kinh điển Phật
giáo. Đạo Phật có lập trường mạnh mẽ chống lạiviệc giết hại nói chung, và trong vài trường
hợp chống lại án tử hình.
Như vậy, Đức Phật hồn tồn khơng chấp nhận hành án tử hình. Khơng có người Phật
tử thuần thànhnào ủng hộ án tử hình cả. Nhưng chúng ta nên hiểu rằng những lời dạy
trong Phật giáo không phải là giáo điều, mà chính là hoa quả của trí tuệ. Đơn giản đó là
những lời khuyên bảo từ Đức Phật với những giải thích rõ ràng tại sao chúng ta khơng
nên sát sanh …, phần lớn đặt trên nền tảng đạo đức và liên quan đến luật nghiệp báo. Lập
trường Phật giáo chống lại án tử hình dựa vào nền tảng triết lý Phật giáo và đồng thời tương
ứngvới thực tế của xã hội12.
2.2. Góc nhìn nhận mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với xã hội văn minh và
phát triển
Xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, với yêu
cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện
nay, đảm bảo quyền con người, nhân đạo hóa các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, việc
nghiên cứu hoàn thiện về hình phạt tử hình trong luật hình sự ở những góc độ khác nhau là
một yêu cầu cần thiết. Trước đây, với quan niệm việc áp dụng hình phạt tử hình là để loại
bỏ những tội phạm nguy hiểm nhất ra khỏi xã hội để nó khơng có cơ hội đe dọa an ninh, hịa

bình và các quyền con người của người khác. Xã hội rất quan ngại mức độ nguy hiểm về
hành vi của người phạm tội.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính thuộc về nội dung của tội
phạm, nó là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được quyết định bởi các yếu tố, như: Tính chất và
tầm quan trọng của khách thể bị xâm hại; Tính chất của hành vi khách quan; Tính chất và
mức độ thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội; Tính chất và mức độ lỗi;
Động cơ, mục đích phạm tội; Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm,...Bởi vậy,
để đảm bảo việc quy định một hình phạt cho một tội phạm mang tính khoa học địi hỏi hình
12

/>536


phạt phải tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Có như thế, hình phạt
mới phát huy hết tác dụng phòng, chống tội phạm cũng như giáo dục mọi công dân tự giác
tuân theo pháp luật. Có những tội phạm cần thiết phải giữ lại hình phạt tử hình, cũng có
những tội phạm đến lúc nên bỏ hình phạt tử hình. Yếu tố này tác động rất lớn đến xu hướng
sửa đổi các quy định pháp luật hình sử ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Nền lập pháp mang tính nhân đạo và xu hướng hội nhập quốc tế
Trong quá trình lập pháp hình sự trước đây, hình phạt tử hình có giá trị răn đe đặc biệt,
không thể thay thế trong việc ngăn ngừa tội giết người hoặc các tội phạm nghiêm trọng
khác. Lối suy nghĩ này xuất phát từ giả thuyết cho rằng, hành vi của mỗi người bị ảnh hưởng
bởi sự sợ hãi, vì vậy, những kẻ có ý định phạm tội sẽ phải nghĩ đến hậu quả mà mình có thể
phải gánh chịu – bao gồm khả năng bị xử tử. Đây được coi là lý lẽ phổ biến mà các quốc gia
đang duy trì hình phạt tử hình đều đưa ra. Hình phạt tử hình dựa trên quan điểm “lấy tội đền
tội” để trừng phạt kẻ phạm tội. Quan điểm này này có tác động đáng kể đến tư duy về hình
phạt tử hình, cả về mặt đạo đức lẫn luật pháp, đó là: người phạm tội phải trả giá nếu như
người đó đã thực hiện một tội nghiêm trọng. Theo đó, hình phạt tử hình được coi là hình
thức bù đắp cần thiết về những mất mát đã gây ra cho nạn nhân và gia đình họ.

