Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phân tích bài thơ (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 99 trang )

Phân tích bài thơ “Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Sau cách mạng, giọng thơ Huy
Cận vui tươi dạt dào cảm xúc khi viết về cuộc sống mới. Bài thơ “đoàn thuyền đánh cá” ra đời
năm 1958, khi tác giả đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, cũng là lúc miền bắc đang bắt tay xây
dựng cuộc sống mới. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của biển quê hương, sự hài hòa giữa thiên nhiên
và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Cảnh hồng hơn trên biển được miêu tả
bằng một hình tượng độc đáo:
“Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Với phép so sánh “mặt trời như hòn lửa” thật thú vị, nhà thơ đã miêu tả thời khắc hồng hơn
khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ. Hình ảnh nhân hóa “sóng cài then, đêm sập cửa”
khắc họa vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm là tấm cửa khổng lồ hàng ngàn con sóng làm
then đang từ từ đóng lại. Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm
việc. Từ “lại” thể hiện công việc tuần tự, liên tục mỗi ngày của người lao động. Hình ảnh “câu
hát” là để chỉ niềm vui của người đi biển khi lần đầu tiên được làm chủ vùng trời, vùng biển quê
hương. “Câu hát căng buồm” là cách nói khoa trương và nhân hóa diễn tả tiếng hát to khỏe, vang
động của con người khỏe mạnh, yêu đời, say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu
cho Tổ quốc.
Tiếp theo nhà thơ khắc họa cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đồn cá ơi”
Trong lời hát ra khơi, có niềm vui của người lao động. Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của
biển cả. Biển n bình thuận lợi để đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới,
mong muốn công việc đánh cá thu được kết quả tốt đẹp. Hình ảnh so sánh “cá thu như đồn thoi”
và nhân hóa “đồn cá ơi” diễn tả vẻ đẹp sôi động, đầy sức sống của biển. Những đàn cá dệt thành
muôn luồng sáng khiến biển lung linh huyền diệu về đêm. Tiếng gọi thiết tha “cá ơi” thể hiện


mong ước đánh bắt được nhiều cá của người lao động. Tiếp theo nhà thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền
đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Trên mặt biển đó, có một con thuyền đang băng băng lướt đi
trên sóng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”


Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây đã trở thành một con thuyền
đặc biệt có gió là bánh lái, cịn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để
“dị bụng biển”. Công việc buông lưới, thả lưới để đánh cá được dàn đan như một thế trận hào
hùng. Người đánh cá như những chiến sĩ trên mặt trận lao động sản xuất. Tư thế và khí thế của
những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã
trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
Biển giàu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Phép liệt kê “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” nhấn mạnh sự giàu có của biển. Dưới ánh trăng lấp
lánh những con cá tươi ngon càng gợi nên sự trù phú nguồn thủy hải sản vô tận của biển q
hương. Hình ảnh nhân hóa “cái đi em quẫy” còn gợi tả cá như những nàng tiên nữ
đang nhảy múa trên mặt biển trong đêm hội hoa đăng. “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình
ảnh nhân hóa đẹp. Biển cũng mang đầy tâm trạng như muốn hịa nhịp với con người lao động.
Biển khơng những giàu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lịng mẹ. Biển cho
con người cá, ni lớn con người.
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lịng mẹ

Ni lớn đời ta tự thuở nào”
Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là trăng đêm gõ nhịp. Trong đêm
trăng sáng, vầng trăng chiếu xuống mặt nước, sóng xơ bóng trăng gõ vào mạn thuyền thành nhịp
đánh cá. Đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên
biển. Thiên nhiên đã cùng với con người hòa đồng trong lao động. Câu thơ “biển cho ta cá như
lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao động say sưa
thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn. Với người lao động chài lưới biển nặng ân tình, biển là
ngư trường đánh bắt vơ tận mang lại cho con người cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ý thơ thể hiện
tình u, lịng biết ơn của người lao động với biển.
Một đêm lao động với nhịp điệu, khẩn trương, hào hứng hăng say:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Những đơi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những
bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu


bừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới ánh sáng của rạng đơng và lóe lên
màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng
hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con
người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh.
Cảnh đồn thuyền đánh cá trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhơ màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi”
Đồn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hồng hơn trong tiếng hát và trở về vào lúc bình
minh cũng trong tiếng hát. Những câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của một bài ca lao động.
Nếu như tiếng hát lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì tiếng hát sau lại thể hiện sự phấn

khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng say. Họ trở về trong tư thế mới “chạy đua
cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ, sức lực vẫn dồi dào của người
lao động. Đồn thuyền được nhân hóa, cả mặt trời cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết
quả con người đã chiến thắng. Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một cảnh tượng thật
kì vĩ và chói lọi. Con thuyền chở về khống nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu ánh mặt trời
giống như mn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tượng đẹp, huy hoàng giữa bầu trời
và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động.
Bằng thể thơ bảy chữ, giọng điệu thiết tha, sôi nổi, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc,
Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh chân thực về cảnh lao động hăng say, sôi nổi của làng chài ven
biển. Trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hình ảnh những con người lao
động mới luôn là niềm cảm hứng cho thi ca. Bài thơ “đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm hay
ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ tràn ngập niềm vui phơi phới, niềm say sưa hào
hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn chinh phục thiên nhiên bằng cơng việc lao
động của mình. Đây cũng là bài ca ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của thiên nhiên
đất nước qua cái nhìn và tâm trạng hứng khởi của nhà thơ.

