Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.7 KB, 12 trang )

Chủ đề:
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
BÀI LÀM
Chính quyền địa phương là một bộ phận cấu thành hữu cơ của hệ thống
chính quyền nhà nước, có vai trị quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước và phục vụ nhân dân. Chính quyền địa phương đại diện cho Nhà
nước, nhân danh Nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước; triển khai, tổ chức
thực hiện những chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, của Nhà nước ở
địa phương, nên chính quyền địa phương phải đủ mạnh mới có thể thực hiện
được chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhưng đồng thời, cũng phải mềm dẻo, linh
hoạt bởi phải trực tiếp tiếp xúc, làm việc với dân, đáp ứng những nhu cầu, đòi
hỏi đa dạng của mỗi người dân sao cho vừa đúng pháp luật vừa phù hợp với
truyền thống và điều kiện của mỗi người dân, mỗi địa phương. Trong giai đoạn
đổi mới, có những vấn đề đặt ra đối với chính quyền địa phương và cần có những
giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động. chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu.
Trước hết là khái niệm chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương là một bộ phận hữu cơ hợp thành của bộ máy nhà
nước được tổ chức ở các đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thực hiện chức năng, nhiệm vụ
trong phạm vi lãnh thổ địa phương theo quy định của pháp luật.
Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
quy định: Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm
có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.
1



- Mơ hình chính quyền địa phương ở nơng thơn gồm chính quyền địa phương ở
tỉnh, huyện, xã.
- Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương ở đơ thị gồm chính quyền địa
phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn.
- Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương ở hải đảo gồm chính quyền cấp
huyện và cấp xã.
- Mơ hình chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
* Vấn đề đặt ra đối với chính quyền địa phương (CQĐP) bối cảnh hiện nay
và giải pháp giải quyết
Những thành tựu đạt được
Thứ nhất, về kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế của chính quyền địa
phương.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, nhiều đạo luật được ban hành
đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về chính quyền địa phương như Luật
Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019... Các văn bản pháp luật đó đã
góp phần tạo cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương; bảo đảm và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp; không ngừng phát huy quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quyết định và tổ chức thực hiện
những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Thứ hai, về hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Theo Hiến pháp năm 2013, Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa
phương do pháp luật quy định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân
2



dân ở cấp chính quyền là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân và các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Thứ ba, về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã được điều chỉnh, tổ chức sắp
xếp lại phù hợp hơn. Bộ Nội vụ cũng đã ban hành văn bản về việc đăng ký thí
điểm hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện; đồng thời, tham mưu cho các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản và
ban hành văn bản theo thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện sắp xếp các đơn vị
hành chính cấp huyện, cấp xã.
Thứ tư, về việc thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền và mối quan hệ
giữa chính quyền địa phương với chính quyền trung ương,
Thời gian qua, Chính phủ ln quan tâm và đẩy mạnh nhiệm vụ cải cách
chính quyền địa phương, đặc biệt đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa
phương. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VII khẳng định: Chính phủ và
cơ quan hành chính các cấp tập trung quản lý vĩ mô...; đồng thời, xác định rành
mạch cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của Bộ và chính quyền địa
phương phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực... Việc
phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân
cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ.
Thứ năm, về thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử và hiện đại hóa nền
hành chính nhà nước ở địa phương.
Nhìn chung, thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử,
hoạt động của ủy ban nhân dân các cấp luôn được thực hiện nghiêm túc theo quy
chế làm việc đã được xây dựng. Chất lượng, hiệu quả trong điều hành, quản lý
hành chính nhà nước được nâng lên. Mối quan hệ công tác giữa các sở, ban,
ngành tỉnh với ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân cấp huyện với ủy ban nhân dân cấp xã được củng cố, gắn kết chặt chẽ,
đảm bảo tính liên thơng và linh hoạt trong thực thi nhiệm vụ, tạo sự chuyển biến