Tuy nhiên, theo xu hướng hội nhập quốc tế, tính nhân đạo trong lập pháp của Việt Nam
đã thể hiện rất rõ tại các văn bản pháp luật hình sự quy định về nguyên tắc nhân đạo.
Nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Hình sự. Mục đích
của quy định nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là nhằm bảo đảm những lợi ích tối
thiểu, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm và tính mạng.
Nguyên tắc nhân đạo là cách thể chế hóa quan điểm chính sách vì con người của nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục
nhân cách trong con người là chủ yếu. Trong xã hội ngày nay khi mà nhân loại càng tiến bộ,
xã hội càng phát triển thì phạm vi áp dụng hình phạt tử hình càng có xu hướng thu hẹp, tiến
tới xỏa bỏ hình phạt tử hình. Theo pháp luật các quốc gia cịn lưu giữ hình phạt tử hình, thì
hình phạt này chỉ thường áp dụng cho các tội phạm có tính nguy hiểm đặc biệt cao, xâm
phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng hịa bình thế giới, các tội phạm ma túy, giết người…
Xu hướng nhân đạo, hướng thiện cũng thể hiện trong nhiều quy định của pháp luật
hình sự, cơ sở pháp lý của áp dụng pháp luật hình sự.
537


2.4. Xu hướng áp dụng hình phạt tử hình tại VN
Tính đến tháng 12/2018, có 86 quốc gia đã phê chuẩn Nghị định thư này. Uỷ ban
Quyền con người - cơ quan giám sát việc thực hiện ICCPR - đã đưa ra khuyến nghị kêu gọi
các quốc gia thành viên của ICCPR xem xét gia nhập hoặc phê chuẩn Nghị định thư về bãi
bỏ hình phạt tử hình. LHQ cũng đã thông qua một loạt các Nghị quyết kêu gọi các quốc gia
thành viên áp dụng cơ chế tạm ngừng thi hành án tử hình với ý định là sẽ bãi bỏ hình phạt tử
hình.
Về tính tương thích giữa các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam với Nghị
định thư về bãi bỏ hình phạt tử hình, Việt Nam cần nổ lực hơn nữa trong việc tuân thủ đầy
đủ các chuẩn mực của ICCPR về việc thu hẹp phạm vi và hạn chế áp dụng hình phạt tử hình.
Điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam chưa thể hồn tồn bãi bỏ hình phạt tử hình. Việc bãi bỏ
hình phạt tử hình tại Việt Nam cần nhiều thời gian hơn nữa và một quá trình thay đổi trong
xu hướng lập pháp hình sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Hiện nay các cá nhân, tổ chức ở Việt Nam cho rằng, việc duy trì hình phạt tử hình là
không cần thiết, không hiệu quả, không công bằng và vì vậy, xu hướng phản đối việc duy trì
hình phạt tử hình với những lý do sau:
Một là, việc coi hình phạt tử hình như một biện pháp hiệu quả trong việc răn đe tội
phạm là thiếu căn cứ lý luận và thực tiễn13. Theo tác giả, trên thực tế tác dụng của hình phạt
tử hình và các loại hình phạt khác như chung thân, khơng có ranh giới q rõ ràng đối với
việc răn đe tội phạm. Việc áp dụng hình phạt tù chung thân đối với những người phạm tội
mà bị coi là mối đe dọa cho xã hội sẽ có tác dụng ngăn ngừa những người này tái phạm.
Hai là, hậu quả của thi hành án tử hình là khơng thể khắc phục được nếu có sai phạm
hoặc thiếu sót trong q trình người phạm tội tiếp cận cơng lý trong q trình tiền tố tụng và
xét xử tại Tịa án. Từ đó, việc kết án tử hình oan sai là khơng thể loại trừ khả năng. Thực tiễn
ở Việt Nam đã chứng minh cho vấn đề này trong nhiều năm qua với các vụ kết án tử hình
thiếu căn cứ pháp lý.
Ba là, sử dụng hình phạt tử hình để trừng trị kẻ phạm tội như là một sự bù đắp cho
những mất mát đối với nạn nhân và gia đình của họ là chưa thật sự thỏa đáng. Khơng phải
13

