Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ BIẾN ĐỔI TRONG PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO NHỮNG VẤN ĐỀ NÀY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.5 KB, 10 trang )

Chủ đề:
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ BIẾN ĐỔI TRONG PHƢƠNG THỨC
KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO NHỮNG VẤN ĐỀ NÀY

BÀI LÀM
Quyền lực chính trị là phạm trù xuất phát, nền tảng xuyên suốt và bao trùm
của chính trị; mọi phạm trù chính trị khác đều là sự phát sinh từ phạm trù này.
Nắm lấy quyền lực chính trị là vấn đề trung tâm của mọi cuộc đấu tranh giai cấp,
mục tiêu trực tiếp của mọi chủ thể chính trị. Một giai cấp chỉ có thể hiện thực hóa
được lợi ích của mình khi và chỉ khi giữ được và sử dụng đúng đắn quyền lực của
xã hội mà trọng tâm là quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị cũng như hình thức tổ chức thực hiện quyền lực đó được
quy định bởi bản chất giai cấp; bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp; bởi cơ
cấu giai cấp xã hội thích ứng với cơ cấu của nền kinh tế; bởi trình độ phát triển của
sản xuất, của kinh tế, bởi trình độ phát triển của khoa học- kỹ thuật và cơng nghệ,
bởi trình độ văn hóa chung đặc biệt là trình độ văn hóa chính trị của người dân…
các nhân tố vừa nêu thì ln thay đổi. Quan niệm như vậy trở thành điểm xuất phát
để nghiên cứu sự tiến hóa của quyền lực chính trị cũng như các hình thức tổ chức
thực hiện nó trong các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội có giai cấp.
1. Khái lƣợc chung về quyền lực và quyền lực chính trị
1.1. Khái niệm về quyền lực
Quyền lực là mối quan hệ diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội. Mọi tổ
chức kể cả tổ chức phi chính trị đều có thể coi là một tổ chức quyền lực với
phương thức hoạt động riêng (cách thức ra quyết định và thi hành quyết định). Có
nhiều cách tiếp cận khác nhau về quyền lực, tùy cách tiếp cận mà các nhà nghiên
cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau.
Quyền lực là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong nghiên cứu
về chính trị. Tuy nhiên, đây cũng là một khái niệm phức tạp, gây nhiều tranh luận
giữa các nhà nghiên cứu, do các cách hiểu khác nhau.
1




Dù các định nghĩa về quyền lực đều hàm chứa và phản ánh các phương diện
khác, nhưng ý tưởng căn bản là Quyền lực là năng lực của một chủ thể, buộc chủ
thể khác phải hành động theo ý chí của mình.
1.2. Khái niệm về quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm
thực hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ
giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình chủ yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của một giai
cấp trấn áp các giai cấp khác.
Từ cách tiếp cận về hành vi: Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể
chính trị buộc chủ thể chính trị khác phải hành động theo cách mà chủ thể ra lệnh
mong muốn. Cách tiếp cận này chủ yếu quan tâm đến sự thay đổi hành vi đến mục
đích của việc sử dụng quyền lực trong quan hệ giữa các chủ thể.
Có thể đưa ra một định nghĩa về quyền lực chính trị như sau: Quyền lực
chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình
đối với các chủ thể khác trong xã hội nhằm hiện thực hóa lợi ích của bản thân.
2. Kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
Việc kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam bắt nguồn từ nguồn gốc của
quyền lực và từ nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị. Đây là nhu cầu
khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền. Việc
kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, xã hội càng
trở nên hiện đại, tổ chức quyền lực nhà nước lại càng phải có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm sốt. Đây là một u cầu khách quan do sự phân công lao động xã
hội, do tính chun nghiệp hóa của hoạt động quyền lực.
Với những đặc điểm và những biến đổi của quyền lực chính trị trong xã hội
hiện đại, cách thức kiểm sốt quyền lực cũng phải thay đổi: cách thức kiểm soát

bên trong là khơng đủ mà cần có sự kết hợp các hình thức kiểm sốt khác nhau.