3


tích cực trong giải quyết các cơng việc phối hợp liên ngành, góp phần thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch trên địa bàn địa phương.
Những hạn chế và bất cập
Thứ nhất, về kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế của chính quyền địa
phương.
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa phân
biệt rõ vị trí, vai trị của đơn vị hành chính ở các địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải
đảo và đơn vị hành chính " kinh tế đặc biệt, cấp của đơn vị hành chính và cấp
chính quyền. Tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ khơng có nhiều sự khác biệt
giữa các địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt. Pháp luật chưa xây dựng được hệ thống các tiêu chí để làm căn cứ phân
định cũng như đánh giá hoạt động của chính quyền địa phương ở nơng thơn, đơ
thị, hải đảo trong khi đó chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt chưa đủ căn cứ pháp lý để tổ chức và hoạt động.
Thứ hai, về hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân,
Ở một số cấp chính quyền, Hội đồng nhân dân chưa phát huy được vai trò là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân địa phương. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các
cấp còn những hạn chế nhất định. Mặt khác, các đại biểu sẽ nể nang, ngại va
chạm và không đi đến cùng các vấn đề cần giám sát do quan hệ mệnh lệnh phục
tùng trong hệ thống hành chính khi người đại biểu là cấp dưới, thuộc quyền
quản lý trực tiếp của người bị giám sát.
Thứ ba, về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã ở một số địa phương còn
chưa được thực hiện hoặc thực hiện thiếu kiên quyết, đồng bộ. Việc tinh giản
biên chế ở nhiều địa phương mới chỉ chú trọng đến việc giảm về số lượng mà
chưa gắn liền với việc nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức; chưa phát huy hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức ở mỗi địa phương.
4


Thứ tư, về thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền và mối quan hệ giữa
chính quyền địa phương với chính quyền trung ương.
Thực tiễn cho thấy, việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương chỉ nặng về chuyển giao công việc
(nhiệm vụ) từ cấp trên xuống mà chưa tương xứng với thẩm quyền và nguồn lực
cần thiết (tổ chức, nhân sự, tài chính) của mỗi địa phương.
Thứ năm, về thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử và hiện đại
hóa nền hành chính nhà nước ở địa phương.
Một số cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng, như dân cư, đất đai, tài chính...
cịn chậm triển khai. Việc xử lý, trao đổi, gửi nhận văn bản điện tử trong nội bộ và
giữa các cơ quan nhà nước còn chưa phát huy được hiệu quả; hệ thống quản lý văn
bản và điều hành của một số bộ, ngành, địa phương khác nhau. Mơ hình,
giải pháp triển khai chính quyền điện tử chưa đồng bộ, mức độ quan tâm chỉ đạo
triển khai cịn có khoảng cách nhất định giữa các bộ, ngành, các địa phương.
Dịch vụ công trực tuyến được thiết kế riêng lẻ, rời rạc, chưa thân thiện, chưa lấy
người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.
* Các vấn đề đặt ra đối với CQĐP trong bối cảnh hiện nay
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 tạo lập tiền đề vững
chắc cho việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay CQĐP đang đối mặt với những khó khăn, thách thức
nhất định cần được nghiên cứu và đưa ra giải pháp giải quyết. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương một số nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ,
phân cấp, phân quyền chưa thật sự rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn
chế”.

Thứ nhất, năng lực quản lý điều hành. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của chính quyền địa phương các cấp còn chồng chéo trên một số lĩnh vực,
như: kinh tế; văn hố, khoa học, quốc phịng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, thi
hành pháp luật... Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương với địa phương,
5