Nick Glipise, Tại sao cần xóa bỏ hình phạt tử hình, báo The Daily Piece,
/>538


tất cả nạn nhân hoặc gia đình của họ đều cảm thấy được đền bù thiệt hại khi những kẻ phạm
tội bị tử hình. Với tâm lý của người thực thi pháp luật, tâm lý đám đông của xã hội khiến cho
mức độ nguy hiểm của hành vi của người phạm tội tăng lên. Từ đó, tâm lý được đền bù thiệt
hại của nạn nhân và gia đình trở thành tâm lý mong muốn của đám đông trong xã hội. Mặt
khác, sử dụng hình phạt tử hình khơng đem đến lợi thế về kinh tế so với sử dụng các hình
phạt khác14. Và vai trị quan trọng của Nhà nước là bảo vệ tính mạng và tài sản của người
dân chứ không phải là tước đoạt quyền sống của họ. Do vậy, Nhà nước khơng nên áp dụng
hình phạt tử hình. Các hình phạt tử hình là thiếu tác dụng, không cần thiết và không thể là
một biện pháp ngăn chặn người vi phạm.

3. Bảo đảm quyền con người liên quan đến hình phạt tử hình trong hoạt động tư pháp
hình sự Việt Nam
3.1. Đảm bảo quyền tiếp cận cơng lý một cách bình đẳng, thực chất cho người phạm tội
Bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận công lý được coi là một trong những nguyên tắc
bản chất của quyền tư pháp và cũng là một trong những đặc trưng cơ bản bảo đảm quyền
con người bằng Tòa án. Điều 10, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR) quy định rằng
"mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một tịa án độc
lập và khách quan" để xác định các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cũng như
về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ. Mọi người đều được đối xử cơng bằng trước tịa án,
được suy đốn vơ tội và được đảm bảo những tố tụng tối thiểu dành cho bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự như được thơng báo khơng chậm trễ và chi tiết bằng một ngơn ngữ mà người
đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn
bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; được xét xử mà khơng bị
trì hỗn một cách vơ lý; được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua
sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những
nhân chứng buộc tội mình và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tịa và
thẩm vấn họ tại tịa;... (khoản 3, Điều 14 Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR). Được bảo vệ bằng một phiên tịa cơng bằng là yếu tố thiết yếu để đảm bảo các
quyền cơ bản của con người như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân.
Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Những điều cần biếtvề hình phạt
tử hình, Nhà xuất bản Lao động, năm 2010, tr. 40.
539
14


Quyền tiếp cận công lý đã được ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp và pháp luật tố
tụng ở nước ta, Chương trình cải cách tư pháp đến năm 2020 và kế hoạch công tác cải cách
tư pháp của ngành TAND đã đặt ra mục tiêu: "Nghiên cứu, từng bước thực hiện đổi mới thủ
tục hành chính tư pháp tại Tịa án theo hướng cơng khai, đơn giản, thuận tiện để người dân
dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện của họ trước Tòa án, người dân khởi kiện ở một Tịa án,

Tịa án có trách nhiệm xác định thẩm quyền giải quyết thuộc cơ quan nào để chuyển hồ sơ
và thông báo cho người khởi kiện biết; công khai hóa thủ tục tiếp cận hồ sơ, cung cấp tài
liệu, thơng tin, trích lục bản án, quyết định của Tịa án theo quy định của pháp luật". Việc
khẳng định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp 2013 với việc hiến
định các giá trị của Nhà nước pháp quyền như quyền con người, quyền tư pháp của Tịa án,
nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ các giá trị đã được ghi nhận của
Tịa án,… có thể thấy mục đích cao cả, trọng tâm của Nhà nước ta hướng tới là vì con người,
vì cơng lý.
Quyền được tiếp cận cơng lý được coi là thước đo bảo đảm cơng bằng và bình đẳng
của mọi người dân trong một xã hội. Sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận cơng lý có thể tạo
ra từ tâm lý truyền thống của người dân trong việc chọn lựa các phương thức bảo đảm quyền
của mình khi có tranh chấp nhưng cũng khơng thể phủ nhận rằng tính hiệu quả của các thiết
chế cơng quyền trong việc bảo đảm quyền con người còn chưa đáp ứng được yêu cầu của
người dân. Việc cải cách tư pháp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật là nhu cầu cấp
thiết bảo đảm quyền con người hiện nay ở Việt Nam.
Quyền bình đẳng trước phiên tịa và tồ án và quyền được xét xử cơng bằng là một yếu
tố quan trọng để bảo vệ quyền con người và là một phương thức thủ tục để bảo vệ pháp
quyền. Điều 14 của Công ước nhằm mục tiêu đảm bảo công lý và là tiền đề để đảm bảo một
loạt quyền cụ thể. Chủ thể phạm tội được quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ như các chủ thể khác. Chủ thể phạm tội có thể là chủ thể xâm phạm đến các quan hệ
khác trong một hoàn cảnh này nhưng chủ thể phạm tội cũng có thể là chủ thể bị xâm phạm
đến các quyền khác trong một hồn cảnh khác. Khơng phân biệt đối xử trực tiếp hoặc gián
tiếp giữa các yếu tố nhà nước và tư nhân làm vô hiệu hoặc làm suy giảm sự bình đẳng về cơ
hội sinh kế. Pháp luật hình sự Việt Nam vẫn đang ghi nhận một số tội danh liên quan đến
540