2


- Cơ chế kiểm soát bên trong hệ thống nhà nước, thực hiện dựa trên sự phân
công quyền lực trong nội bộ bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực bên trong tổ
chức quyền lực nhà nước (giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước: giữa
lập pháp, hành pháp và tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và địa
phương). Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước.
- Cơ chế kiểm sốt bên ngồi hệ thống nhà nước là q trình nhân dân kiểm
sốt quyền lực nhà nước dựa trên mối liên hệ giữa nhân dân (chủ thể của quyền lực
nhà nước) và nhà nước (chủ thể nhận ủy quyền, thực hiện quyền lực nhà nước).
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý.
- Ngồi ra, cịn cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước bởi đảng chính trị cầm
quyền (kiểm sốt quyền lực dựa trên quan hệ lãnh đạo - quản lý). Xuất phát từ bản
chất của hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nên kiểm soát quyền lực nhà
nước là kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước quản
lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối quan hệ tất yếu lịch sử và khách quan ở nước ta.
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế cả về lý luận và thực tiễn. Chúng ta không thiếu cơ chế kiểm sốt quyền
lực mà chính là cơ chế kiểm sốt quyền lực được xây dựng và thực thi cịn hình
thức và kém hiệu quả. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử còn mờ nhạt,
sức ảnh hưởng đối với các chủ thể bị giám sát không lớn. Hiệu lực sau giám sát
chưa cao, chế tài chưa đủ mạnh. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên trong việc giám sát, phản biện chưa thực sự được coi trọng đúng mức, tiếng
nói của các tổ chức này có sự ảnh hưởng khơng lớn, khơng đủ khả năng bảo vệ các

lợi ích hợp pháp của các thành viên mà nó đại diện. Các phương tiện thơng tin đại
chúng cịn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động giám sát, quyền tiếp cận thơng tin
cịn bị hạn chế; các thiết chế làm chủ của nhân dân còn hình thức, chung chung và
khó thực hiện.

3


Có thể thấy, ở Việt Nam, kiểm sốt quyền lực nhà nước là chưa đủ mà kiểm
sốt quyền lực chính trị cịn phải là kiểm sốt quyền lực chính trị từ cơ quan cao
nhất (kiểm soát quyền lực của Đảng). Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất (cũng tức là quyền lực dân cử cao nhất) sẽ có quan hệ với Đảng
(quyền lực thực sự cao nhất) như thế nào? Thực tiễn cho thấy, Đảng ta là đảng duy
nhất cầm quyền, thực hiện vai trị cầm quyền. Thế nhưng việc kiểm sốt quyền lực
ngay trong Đảng cịn bất cập, làm cho tình trạng quyền lực tập trung q mức mà
khơng bị kiểm sốt chặt chẽ, dẫn đến khơng ít trường hợp vi phạm ngun tắc tập
trung dân chủ, sự chuyên quyền, độc quyền trong Đảng, can thiệp quá sâu vào các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trên thực tế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta phản ứng rất
chậm với những hành vi tiêu cực của các cơ quan và công chức nhà nước. Một xã
hội dân chủ cần sự kiềm chế và cân bằng quyền lực để ngăn chặn sự lạm quyền.
Mục đích các tổ chức xã hội công dân đặt ra là khắc phục khuynh hướng tập trung
hoá cao độ quyền lực nhà nước, chuyển một bộ phận quyền lực đó cho sự tự quản
của cộng đồng, xã hội. Các tổ chức của xã hội công dân giữ cho việc thực thi
quyền lực của nhà nước được cân bằng trong xã hội, không thiên vị hay tạo ra đặc
quyền cho một nhóm người hay bất cứ một tầng lớp xã hội nào; thể hiện sự phản
biện của xã hội đối với chính sách của nhà nước để nhà nước đó đáp ứng được
nhu cầu, lợi ích của người dân. Các tổ chức xã hội cơng dân cịn giám sát các
chính sách, hành động của chính phủ và kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống hành
chính. Khi lựa chọn những người đại diện cho mình điều hành cơng việc nhà

nước, nhân dân có quyền kiểm tra giám sát nhà nước, các đại biểu của mình bằng
nhiều hình thức, trong đó, phương thức hữu hiệu nhất là thơng qua các tổ chức
của xã hội công dân. Đây là một cách thức quan trọng để người dân thực hiện
quyền dân chủ của mình. Việt Nam cần cân nhắc kiểm sốt quyền lực thơng qua
các tổ chức xã hội cơng dân để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát quyền
lực chính trị.
3. Biến đổi trong phƣơng thức kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
4