chính quyền cấp trên với chính quyền cấp dưới cịn mang nặng quan hệ thứ bậc.
Ở một số cấp chính quyền, Hội đồng nhân dân chưa phát huy được vai trò là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân địa phương. Hoạt động của Hội đồng nhân dân ở một số nơi
mới chỉ là cơ quan hợp thức hóa các nghị quyết của cấp ủy đảng. Mặc dù Hiến
pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể cho Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, nhưng
thực tiễn cho thấy, giữa thẩm quyền và khả năng thực tế của Hội đồng nhân dân
với đúng nghĩa là một cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương vẫn còn là một
khoảng cách khá lớn. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân địa phương nhưng những quy định về nhiệm vụ và
thẩm quyền lại tương tự nhau ở các cấp.
Chế độ tập thể lãnh đạo của Ủy ban nhân dân chưa phân định rõ trách
nhiệm người đứng đầu và trách nhiệm cá nhân phụ trách dẫn đến hội họp nhiều,
phản ứng chậm, kém hiệu quả. Trong khi đó, Ủy ban nhân dân ở một số cấp
chính quyền chưa đề cao ý thức tự giác chấp hành các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cùng cấp.
Thứ hai, cơ cấu tổ chức bộ máy CQĐP vẫn còn nhiều tầng nấc, nhiều đầu
mối dẫn đến phân tán quyền lực và nguồn lực, phần nào chưa bảo đảm nguyên tắc
tập trung, thống nhất. Việc phân chia đơn vị hành chính hiện này cơ bản vẫn như
trước đây là theo cấp quản lý. Luật Tổ chức CQĐP mới chưa thể hiện được sự
phân biệt giữa đơn vị hành chính và cấp chính quyền. Một số nội dung liên quan
đến tổ chức đơn vị hành chính được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng chưa được cụ

thể hóa trong Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
Mơ hình tổ chức của các cơ quan chun mơn của chính quyền địa
phương có sự rập khn tương ứng giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương với các cơ quan bộ, ngành ở trung ương. Cơ cấu, tổ
chức chính quyền cấp dưới vẫn giống cơ cấu, tổ chức chính quyền cấp trên. Việc

6


sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương để phù hợp với tình hình thực
tiễn ở nhiều địa phương còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ ba, nguồn lực phát triển việc phân cấp phân quyền từ Trung ương
đến cơ quan địa phương chủ yếu là chuyển giao nhiệm vụ nhưng chưa gắn với
thẩm quyền và đặc biệt là không gắn với nguồn lực thực hiện (tổ chức, nhân sự,
tài chính) việc phân cấp phân quyền cịn chậm, việc phân cấp đối với chính
quyền địa phương thơng qua các tiêu chí chung giống nhau cho các khu vực như
nơng thơn, đơ thị, hải đảo…trong khi đó các khu vực có các đặc thù khác nhau,
vì vậy địi hỏi phải có những tiêu chí khác nhau phù hợp với từng địa phương
tạo điều kiện nâng cao tính tự chủ, sáng tạo, năng động của chính quyền địa
phương.
Thứ tư, khả năng ứng phó. Chúng ta đều biết, do những đặc điểm về địa
lý, dân cư, điều kiện (thành thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng, hải đảo...) mà
mỗi địa phương có những nhu cầu và sự phát triển khác nhau, cho nên cần có sự
tổ chức quản lý khác nhau. Điều này xuất phát từ quy định của Hiến pháp là:
“Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp
với đặc điểm nông thôn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do
luật định”. Điều đó địi hỏi CQĐP phải có khả năng ứng phó sao cho phù hợp
với địa phương mình.
Trước diễn biến của đại dịch Covid-19, CQĐP thực hiện "mục tiêu kép"
vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế. Để đạt được mục tiêu kép này, CQĐP đã

sử dụng “bộ não số” với năng lực tổng hợp, phân tích dữ liệu thơng minh của
Trung tâm điều hành thông minh (trung tâm IOC) để hỗ trợ đắc lực trong các
hoạt động phục vụ phòng chống dịch Covid-19 tại địa phương. Tăng cường triển
khai các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2021...; tiếp tục thực hiện quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép”
vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dịch Covid-19 lần thứ tư diễn biến phức tạp, lây
lan nhanh và kéo dài. Một số nơi, CQĐP lúng túng- dân hoang mang- tình hình
7