quan chức nhận hối lộ, tham ơ có quy định hình phạt tử hình. Và dù là chủ thể phạm tội là ai
thì vẫn khơng phân biệt đối xử trong q trình tố tụng15.
Để thực hiện các tiêu chí quyền con người, chính phủ Việt Nam cần chủ động trong

việc hỗ trợ những người bị phân biệt đối xử, ví dụ các tội phạm bị áp dụng hình phạt tử hình
hoặc bị can, bị cáo trong các vụ án nằm trong các định tội danh có áp dụng hình phạt tử
hình.
3.2. Đảm bảo quyền được xét xử cơng bằng bởi Tòa án
Khi một cá nhân bị điều tra và báo cuộc trách nhiệm hình sự, đặc biệt là các tội danh có
áp dụng hình phạt tử hình, cá nhân có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một
tịa án có thẩm quyền, độc lập và khách quan được thành lập theo luật định16.
Cá nhân đó được quyền tiếp cận và bình đẳng trước tịa án và hội đồng xét xử. Quá
trình tố tụng hình sự đúng pháp luật và việc được xét xử công khai bởi các tịa án độc lập và
có thẩm quyền là điều cần thiết. Trong q trình xét xử tại Tịa, bị cáo có quyền được hưởng
ngun tắc suy đốn vơ tội và bảo đảm trong việc xác định tội danh đúng với hành vi và
mức độ nguy hiểm của hành vi do bản thân thực hiện. Đặc biệt, đối với bị cáo là trẻ em và
những đối tượng yếu thế khác, họ đều được hưởng quyền được xét xử công bẳng bởi Tòa án
chuyên biệt dành cho họ. Và mọi phán quyết của Tịa án về hình phạt tử hình bắt buộc được
tòa án cấp cao hơn xem xét để đánh giá, giám sát và rà sốt về tính hợp pháp, đúng nguyên
tắc và tránh oan sai trong kết án tử hình.
Yêu cầu tôn trọng các giá trị của công lý đã và đang mở ra một tư duy mới, một triết lý
tư pháp mới. Tịa án bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người là những vấn đề rất mới khơng
chỉ trong Hiến pháp mà cịn cả trong khoa học và thực tiễn, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu
đem đến nhận thức chung và triển khai thực hiện trên thực tế. Cải cách cơ quan tư pháp
nhằm tăng sự giám sát các hoạt động năng lực của cơ quan tư pháp, khả năng thực thi công
lý và cách thức cải thiện hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp. Việc xét xử cần được tiến
hành một cách minh bạch. Xét xử vừa là quyền hạn vừa là trách nhiệm của có cơ quan tư
pháp trong việc bảo vệ cơng lý. Nên Tịa án phải có trách nhiệm giải trình nếu có những sai
phạm trong q trình tố tụng và xét xử. Đặc biệt là kết án tử hình.
15
16

UN (2012), Tiêu chi Quyền con người – Hướng dẫn đo lường và thực hiện, trích dẫn, tr.84.
Điều 14, ICCPR.