Phân tích bài thơ về tiểu đội xe khơng kính của Phạm Tiến Duật
a. Mở bài: Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế
hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Với giọng
thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch, ơng thường viết về đề tài người
lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” được viết năm 1969 khi nhà thơ đang là
một người lính đang trực tiếp tham gia chiến đấu, giữa lúc cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước ở giai đoạn gian khổ ác liệt nhất. Bài thơ khắc họa chân
thực hình ảnh cao đẹp về người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn những
năm chống Mĩ.
b. Thân bài
*Khái quát: Bài thơ đã khắc họa sinh động hình ảnh những chiếc xe vận tải



Trường Sơn và người lính lái xe. Người lính lái xe là những chàng trai mười
tám đôi mươi, hồn nhiên, trẻ trung, vui tươi, sôi nổi. Họ đến từ mọi vùng quê
của tổ quốc, về chung một tiểu đội xe và trở thành người lính lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn những năm chống Mĩ.
Họ được gọi bằng cái tên quen thuộc “người lính lái xe Trường Sơn”, cách gọi
đó đã nói lên phần nào cơng việc của người lính. Họ là người lính lái xe vinh
dự được làm nhiệm vụ điều khiển những chiếc xe vận tải Trường Sơn chở vũ
khí, lương thực, quân trang, quân dụng, thuốc men...chi viện cho chiến trường
miền Nam đánh Mĩ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã lý giải nguyên nhân của những chiếc xe
khơng kính và tư thế của người lính khi ngồi trên khoang lái:
“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Nhà thơ sử dụng hai từ “khơng” để nhấn mạnh hình ảnh ban đầu của những
chiếc xe là có kính chắn gió. Điệp ngữ “bom” kết hợp với động từ mạnh “giật,
rung” đã lí giải nguyên nhân vỡ kính của những chiếc xe. Câu thơ cũng khắc
họa sự hủy diệt khủng khiếp của chiến tranh. “Ung dung” là từ láy gợi tư thế
bình tĩnh, tự tin đàng hồng của người lính lái xe khi ngồi trên ghế lái điều
khiển những chiếc xe vận tải. “Ta” là cách xưng hô từ hào, kiêu hãnh của
những con người dũng cảm kiên cường. Trong bom đạn bủa vây, người lính
vẫn ung dung ngồi trên buồng lái, đó là tư thế hiên ngang của con người làm
chủ hồn cảnh, tư thế của người chiến thắng ln ngẩng cao đầu. Hình ảnh liệt
kê “đất, trời” chỉ khơng gian cao rộng, là vùng trời mảnh đất thân thương của
quê hương đất nước. Điệp ngữ “nhìn” trong câu thơ “nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thẳng” như nhấn mạnh sự tập trung cao, thái độ bình tĩnh, tự tin, gan dạ, dũng
cảm của người lính khi ngồi trên ghế lái. Dù trong bất kì hồn cảnh nào, ánh
mắt của người chiến sĩ lái xe vẫn luôn quan sát xung quanh, hướng về phía
trước. Bốn câu thơ gợi hình ảnh chân thực của những chiếc xe và tư thế hiên

ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, thái độ bất chấp bom rơi đạn nổ tất cả vì
nhiệm vụ, vì miền nam ruột thịt.
Nhà thơ cịn khắc họa thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của
người lính lái xe. Trên chặng đường ngàn cây số tiến vào chi viện cho miền
Nam, người chiến sĩ lái xe phải đối diện với nhiều khó khăn thử thách. Đó là


những thử thách khi ngồi sau tay lái của những chiếc xe khơng cịn kính chắn
gió.
1

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Điệp ngữ “nhìn thấy” nhấn mạnh những khó khăn chồng chất khó khăn và bản
lĩnh đối diện bình tĩnh tự tin, lạc quan của người lính. Người chiến sĩ lái xe
phải thức trắng nhiều đêm để đoàn xe băng rừng vượt suối tiến về phía trước
cho kịp chuyến hàng chi viện tới miền Nam khiến đôi mắt thiếu ngủ xay xè
bỏng rát. Cách nói “mắt đắng” là ẩn dụ diễn tả đơi mắt thiếu ngủ của người
lính. Từ “xoa” là phép nhân hóa gợi tả gió như bàn tay mềm mại, êm dịu xoa
lên đơi mắt cay xè vì thức trắng đêm thâu của người chiến sĩ để làm dịu đi nỗi
vất vả, mệt nhọc. Gió trở thành người bạn đường thân thiết chăm sóc ân cần,
nhẹ nhàng giúp người chiến sĩ luôn tỉnh táo để vững vàng tay lái. “Con đường
chạy thẳng vào tim” là ẩn dụ chỉ con đường cách mạng, con đường cứu nước,
con đường đi đến thắng lợi cuối cùng. Đó là lý tưởng chiến đấu cao đẹp hay
chính là tấm lịng u nước, u đồng bào thiết tha, luôn rạo rực trong tim
người chiến sĩ lái xe.
Người lính lái xe với tinh thần đầy lạc quan cách mạng, coi thường hiểm
nguy gian khó coi thường bom đạn của kẻ thù. “Gió, con đường, sao trời,

cánh chim” là hình ảnh liệt kê vừa hiện thực, vừa lãng mạn, diễn tả người
chiến sĩ được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngồi qua ơ cửa kính xe đã
vỡ. Tất cả thiên nhiên, cảnh vật bên ngồi đều trở nên thân thuộc, gần gũi với
người lính. Họ ln rộng mở tâm hồn mình giao hịa với thiên nhiên.
Người lính cịn bộc lộ tinh thần lạc quan cách mạng. Trong gian khó, vẻ đẹp
tinh thần của người chiến sĩ càng được khẳng định, những chàng trai trẻ trung
ấy có lúc đùa vui, tếu táo đến ngang tàng:
“Khơng có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc


Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Những lời thơ mộc mạc như câu nói hàng ngày gợi vẻ đẹp của những chàng
trai sơi nổi. Điệp từ “khơng có”, “ừ thì”, “chưa cần”, biểu hiện thái độ mạnh
mẽ, cương quyết của người lính lái xe Trường Sơn. Kết cấu câu “khơng có-ừ
thì” là để nhấn mạnh thái độ sẵn sàng chấp nhận khó khăn thử thách của người
lính trên ghế lái. “Bụi phun tóc trắng như người già” là cách so sánh độc đáo
nhấn mạnh vẻ bụi bặm của người lính sau hàng trăm cây số lái xe. Bụi đường
bám dày trên mặt, phủ trắng mái tóc khiến họ như già đi trơng thấy. Phì phèo
châm điếu thuốc là hình ảnh gợi những giây phút thảnh thơi hiếm có của người
lính khi dừng chân trên đường. Họ cùng trêu đùa với tiếng cười “ha ha” vui
tươi, hồn nhiên đầy chất lính, là giọng điệu ngang tàng và vô tư của những
chàng trai trẻ giữa núi rừng Trường Sơn.
“Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn, mưa xối như ngồi trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thôi.”
2