Phương thức kiểm sốt quyền lực chính trị hiện nay như: Sự tự kiểm soát
các các chủ thể quyền lực, kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước và
kiểm sốt các chủ thể ngồi bộ máy nhà nước. Trong các phương thức kiểm soát
quyền lực kể trên thì phương thức kiểm sốt thơng qua hệ thống thể chế ( kiểm
soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp) được xem là căn bản nhất.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, phương thức kiểm soát quyền lực chính trị đã có
những biến đổi nhất định.
3.1. Xu hƣớng tăng cƣờng kiểm sốt quyền lực chính trị từ các chủ thể
bên ngoài nhà nƣớc
Hiệu quả của các phương thức kiểm soát quyền lực phụ thuộc vào nhận thức
và hành động của các thể quyền lực. Ngày nay với trình độ dân trí ngày càng cao,
cùng với sự trợ giúp của khoa học công nghệ, yêu cầu về sự kiểm sốt quyền lực
chính trị từ bên ngồi nhà nước, từ phía xã hội ngày một gia tăng. Các chủ thể bên
ngồi nhà nước như các đảng chính trị; các tổ chức truyền thông; các tổ chức xã
hội; từ người dân đã thể hiện rõ tính hiệu quả trong phản biện, gây áp lực ... buộc
các cơ quan nhà nước phải đảm bảo sự liêm chính, tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong hoạt động từ đó tăng thêm tính hiệu quả kiểm sốt quyền lực chính
trị trong xã họi hiện đại.
3.2. Xu hƣớng tập trung vào kiểm sốt quyền lực chính trị cao nhất

Trung tâm của hệ thống chính trị là nhà nước, do vậy kiểm sốt chặt chẽ
quyền lực nhà nước là ưu tiên hàng đầu trong hệ thống ở hầu hết các quốc gia dân
chủ. Tuy nhiên thực tế cho thấy kiểm soát quyền lực nhà nước là chưa đủ mà cần
phải hướng tới kiểm soát quyền lực cao nhất. Cần phải xác định rõ chủ thể nào
nắm quyền lực chính trị cao nhất trong một quốc gia trên thực tế quyền lực của các
đảng chính trị cầm quyền, quyền lực của các tổ chức tơn giáo... Từ đó cần phải đưa
ra phương hướng hiệu quả để kiểm sốt quyền lực.
3.3. Quyền lực chính trị ngày càng đƣợc thể chế hóa
Sự chuyển đổi từ hệ thống chính trị vơ sản sang hệ thống chính trị, từ nhà
nước chun chính vơ sản sang nhà nước pháp quyền đã đánh dấu sự thay đổi rõ
nét về phương thức thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
5


Nam ngày càng nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải nâng cao tính chính đáng quyền
lực của mình trong đời sống xã hội. Có thể thấy, chưa có khi nào Đảng lại ban
hành đồng bộ các quy định, quy chế như hiện nay, từ các nội dung đổi mới hệ
thống chính trị; xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao nâng lực lãnh đạo và cần
quyền của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cán bộ cấp chiến lược;
thực hiện chức trách người đứng đầu; đẩy mạnh phịng, chống tham nhũng, lãng
phí; kiểm sốt quyền lực trong công tác cán bộ; đấu tranh với các biểu hiện tự
chuyển biến, tự chuyển hóa trong nội bộ Đảng... Cùng với việc ban hành hệ thống
quy chế là quyết tâm chính trị trong việc phát hiện, xử lý nghiêm minh các trường
hợp tham nhũng, tiêu cực, các sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên theo tinh
thần “không có ngoại lệ, khơng có vùng cấm, bất kẻ đó là ai”. Bên cạnh đó, việc
đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền cũng làm gia tăng đáng kể quá trình thể
chế hóa các quan hệ quyền lực. Với tinh thần thượng tơn pháp luật, tất cả các chủ
thể chính trị đều phải đặt mình dưới pháp luật và chịu sự ràng buộc của pháp luật.
Pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý và điều hành xã hội, mà còn là
phương tiện để giới hạn quyền lực của nhà nước, là công cụ để đảm bảo các quyền