541


4. Kết luận
Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu ủng hộ việc bãi bỏ hình phạt tử hình hiện nay thì
điều quan trọng là Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng
hạn chế áp dụng và tiến tới bãi bỏ hình phạt tử hình. Những bước đi này cũng giúp cho Việt
Nam đáp ứng được các điều kiện cần thiết để gia nhập Nghị định thư về bãi bỏ hình phạt tử
hình vào thời điểm thích hợp17. Qua đó, Việt Nam cần tiến hành ngay lập tức các bước để
bảo vệ tính độc lập và khách quan của cơ quan tư pháp; đảm bảo rằng các cơ quan này có
thể hoạt động độc lập mà không bị can thiệp; và đảm bảo minh bạch và vơ tư trong tiến trình
bổ nhiệm các vị trí tư pháp và kiểm sát. Đảm bảo về xét xử công bằng với người bị giam
giữ, bao gồm việc bị từ chối quyền được hỗ trợ pháp lý, tiếp cận luật sư theo lựa chọn của
đương sự, và đưa ra tòa trong một thời hạn hợp lý; đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị cho
việc bào chữa, và thiếu đảm bảo tính bảo mật trong quan hệ luật sư – thân chủ theo điều 19
của Bộ luật Hình sự.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo nghiên cứu “Khả năng của Việt Nam gia nhập Nghị định thư tùy chọn thứ
hai về Bãi bỏ hình phạt tử hình theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,
2019, tr6.
2. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Cơng Giao, Lã Khánh Tùng, Những điều
cần biếtvề hình phạt tử hình, Nhà xuất bản Lao động, năm 2010, tr. 40.
3. Eric Neumayer (2008) Bãi bỏ tử hình và Phê chuẩn Nghị định thư tùy chọn thứ 2,
Báo quốc tế về Quyền con người , 12:1, 3-21
4. Francis X. Rocca, “Đức Giáo Hoàng Francis kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tù chung
thân,”

Catholic

News


Service.

Được

đăng

vào

ngày

23/4/2021.

truy cập ngày 24/4/2021.
5. John Berkman and Stanley Hauerwas, “Capital Punishment,” in Paul Barry Clarke
and Linzey (eds.) Dictionary of Ethics, Theology and Society. (New York: Routledge:
1996), p.102.

Báo cáo nghiên cứu “Khả năng của Việt Nam gia nhập Nghị định thư tùy chọn thứ hai về Bãi bỏ hình phạt
tử hình theo Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 2019, tr6.
542
17


6. Jewish-Catholic Consultation, “To End the Death Penalty,” Origin 29 (1999), 463.
truy cập ngày 23/4/2021.
7. Nick Glipise, Tại sao cần xóa bỏ hình phạt tử hình, báo The Daily Piece,
truy cập ngày 24/4/2021.
8. Pope Francis calls for abolishing death penalty and life imprisonment.By Francis X.
Rocca, Catholic News Service. Published on 23 October 2014.

(accessed 28 Oct. 2014) and
also Pope to Association of Penal Law: Corruption is Greater Evil than Sin.By Vatican
News – 23 October 2014 truy cập ngày 20/4/2021. (accessed 28 October 2014) truy cập ngày
28/4/2021.
9. Giáo Sư Pip Nicholson, Tổng Quan về Hình Phạt Tử Hình và Cắt Giảm Hình Phạt
Tử Hình ở Châu Á, Trung tâm Luật Châu Á, Đại học Luật Melbourne.
10. UN (2012), Tiêu chi Quyền con người – Hướng dẫn đo lường và thực hiện, trích dẫn,
tr.84.
11. United Nations Human rights Council, Universal Periodic Review - Viet Nam:
truy cập ngày 29/4/2021.
12. William A. Schabas, Luật quốc tế và sự bãi bỏ tử hình, 55 Wash. & Lee L. Rev. 797
(1998), . wlu.edu/wlulr/vol55/iss3/10
13. truy cập ngày 24/4/2021.
14. truy cập ngày 24/4/2021.
15. truy cập ngày 20 tháng 05 năm
2021.

543



×