Nhà thơ tiếp tục sử dụng những lời thơ mộc mạc như câu nói hàng ngày. “Mưa
tn, mưa xối như ngoài trời” là điệp ngữ và so sánh diễn tả những cơn mưa
rừng ào ạt xối xả tràn vào buồng lái để thử thách lịng kiên trì của người lính.
Dù trời mưa gió, dù thời tiết khắc nghiệt đồn xe vận tải Trường Sơn vẫn bền
bỉ lăn bánh trên đường tiến vào nam. Trước khó khăn học vẫn giữ một thái độ
“khơ mau thơi” vẫn hài lịng, sẵn sàng chấp nhận những khó khăn gian khổ.
Cuộc sống và chiến đấu của họ vô cùng giản dị mang hơi thở của đời thường
nhưng rất cao đẹp, đáng trân trọng, ngợi ca. Người chiến sĩ lái xe liên tục phải
đối mặt với hiểm nguy trên tuyến đường Trường Sơn, tất cả khơng hề khiến
họ sờn lịng nản chí, họ xem đó là thử thách của thiên nhiên là nơi để rèn luyện
ý chí, khẳng định sức trẻ vượt Trường Sơn đi cứu nước. Giọng ngang tàng,
tâm hồn trẻ trung, sôi nổi tinh nghịch đậm “chất lính” đã thể hiện thái độ coi
thương gian khổ, bất chấp khó khăn, ngời sáng tinh thần lạc quan, tư thế hiên
ngang dũng cảm
Người lính lái xe cịn có tình cảm đồng chí đồng đội thân thiết cao đẹp.
Trong sự khốc liệt của chiến tranh, chúng ta lại thấy đẹp lung linh tình cảm
đồng chí, đồng đội của những người lính. Dọc theo con đường giải phóng


miền Nam, càng đi càng có thêm bạn, tình cảm tuy mộc mạc mà gắn bó keo
sơn.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Những chiếc xe từ trong bom rơi được tả thực là hình ảnh những chiếc xe
khơng kính mang trên mình đầy dấu vết và thương tích của chiến tranh. Theo
nghĩa liên tưởng gợi ra những hiểm nguy, những khó khăn, gian khổ thiếu
thốn mà dân tộc ta phải trải qua trong của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Những chiếc xe cùng những người lính lái xe từ mọi miền tổ quốc về tụ

họp trong một đoàn quân, trong một tiểu đội. Bạn bè suốt dọc đường: Họ được
sống trong tình cảm bè bạn thiêng liêng, gần gũi như anh em một nhà. “Bắt
tay qua cửa kính vỡ rồi” là hình ảnh hốn dụ. Đó là sự hồn nhiên, trong sáng,
vui tươi đoàn kết như một sự tận hưởng cảm giác thoải mái, tiện lợi khơng cịn
sự ngăn cách giữa những chiếc xe với thế giới bên ngoài. Cái bắt tay thay cho
lời chào, nhanh vội nhưng cũng đủ để thể hiện niềm vui sướng, vui vì những
chiến cơng hay vui vì cả tiểu đội xe khơng kính vừa hoàn thành nhiệm vụ trở
về. Cái bắt tay chúc nhau vạn nẻo đường thượng lộ bình an, gửi đến nhau tình
cảm bạn bè, đồng chí cùng kề vai sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Chỉ cần
một cái bắt tay thơi cũng đủ ấm lịng. Họ nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm,
sức mạnh, nghị lực, động viên nhau vượt qua gian khổ, thúc giục nhau cùng
vững vàng tay lái:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chơng chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Bếp Hoàng Cầm dựng giữa trời: gợi những giờ phút giải lao ngắn ngủi trên
đường. Họ cùng nhau ăn chung bữa cơm đạm bạc, nhanh, vội, khẩn trương
nhưng vui vẻ và ấm áp. Hai tiếng “gia đình” gửi tình cảm đồn kết, gần gũi,
gắn bó yêu thương như người thân ruột thịt trong nhà. Một bữa cơm đạm bạc
trên chặng đường dài của người lính lái xe
3


cũng đủ để họ cảm nhận được khơng khí của mái ấm gia đình ấm áp. Với người
chiến sĩ lái xe, họ là đồng chí, đồng đội là anh em có nhiều điểm chung: chung
hồn cảnh, chung bếp lửa, chung bát đũa, chung nhiệm vụ và nhất là chung
con đường nơi vơ vàn thách thức hiểm nguy phía trước. Họ xích lại gần nhau
trong khó khăn thử thách, tình cảm của họ được tôi luyện qua lửa đạn sẽ trở
nên vững vàng và trở thành vĩnh cửu. “Chông chênh” là từ láy thể hiện tư thế

đung đưa của những chiếc vòng mắc dưới gầm khi xe đang chạy đồng thời
cũng khắc họa con đường gập ghềnh từng ngày bị bom đạn cày xới. Điệp khúc
“lại đi, lại đi” như khúc nhạc hành quân vang lên trên đường ra mặt trận. Con
đường và lần lượt, lần lượt, từng chiếc xe không kính tiến lên, đến với chiến
trường miền Nam ruột thịt. “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện bầu trời tự
do, bầu trời hịa bình, bầu trời của chiến thắng, là niềm tin tuyệt đối về một
ngày mai chiến thắng. Lời thơ thể hiện khát vọng về cuộc sống hịa bình, tự do,
hạnh phúc.
Nhà thơ cịn khắc họa lịng quyết tâm chiến đấu của người
lính lái xe. “Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn,
Khơng có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Phép liệt kê “kính, đèn, mui, thùng” nhấn mạnh các bộ phận trên những chiếc
xe bị tàn phá nặng nề. Sự khốc liệt của chiến tranh đã được tái hiện một hình
ảnh chân thực đến trần trụi của những đồn xe khơng kính vận tải Trường Sơn
những năm chống Mĩ. Điệp ngữ “khơng có” như nhấn mạnh khó khăn chồng
chất để thử thách tay lái của người lính. Đó là hình ảnh đối lập đầy bất ngờ
của mối quan hệ giữa người và xe, giữa vật chất với tinh thần, giữa cái không
và cái ln sẵn có. Người lính trở thành trái tim, là linh hồn, làm nên sức sống
bất diệt cho những chiếc xe vận tải. Dù khơng kính, khơng đèn, khơng mui,
thùng có xước, dù khơng có những điều kiện thiết bị đảm bảo an tồn nhưng
vì nhiệm vụ những chiếc xe vẫn bon bon ra chiến trường. Bom đạn quân thù
có thể làm biến dạng xe nhưng không thể đè bẹp được tinh thần chiến đấu của
những người lính lái xe. Đó là một lời khẳng định, một lời thề sắt đá của người
chiến sĩ.Đồn xe khơng dừng bánh bởi phía trước là miền Nam u dấu đáng
chờ đón. Hình ảnh “trái tim” là một hốn dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, lấy
“trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe. Câu thơ cuối như một lời khẳng định
sắt đá, một lời hứa, một lời quyết tâm đánh giặc.
*Đánh giá chung



- Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên như lời nói hàng
ngày, hình ảnh sáng tạo, độc đáo. Bài thơ kết hợp giữa giọng điệu trẻ trung sôi
nổi với phong cách ngang tàng làm nên chất lính. Những phép tu từ đặc sắc
được kết hợp hài hòa tạo nên sự rắn rỏi cho ý thơ.
c. Kết bài: “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” đã xây dựng thành cơng hình
ảnh những người chiến sĩ lái xe với trái tim rực lửa, nồng nàn yêu nước. Họ là
hình ảnh tiêu biểu của tuổi trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn huyền
thoại những năm đánh Mĩ. Bài thơ như thúc giục thế hệ trẻ hôm nay hãy nối
tiếp truyền thống yêu nước, nối tiếp xứng đáng truyền thống của cha anh. Bài
thơ như làm sống lại trong chúng ta về một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”.
4
Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương
Y Phương là nhà thơ người dân tộc Tày. Ông thường viết về đề tài cuộc sống
và con người miền núi. Thơ của Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và
trong sáng, cách ví von độc đáo thể hiện tư duy hình ảnh của con người miền núi.
Bài thơ “Nói với con” viết năm 1980 trong giai đoạn đất nước đang say sưa xây
dựng cuộc sống mới. Bài thơ là lời của người cha nói với con về cội nguồn sinh
dưỡng về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và những truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình là lời của người cha muốn nói với con về
cội nguồn sinh dưỡng. Người con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của
cha mẹ “Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Nhà thơ đã sử dụng phép liệt kê “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai
bước” để diễn tả hình ảnh của em bé đang chập chững tập đi, bi bơ tập nói, cha mẹ
đang vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân, tiếng cười của con. Bước

chân là khoảng cách ngắn để diễn tả tình cảm giữa con với cha mẹ là rất gần gũi.
Từng bước con đi, từng lời con nói, từng tiếng con cười đều được cha mẹ chăm
chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngơi nhà như rung lên trong tiếng nói, tiếng cười của
cha mẹ. Trong bốn câu thơ đầu, qua cách ví von độc đáo đó cha muốn nói với con
rằng: con sinh ra và lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong
chờ của cha mẹ. Những hình ảnh đầm ấm, những âm thanh vui tươi là những biểu
hiện của một khơng khí gia đình hạnh phúc có cha, có mẹ, có con.


Bên cạnh tình cảm gia đình gần gũi ấm áp, cha cịn muốn nói con lớn lên trong
cuộc sống lao động tươi đẹp của quê hương. Quê hương thơ mộng nghĩa tình và
cuộc sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con
được bồi đắp thêm theo năm tháng. “Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
Y Phương đã sử dụng cách gọi độc đáo về những con người quê hương. “Người
đồng mình” là một cách gọi rất thân thương và gần gũi. Người đồng mình có thể
hiểu là người vùng mình, người miền mình, người quê mình, người bản
mình....Bằng cách thể hiện cảm xúc trực tiếp, cha muốn nói với con rằng người
đồng mình là những con người đáng u lắm. Người đồng mình có cuộc sống lao
động cần cù, vui tươi, gắn bó. Bằng bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, tài hoa họ “đan lờ cài
nan hoa” tạo ra những hoa văn độc đáo trên những dụng cụ lao động bằng tre nứa
để bắt cá. Vách nhà không chỉ được dựng lên bởi những miếng ghép bằng gỗ mà
còn “ken câu hát” thể
hiện niềm vui trong lao động của người miền núi. Những động từ “đan, len, cài”
khơng chỉ giúp người đọc hình dung được những cơng việc cụ thể của con người
miền núi mà cịn gợi ra tình đồn kết, gắn bó, hồ quyện, quấn quýt của con người
và quê hương.
Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả
một quê hương giàu đẹp, nghĩa tình.

“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.
Nhà thơ sử dụng phép nhân hóa “rừng cho hoa” để nhấn mạnh rừng không
chỉ cho con người những cảnh đẹp thơ mộng mà rừng còn cho con người những sản
vật. “Con đường cho những tấm lịng” là phép nhân hóa, ẩn dụ gợi tả những con
đường thân thuộc tình nghĩa của quê hương. Đó khơng chỉ là con đường đi xi về
ngược mà trên con đường ấy con sẽ được gặp gỡ
bao người, được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, che chở của những tấm
lịng nhân hậu, bao
dung. Nhìn con lớn khơn, cha lại nhớ về “ngày cưới”, ngày đầu tiên đẹp nhất, ngày
hạnh phúc không thể nào quên của cha mẹ để hơm nay con chính là kết quả của tình
u, hạnh phúc. Cha đã nói với con chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun


đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người miền núi. Gia đình, q hương chính là
mạch nguồn mạch u thương cho con nghĩa tình, che chở, ni dưỡng, bồi đắp tâm
hồn cho con khơn lớn.
Tiếp theo cha cịn muốn nói với con về những truyền thống tốt đẹp của
quê hương và những phẩm chất cao quý của người đồng mình.
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa ni chí lớn
Bằng cảm xúc trực tiếp, cha nhắc lại cho con người đồng mình khơng chỉ
đáng u mà cịn thân thương lắm. Họ biết lấy chiều cao của núi để đo nỗi buồn,
lấy chiều dài của con đường để ni ý chí. Trước cuộc sống cịn nhiều khó khăn,
họ vẫn mang phẩm chất của con người bền gan vững chí.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá khơng chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sơng như suối
Lên thác xuống ghềnh
Khơng lo cực nhọc”
Hình ảnh “sống trên đá”, “sống trong thung” để nói về cuộc sống dẫu cịn
nhiều khó khăn vất vả nhưng họ vẫn “không chê đá gập ghềnh”, “không chê thung
nghèo đói” thể hiện tình cảm gắn bó bền chặt, u quý, trân trọng quê hương. Phép
điệp ngữ “sống” kết hợp với hình ảnh so sánh “như sơng, như suối” đã thể hiện nét
đẹp trong lối sống của con người miền núi. Họ
mang lối sống hồn nhiên, mạnh mẽ, cao thượng, giàu nghị lực và ý chí. Dù cuộc
sống ấy cịn nhiều khó khăn thử thách, lên thác xuống ghềnh họ vẫn khơng lùi
bước. Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như “sông, suối, thác, ghềnh” đã
được người cha dùng với tính chất biểu trưng
cho gian khổ và sức mạnh vượt mọi khó khăn của những con
người miền núi. “Người đồng mình thơ sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Cịn q hương thì làm phong tục”


Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói
đối lập tương phản giữa hình thức bên ngồi và giá trị tinh thần bên trong của người
miền núi. “Thô sơ da thịt” là để chỉ những con người có vẻ đẹp mộc mạc, giản dị
với bàn chân, bàn tay thô ráp. Nhưng họ lại sống mạnh mẽ, hồn nhiên, cao thượng
chẳng hề nhỏ bé. Có thể họ khơng biết nói khéo, khơng biết nói hay…nhưng ý nghĩ
của họ, phẩm chất của họ thì thật là cao đẹp chứa đựng sức sống mạnh mẽ giàu niềm
tin và chí khí. Họ biết “tự đục đá kê cao quê hương”. Việc đục đá là công việc
nặng nhọc khó khăn địi hỏi sức khỏe và nghị lực những người đồng mình đã
làm,vẫn làm. Họ tự xây dựng quê hương bằng bàn tay lao động cần cù, sáng tạo.
Chính họ đã làm nên quê hương với nhiều truyền thống văn hóa và phong tục tập

quán tốt đẹp. Họ là những con người có lịng tự hào, tự tơn dân tộc sâu sắc. Bằng
những lời thủ thỉ tâm tình người cha đã nói với con về quê hương, một vùng q
hương nhọc nhằn vất vả đã ni dưỡng chí lớn cho con. Quê hương với sức sống
giản dị mà mãnh liệt, hồn nhiên mà mạnh mẽ.
Khổ thơ cuối là lời dặn dò của cha trước khi con bước vào cuộc sống:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
“Con ơi”, “nghe con” là cách gọi chân tình, thân thương trìu mến của cha
trước khi con lên đường rời xa quê, bước vào cuộc sống. Cha nhắc lại cho con phải
nhớ mình là người miền núi “thô sơ da thịt”. Con là người mộc mạc giản dị sinh ra
từ miền quê nghèo khó. Nhưng khi con rời xa q hương, bước đi trên đường đời,
hịa mình vào cuộc sống xã hội thì con “khơng bao giờ
nhỏ bé được”. Con không được sống bon chen, giả dối, ích kỷ, tầm thường mà phải
sống chân thật, mạnh mẽ, hồn nhiên, cao thượng. Con phải luôn sống ngẩng cao
đầu, giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình, những
truyền thống cao đẹp của quê hương. Lời dặn dò của cha là lời của thế hệ đi trước
nói với thế hệ đi sau về lối sống cao đẹp. Trong lời dặn dò của cha là mong ước, hy
vọng con phải sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn
con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương xứ sở.
Bằng thể thơ tự do, hình ảnh gần gũi, giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết, sử dụng
nhiều phép tu từ, cách ví von độc đáo mang âm hưởng miền núi, Y Phương đã viết
lên những vần thơ thật đẹp. Bài thơ “Nói với con” là lời của người cha muốn nói
với con về cội nguồn sinh dưỡng và sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương.
Đồng thời qua lời nhắn nhủ cha cũng muốn con cùng các thế hệ mai sau hãy gìn
giữ và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương miền núi để luôn sống


xứng đáng, vững bước trên đường đời.

Đề bài
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật VN trong “Chuyện người con
gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
Bài làm
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được coi là “Áng thiên cổ kì bút”, là một
trong 11 truyện viết về người phụ nữ. Một trong những hình tượng xuyên suốt của
tác phẩm là người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp mà số phận nhỏ nhoi, bất hạnh.
Tiêu biểu trong số đó là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Nhân vật trung tâm
của truyện là nàng Vũ Nương – Người phụ nữ có vẻ đẹp hồn thiện mà phải chịu
bao nỗi oan khiên, để lại nhiều cảm thương cho người đọc
“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong
tập sáng tác này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương,
“Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan
nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định
vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật
dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
Ngay từ lời mở đầu của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã dành những lời trân trọng
nhất để giới thiệu về Vũ Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết “tính đã
thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Dù Nguyễn Dữ không miêu tả Vũ Nương
bằng chi tiết cụ thể mà chỉ qua cụm từ “tư dung tốt đẹp” và hành động của Trương
Sinh: “xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng về làm vợ” cũng đủ để cho người đọc
hình dung về chân dung đẹp đẽ của Vũ Nương vừa đằm thắm, vừa mặn mà – nét
đẹp đặc trưng của người phụ nữ thôn quê ngày xưa.
Nếu người con gái là một bơng hoa, thì Vũ Nương là một bông hoa vừa hữu
sắc vừa toả hương. Nhà văn Nguyễn Dữ đã đặt Vũ Nương vào các tình huống cụ
thể để làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách, phẩm giá của nàng. Đó là người phụ nữ thuỷ
chung son sắt, mang nặng tình nghĩa vợ chồng; một nàng dâu hiếu thảo; một người
mẹ hết mực yêu thương con. Trong cuộc sống vợ chồng, Vũ Nương là người phụ
nữ khéo léo. Nàng ln lựa tính chồng, biết Trương Sinh đa nghi, hay ghen nên
nàng ln “giữ gìn khn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hịa”.