tự do, dân chủ của nhân dân, đồng thời cũng là công cụ để người dân bảo vệ các
quyền lợi của mình.
Theo Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật Việt Nam từng bước hồn
thiện theo tiêu chí của một Nhà nước pháp quyền. Các mối quan hệ Nhà nướccông dân, Nhà nước- thị trường, Nhà nước- doanh nghiệp được nhận thức lại và
thay đổi từng chỗ mang tính quản lý sang hướng nhà nước kiến tạo phát triển. Hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, toàn diện và đồng bộ, phù hợp hơn, tạo điều
kiện cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong thời gian tới Quốc hội cần tiếp tục “Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây
dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, cơng khai, minh bạch, ổn
định dễ tiếp cận có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
chính đáng của nhân dân”. Công việc cụ thể không chỉ là việc ban hành đủ, đồng
bộ và kịp thời các bộ luật và văn bản dưới luật, mà còn bao gồm cả việc nâng cao
nhận thức xã hội và ý thức tôn trọng pháp luật cho cán bộ, đảng viên và toàn xã
6


hội. Biến khẩu hiệu “ Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thành một nét
của văn hóa cơng dân.
Phương pháp kiểm sốt quyền lực chính trị, sự hoàn thiện ngày một đầy đủ,
toàn diện các cơ chế, thể chế nhằm kiểm sốt quyền lực chính trị, trong thời gian
vừa qua, việc kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị đã có nhiều biến
chuyển, thu được nhiều kết quả quan trọng trên thực tế.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh
tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt đã tạo ra những chuyển biến tích
cực trong kiểm sốt quyền lực của Đảng và hệ thống chính trị nói chung. Cơng tác
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức đã nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên về ý thức, trách nhiệm chính trị trong việc thực thi các nhiệm vụ công
tác của Đảng.
- Đảng tiếp tục được đổi mới theo hướng giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng,
đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của

các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Phong
cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng được đổi mới; vai trò trách
nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng được chú trọng.
- Vai trò của pháp luật được đề cao; cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạch. Hoạt động của Quốc hội được đổi
mới, có hiệu quả hơn trong xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành
đổi mới theo hướng kiến tạo, tập trung vào điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, hỗ trợ
phát triển. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện tồn, có
tiến bộ về chất lượng hoạt động, về bảo vệ lợi ích hợp pháp và quyền con người
của công dân. Tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương được sắp xếp lại, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, trong kiểm sốt
quyền lực chính trị vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ
7


chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực,
hiệu quả chưa cao.
4. Các giải pháp kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam
Kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể,
khơng chỉ thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực đối với bộ máy nhà nước, mà
cịn thiết lập cơ chế kiểm sốt quyền lực đối với tổ chức đảng và đảng viên; đồng
thời phát huy các phương thức kiểm soát quyền lực từ các tổ chức đảng, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội, từ truyền thơng báo chí...
Đối với nhà nước, chúng ta cũng đã thiết lập được một cơ chế kiểm soát
quyền lực:
- Đã dần thiết lập được cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được chế định trong
Hiến pháp. Qc hội thực hiện kiểm sốt quyền lực đối với cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và tư pháp thông qua quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan trên
- Quyền lực được kiểm sốt thơng qua các chế định về bầu cử, bổ nhiệm,
miễn nhiệm cán bộ. Các cơ chế này cũng góp phần ngăn chặn nguy cơ lạm dụng
quyền lực vì mục đích cá nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực vì lý do
năng lực.
- Quyền lực được kiểm sốt thơng qua hoạt động kiểm tra, giám sát của
Đảng đối với tổ chức đảng, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Phương thức lãnh
đạo của Đảng bằng công tác kiểm tra, giám sát đã được thể chế hóa và đang ngày
càng pháp huy hiệu quả. Thực tế cho thấy, nhiều vi phạm nghiêm trọng trong bộ
máy nhà nhà nước lại được phát hiện bởi Ủy ban kiểm tra Trung ương và Ủy ban
kiểm tra Đảng các cấp. Hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng đi trước một bước,
mở đường cho các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà
nước và xã hội, thì việc kiểm soát quyền lực trong Đảng là hết sức cần thiết. Trong
thời gian qua các cơ chế kiểm soát quyền lực đối với tổ đảng và đảng viên cũng
ngày càng chặt chẽ hơn. Về cơ bản, việc kiểm soát quyền lực của Đảng hiện nay
được thể hiện theo các cơ chế sau:
8