Nàng ln giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền
thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
Vũ Nương là người phụ nữ yêu chồng tha thiết. Khi Trương Sinh đi lính, nàng
đã nói với chồng những lời đằm thắm, chân tình khiến ai cũng ứa hai hàng lệ. Nỗi


mong muốn lớn nhất của nàng là “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy,
chứng tỏ nàng luôn coi trọng, khao khát hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi
cơng danh phù phiếm. Nàng còn tưởng tượng ra những gian lao mà chồng sẽ phải
chịu đựng nơi biên ải trong nỗi khắc khoải, lo lắng, xót xa, nhớ nhung đầy cảm
động: “Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân
triều còn gian lao, rồi thế
chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền
miên lo lắng”. Qua lời nói thuỳ mị, dịu dàng thể hiện ngay từ hình thức câu văn biền
ngẫu từng nhịp đối xứng khoan hoà như nhịp đập trái tim. Nàng cũng bộc lộ nỗi
khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi
người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú!
Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói,
cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu
thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật
đáng trân trọng biết bao!
Khi vắng chồng, Vũ Nương ln là người phụ nữ thuỷ chung, giữ gìn tiết
hạnh. Nguyễn Dữ miêu tả thật xúc động nỗi niềm thương chồng, nhớ chồng triền
miên theo thời gian: “thoắt đã nửa năm mà nỗi buồn góc bể, chân trời khơng thể
nào ngăn được”. Mùa đơng ảm đạm, mây che kín núi, làm lòng nàng dằng dặc buồn
thương. Ngay cả mùa xuân tươi vui, “bướm lượn đầy vườn” cũng không làm lòng
nàng vui lên được. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho
chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cơ đơn vị võ. Tâm trạng nhớ thương,

đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ
trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm khúc )
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương,
vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Hơn nữa,
Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy
tình yêu thương con. Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm
con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con
thơ. Với mẹ chồng, Vũ Nương xứng đáng là một cô con dâu hiếu thảo. Khi chồng
xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà cụ ốm nàng đã hết
sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên lơn để bà


vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi mẹ mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay
tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy có thể cảm thấu cả trời
đất cho nên trước lúc chết người mẹ ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động
viên, trân trọng, đánh giá cao phẩm hạnh của nàng: “Sau này, trời xét lòng lành,
ban cho phúc đức, giống dịng tươi tốt, con cháu đơng đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ con dâu". Tất cả những việc làm đó của
nàng đâu chỉ vì trách nhiệm mà xuất phát từ tình cảm thực sự nàng dành cho mẹ.
Điều đó khiến người đọc không khỏi cảm động. Với bé Đản – đứa con ra đời khi
cha nó đi chinh chiến nên nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng
đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng
chưa khi nào nàng chểnh mảng việc nuôi dạy con cái, nàng cố gắng bù đắp cho
con tất cả. Chi tiết hằng đêm nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản
cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu
vắng tình cảm của người cha.

Không chỉ mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thồng, ở Vũ Nương
cịn có những vẻ đẹp khác đáng trân trọng. Khi Trương Sinh đi lính, bao gánh
nặng dồn cả lên vai Vũ Nương, nàng vừa sinh con, chăm con, chờ chồng, ni
mẹ, lại một
mình lo ma chay khi mẹ chồng nằm xuống. Phải là người phụ nữ đảm đang, tháo
vát và nghị lực lắm, Vũ Nương mới có thể xoay sở, sắp đặt mọi chuyện chu toàn
đến thế. Điều đáng quý ở Vũ Nương là lối sống thuỷ chung, ân nghĩa. Ngay cả khi
trở thành tiên nữ dưới thuỷ cung, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời và thương nhớ
quê nhà. Vừa gặp Phan Lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình, nhà cửa cây cối
thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ gai rợp mắt, nàng đã ứa nước mắt xót thương rồi
quả quyết “tơi tất phải tìm về có ngày”. Cũng vì trọng ân nghĩa, cả cái đức cưu
mang của Linh Phi mà nàng “thề sống chết cũng không bỏ”, nguyện trọn đời, trọn
kiếp ở bên Linh Phi
Vũ Nương cịn có phẩm chất đáng quý nữa là trọng danh dự, sống có tự trọng.
Vì coi trọng thanh danh mà nàng dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch của
mình và cũng vì trọng danh dự, muốn mình khơng phải mang vết nhơ nên trước khi
trẫm mình xuống dịng sơng, nàng đã tắm gội chay sạch và muốn nước sông rửa
sạch nỗi oan khuất cho mình. Bên cạnh đó, Vũ Nương cịn có trái tim nhân hậu, bao
dung. Với Trương Sinh, người chồng đa nghi, tàn nhẫn đã ruồng rẫy, đã khiến nàng
rơi vào bước đường cùng. Vũ Nương trước sau không một lời oán giận. Bị chồng
đánh đuổi nàng chỉ một mực kêu oan: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà
giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....”. Những lời nói nhún nhường tha thiết
đó cho thấy thái độ
trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất
mực của Vũ Nương. Sau này, khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông, nàng đã
hiện lên trên mặt nước lần cuối để gặp chàng, nói lời đa tạ đã giải oan cho mình. Sự


trở về dù trong giây lát cũng đủ cho thấy Vũ Nương có lịng độ lượng, vị tha biết
mấy.

Trong tác phẩm, Vũ Nương hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp: một người
vợ thuỷ chung, một người mẹ đảm đang, một con dâu hiếu thảo, con người trọng
tình trọng nghĩa,...Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt
Nam truyền thống. Có thể thấy, lần đầu tiên trong lịch sử văn học, lấy người phụ
nữ bình dân làm trung tâm của tác phẩm văn học. Nguyễn Dữ đã dùng những ngôn
từ đẹp nhất để ngợi ca phẩm hạnh đáng quý nhất của họ. Đây là tư tưởng tiến bộ
vượt bậc, đi trước thời đại của Nguyễn Dữ. Làm cho tác phẩm của ông mang giá trị
nhân đạo, nhân văn cao cả.Vẻ đẹp của Vũ Nương đã làm đẹp thêm cho kho tàng
văn học viết về người phụ nữ. Nguyễn Dữ không sử dụng bút pháp ước lệ, vẻ đẹp
của Vũ Nương chân thực, giản dị, hết sức đời thường. Nói như Giáo sư Nguyễn
Đăng Na: “Vũ Nương không phải là một trang liệt nữ nhưng mang vẻ đẹp của người
phụ nữ”. Vũ Nương là người phụ nữ có vẻ đẹp hồn thiện cả về tư dung và phẩm
chất.
Vũ Nương được xây dựng như một tấm gương mẫu mực, có thể coi là “khn
vàng thước ngọc” về phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng
hạnh phúc gia đình đã khơng mỉm cười với nàng, đã đẩy nàng vào vòng oan nghiệt
khiến nàng rơi vào vòng bi kịch. Lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng nàng có
“tên trong sổ lính đi vào loại đầu”. Vũ Nương chỉ được sống những phút giây hạnh
phúc ngắn ngủi. Chiến tranh đã chia lìa đơi vợ chồng trẻ. Suốt ba năm, nàng chịu
cảnh vò võ chờ chồng. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu
nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.
“Mặt biếng tơ miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai
(Chinh phụ ngâm khúc)
Ba năm đằng đẵng, một mình vất vả, cáng đáng cơng việc gia đình. Ca dao
xưa có câu:
“Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”

Vũ Nương đã phải thay chồng đảm đương những công việc lớn, thay chồng chăm
sóc mẹ lúc đau ốm, lại lo ma chay khi cụ bà qua đời. Nàng một mình xoay sở vừa
sinh con, vừa chăm con mà không được chồng đỡ đần. Nàng đúng là người phụ nữ
lí tưởng của gia đình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc đồn viên nhưng khi chồng


trở về cũng là lúc Vũ Nương chịu bao oan khuất, bất hạnh
Vũ Nương còn là nạn nhân của sự hiểu lầm, nàng bị chồng nghi ngờ là thất
tiết. Đây là nỗi oan khiên tày trời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thói
thường “đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba
tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh hồ đồ.
Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đã đối xử
với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng
và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can
ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Ngay cả cái quyền tự bảo vệ mình nàng cũng khơng
có. Lời nói của nàng thâu tóm những đau đớn, tuyệt vọng của đời người phụ nữ
khơng biết ngỏ cùng ai: “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong
ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn,
nước thẳm buồn xa…” . Hàng loạt các từ ngữ mang ý nghĩa chỉ sự chia lìa, tan vỡ
được sử dụng: tạnh, tan, rơi, gẫy, rủ, tàn đã cho thấy hạnh phúc gia đình, thú vui
“nghi gia nghi thất” mà cả đời nàng khao khát đã tan vỡ, ngay cả nỗi đau khổ chờ
chồng đến hoá đá như trước kia cũng không thể trở lại được nữa. Tất cả đã tuột khỏi
vòng tay nàng, khiến nàng rơi vào tuyệt vọng.
Bị chà đạp về thể xác, nhục mạ về tinh thần, khơng cịn con đường nào khác,
Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho tấm lịng trong sạch của chính
mình! Cịn gì đớn đau, cịn gì bi thương hơn thế??? Đây là hành động tiêu cực nhưng
xuất phát từ ý thức trọng danh dự ở Vũ Nương. Đối với nàng, phẩm giá, danh dự
còn cao hơn cả mạng sống. Lời than của nàng trước khi gieo mình xuống sơng tự
vẫn như lời nguyền cất lên từ nỗi lòng của kẻ bạc mệnh xấu số, thể hiện sâu sắc thân
phận bi kịch khơng lối thốt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “kẻ bạc

mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con ruồng rẫy, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sơng có linh, xin ngài chứng giám”. Lời than của Vũ Nương thật
thấm thía làm sao. Nó diễn tả nỗi khát vọng đã thành tuyệt vọng của nàng và nước
mắt đồng cảm của Nguyễn Dữ trước nỗi đau khổ, bất hạnh của con người. Mấy trăm
năm đã trôi qua nhưng lời than của nàng cịn vọng đến chúng ta bởi niềm thương
xót.
Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi
bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh.
Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hơn nhân khơng bình đẳng. Vũ Nương vốn
“con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, cịn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương
chỉ cần “nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách biệt ấy cộng
thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến
đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ khơng cần có
chứng cứ rõ
ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc


hơn gì! Nàng phải ln chịu đựng sự xét nét, sự “phịng ngừa q sức” của chồng.
Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều
có chung nỗi bất hạnh như thế!
Kết thúc tác phẩm có thể tạm coi là kết thúc có hậu khi Vũ Nương được cứu
sống, lưu lại tại thuỷ cung. Điều đó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân: “Ở hiền
gặp lành”. Tuy nhiên, kết thúc này vẫn khơng làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm.
Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng sau lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng,
thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa, bóng nàng long lống rồi biến mất”. Như
vậy, Vũ Nương không chết nhưng cũng khơng bao giờ được sống tại q nhà, cịn
được hưởng hạnh phúc gia đình mà nàng ln khao khát. Sự dứt áo ra đi của Vũ
Nương gián tiếp thể hiện thái độ phủ định cõi trần thế, với xã hội phong kiến bất
công đương thời, nơi mà người phụ nữ khơng thể có hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện
bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường,

câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần
nhân đạo.
Tác phẩm đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương – một điển hình sâu
sắc cho số phận bi thương của người phụ nữ trong xa hội cũ. Về mặt nghệ thuật,
Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật Vũ Nương bằng bút pháp lí tưởng hố với vẻ đẹp
hồn thiện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng dùng lối hiện thực hoá để xây dựng nhân vật
bởi Vũ Nương cũng là nhân chứng đau thương cho kiếp đời người phụ nữ trong xã
hội cũ. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc khi nhà văn vừa ngợi
ca nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa cất lên tiếng kêu
bi thương cho số kiếp nhỏ nhoi của họ, vừa lên án, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo
đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng khơng lối thốt.
Nhân vật Vũ Nương là một trong những hình tượng người phụ nữ Việt Nam
đẹp nhất trong văn học trung đại. Cuộc đời, số phận bi thảm của nàng để lại trong
lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm. Đúng như lời Nguyễn Du đã tổng kết:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Trong xa hội hiện đại, người phụ nữ đã dần khẳng định được vị trí của mình nhưng
vẫn rất cần tiếng nói đấu tranh cho bình đẳng giới để cuộc đời người phụ nữ thực sự
là những khúc ca vui.