- Kiểm sốt thơng qua các ngun tắt tổ chức và hoạt động của Đảng. Tùy
theo tinh hình thực tiển và yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong mỗi giai
đoạn, một số nguyên tắt về tổ chức, hoạt động của Đảng được triển khai thành
những quy định cụ thể.
- Kiểm sốt thơng qua cơng tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và Ủy ban
kiểm Đảng đối với đảng viên và các tổ chức đảng. Các hoạt động này góp phần
quan trọng trong việc quyền lực trong Đảng. Trong Đảng còn những quy định chặt
chẽ, nghiêm khắc để kiểm sốt hành vi của đảng viên. Bộ Chính trị đã ban hành

Quy định 205-QĐ/TW “ Về việc kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ và
chống chạy chức, chạy quyền” trong đó xác định yêu cầu “Sử dụng cơ chế, biện
pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về cơng tác cán bộ; phịng ngừa,
ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm quy định của Đảng, Nhà nước,
nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc
không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm
trên cương vị được giao trong cơng tác cán bộ”.
- Kiểm sốt thơng qua các quy định của pháp luật: tổ chức đảng và đảng
viên của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật chịu trách nhiệm
về mọi hoạt động của mình trước pháp luật như mọi công dân trong xã hội. Đảng
Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
Giám sát quyền lực từ phía nhân dân cũng là cơ chế giám sát quyền lực thiết thực
và hiệu quả. Cơ chế giám sát, phản biện xã hội đã được cụ thể hóa trong những
quy định của Đảng như: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị xã hội.
Như vậy, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng, Nhà
nước hay trong toàn xã hội đều gắn liền, đan xen hoặc bao hàm trong các nguyên
tắc, chế độ tổ chức hoạt động của các thành tố tạo thành hệ thống chính trị ở nước
ta. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, các cơ
chế, thể chế kiểm soát quyền lực của mỗi thành tố trong hệ thống chính trị của
nước ta phần lớn đều liên quan hoặc đồng thời tác động đến các thành tố khác.
9


Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới, các
cơ chế, thể chế về kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta khơng ngừng được hồn
thiện, được chế định ngày càng đầy đủ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật và có tác động tích cực đến q trình xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh.

Tóm lại: Trong các xã hội sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và cùng với nó là sự
biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp cũng như vị trí lịch sử của các tầng lớp, giai
cấp mà quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức thực hiện nó cũng khơng
ngừng biến đổi.
Có thể nói rằng, trong đời sống chính trị, quyền lực là một vấn đề cơ bản. Cịn
trong khoa học chính trị, phạm trù quyền lực và quyền lực chính trị là phạm trù
trung tâm, xuyên suốt. Vì vậy, vấn đề vì sao người này lại có quyền đối với người
khác, quyền lực có cần thiết trong cuộc sống xã hội hay khơng? Quyền lực chính
trị là gì và các hình thức tổ chức thực hiện nó trong các xã hội có giai cấp ra sao đã
được đề cập và khám phá trong suốt chiều dài lịch sử.
Đấu tranh cho quyền lực chính trị, giành giữ và thực thi quyền lực chính trị là
vấn đề trung tâm của đời sống chính trị, là hoạt động cơ bản, thực chất của chủ thể
quyền lực. Tạo lập các nhân tố cơ bản đảm bảo cho việc giành giữ và thực thi
quyền lực chính trị là vấn đề quan trọng nhất của các giai cấp, các chính đảng
trong xã hội đương đại.
Quyền lực, nói một cách chung nhất, là ý chí của người này được người khác
thi hành; đó là quyền uy và thế lực để quyết định công việc, điều hành người khác
hành động theo ý chí của mình. Cịn quyền lực chính trị được hiểu là khả năng
thực hiện ý chí của một giai cấp đối với sự phát triển của xã hội thông qua tổ chức
quyền lực nhà nước./.

10



×