s



Đề bài: Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích Truyện KiềuNguyễn Du)
Bài làm
Có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa có tác phẩm nào thu hút sự chú ý
của đông đảo người đọc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, chưa có nhân vật nghệ



thuật nào có được nhiều người yêu mến như Thúy Kiều. Mà điều lạ lùng là ở
những lớp người khác nhau, trong những cảnh ngộ khác nhau, người đọc đều bắt
gặp ở Thúy Kiều một điều gì đó của chính thân phận mình, của chính tâm sự mình.
Hình như ở nhân vật Thúy Kiều có tất cả nỗi đau của cuộc đời. Đọc đoạn trích
Kiều ở lầu Ngưng Bích ta sẽ thấy được cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng
hiếu thảo thủy chung của nàng Kiều hay cũng chính là một phần tâm trạng của
nhiều người trong chúng ta!
Sáu câu thơ đầu là cảnh thiên nhiên hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên
lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như
sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác
như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng Kiều
lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khố xn
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Thực ra trong bốn câu thơ đầu tiên chỉ là cảnh nhiên. Đúng hơn là thiên nhiên
ấy hiện ra dưới con mắt con người, con người ấy là nhân vật trữ tình ẩn chìm đi
trong từng dòng từng chữ. Nhân vật ấy bị nhốt trong lầu, cịn tâm hồn khơng bị
khóa trái kia đang hướng tầm nhìn về phía xa, phía trước lầu, đặng giải tỏa cho tâm
linh tù túng, quẩn quanh và bế tắc.
Cảm giác đầu tiên của nhân vật trữ tình kia là sững sờ bắt gặp một bức tranh treo,
một bức tranh trời đẹp đến lạ lùng như một giấc chiêm bao. Có thực bức tranh đó
hay đây chỉ là mộng mơ? Cái đường viền của bức tranh trời kia là “vẻ non xa” mịt
mờ sương khói, cứ như vơ ảnh vơ hình; cịn đường nét trung tâm ở độ tiếp cận
gần là cả một vầng trăng lồng lộng. Cái vầng trăng ấy giờ đây đã trở nên thân thuộc,

thân thiết, thân yêu – “tấm trăng gần tri kỉ”. Biết bao là trìu mến thiết tha trong cái


cách dùng từ “tấm trăng gần” ấy. Giữa cái nơi “bên trời góc bể bơ vơ” trăng đã tự
tìm đến với người lẻ loi làm bầu bạn. Cái vầng trăng âu yếm kia đột ngột hiện ra
với âm điệu trẻ trung, tươi tắn (nhịp 3/3/2). Và thế là Kiều có một điểm tựa tâm linh,
một cái cọc cứu người tưởng như đã chết đuối trong nỗi buồn vô vọng. Thiên nhiên
như thế là đã làm thức tỉnh một con người, làm sống lại một con người. Nhưng khi
con người ấy có lại được những cảm giác thì đau đớn thay lại nhận ra sự đối nghịch:
đất trời thì tươi đẹp hội hè, cịn cuộc đời ơ nhục của bản thân mình thì đâu cịn xứng
đáng “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Vì vậy “bẽ bàng” là cảm nhận đầu tiên
và thấm thía xót xa cho thân phận. “Mây sớm” thì chưa ai kịp trơng, cịn “đèn
khuya” thì lại một mình một bóng. Chưa lúc nào như lúc này, Thúy Kiều ớn lạnh
cho sự cô độc, lẻ loi! Sự khơng giao hịa, khơng ngang bằng, khơng xứng đơi giữa
người và cảnh ấy mới chắt gạn được những xót xa thầm kín, mới thực sự vị xé
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”…Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả một
nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh
đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần nhưng Kiểu vẫn thấy cơ đơn, bẽ bàng bởi lẽ
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Tám câu thơ tiếp theo, Thúy Kiều chẳng thể nghĩ về mình nữa, nàng xót xa cho
những người đã vì mình mà khổ. Cảm giác ấy cứ nhân lên, cứ nghẹn ứ, dâng trào:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trơng mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Người mà nàng nghĩ đến đầu tiên là Kim Trọng, người mà trước lúc chia tay đã ngập
ngừng căn dặn “Gìn vàng giữ ngọc cho hay, cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”.
Ấy thế mà “Lời hoa chưa ráo chén vàng” nàng đã trở thành kẻ phản bội - dù với bất
kì hồn cảnh như thế nào. Với tâm trạng đầy ân hận mà khơng cách gì bù đắp, người
con gái giờ như cánh hoa rơi ấy mới có thể hình dung ra cái cảnh đứt ruột này.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách
đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn
trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu


thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề
nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều
liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột
rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm
thía tình cảnh cơ đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ khơng bao
giờ có thể gột rửa được tấm lịng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim.
Những từ ngữ, hình ảnh chỉ khơng gian và thời gian cách biệt “tin sương”, “rày
trơng mai chờ”, “bên trời góc bể”; những từ ngữ chỉ tâm trạng “tưởng”, “trông”,
“chờ” đã diễn tả sâu sắc nỗi nhớ thương đau đáu khôn nguôi về một mối tình mới
vừa chớm nở đã vội lìa xa…
Tâm trạng đau đớn thương nhớ người yêu hẳn chưa nguôi, Kiều lại chồng
chất thêm nỗi nhớ thương cha mẹ. Nỗi đau của nàng như thấm vào cảnh vật, thời
gian và lịng người:
Xót người tựa cửa hơm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mẩy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ơm.
Lịng thương nhớ cha mẹ của Kiều là lịng thương của đứa con có hiếu. Đây
là tiếng nói của bổn phận, nó có sự xót tủi hiển nhiên khi hình ảnh cha mẹ được gợi
ra như ngọn đèn dầu mong manh trước gió. Hình ảnh ấy như chạm khắc vào thời
gian (Xót người tựa cửa hôm mai) với sự héo hon trông đợi. Nhưng nỗi nhớ
của nàng bâng khuâng man mác nhiều hơn bởi cơng lao cha mẹ cao thì như núi, dài
thì như sơng, và chính vì thế mà nó thường khơng cụ thể (sân Lai, gốc tử…). Cả
đến sự nâng giấc , đỡ đần mẹ cha cũng mang tính ước lệ tượng trưng: quạt nồng ấp

lạnh…
Nhớ chàng Kim, thương cha mẹ rồi Kiều mới nghĩ tới phận mình xót xa “Khi sao
phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”. Tám câu cuối là cảnh xế
chiều, cảnh vật dễ làm cho con người buồn thương da diết: Buồn trông cửa bể
chiều hôm


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×