dịch bệnh diễn biến phức tạp và kéo dài đã làm tăng tỷ lệ và số người thiếu việc
làm trong độ tuổi lên mức cao nhất trong vòng 10 năm qua. Thu nhập bình quân
tháng của người lao động sụt giảm nghiêm trọng so với cùng kỳ năm trước.
Thứ năm, năng lực chuyên môn và trách nhiệm, đạo đức công vụ của một
bộ phận cán bộ, công chức CQĐP vẫn còn những hạn chế, bất cập. Trước yêu
cầu mới của công cuộc cải cách, hội nhập quốc tế hiện nay, một bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước đang bộc lộ ngày càng rõ hơn, trầm trọng hơn những yếu
kém về trình độ, năng lực, về khả năng tư duy mới, cách thức làm việc mới, kỹ
năng thực thi công vụ cụ thể, quan hệ giao tiếp với công dân, phẩm chất phục vụ
công tâm, liêm khiết, tận tụy… đang làm suy giảm lịng tin của người dân đối
với chính quyền và làm hạn chế đáng kể năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của CQĐP.
Thứ sáu, công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ ở một số cơ
quan của các cấp chính quyền chưa theo kịp với yêu cầu, nhiệm vụ. Một số địa
phương công tác cán bộ của chính quyền chưa được quan tâm, chưa có quy
hoạch dài hạn đối với từng chức danh lãnh đạo, quản lý, các chức danh hoạt
động chuyên trách trong các cơ quan. Một số địa phương, cán bộ do kiêm nhiệm
nhiều chức vụ nên đã khơng có thời gian để giải quyết hết các cơng việc của
mình. Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa và đổi mới, sắp xếp lại khu vực các

đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, hiệu quả thấp. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được đẩy mạnh; số lượng người
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn tăng về số lượng, nhất là ở các
địa phương.
Thứ bảy, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp trong thời
gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm
trên, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp còn những hạn chế nhất
định. Phạm vi và đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân rất rộng, giám sát
được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của chính quyền địa phương,
đối tượng chịu sự giám sát đa dạng. Do đó, ở một số địa phương, Hội đồng nhân
8


dân khó thực hiện hết trách nhiệm giám sát của mình. Mặt khác, các đại biểu sẽ
nể nang, ngại va chạm và không đi đến cùng các vấn đề cần giám sát do quan hệ
mệnh lệnh phục tùng trong hệ thống hành chính khi người đại biểu là cấp dưới,
thuộc quyền quản lý trực tiếp của người bị giám sát. Hơn nữa, những kiến nghị
sau giám sát của Hội đồng nhân dân chưa được các cơ quan, tổ chức hữu quan
tiếp thu, chấn chỉnh một cách nhanh chóng, kịp thời, phải qua nhắc nhở nhiều
lần mới khắc phục. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định cụ thể về các biện
pháp, chế tài cho đối tượng bị giám sát trong những trường hợp trên.
Từ các vấn đề đặt ra đối với chính quyền địa phương được nêu ở trên, em
xin đưa ra một số giải pháp giải quyết như sau:
* Giải pháp giải quyết những vấn đề đặt ra đối với chính quyền địa
phương bối cảnh hiện nay là:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương bảo đảm chính quyền các cấp hoạt động hiệu quả, góp phần bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương, tạo điều kiện để nhân dân tích cực
tham gia các cơng việc của chính quyền địa phương. Tăng cường phân cấp, phân
quyền cho chính quyền địa phương ở mỗi cấp gắn với việc phát huy dân chủ, mở

rộng sự tham gia của đại diện cộng đồng dân cư đối với chính quyền địa phương
trong quá trình hình thành và giám sát việc thực hiện các chính sách, quyết định
của chính quyền địa phương.
Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND được đặt lên hàng
đầu. Tăng cường vai trò của Thường trực HĐND giữa hai kỳ họp. HĐND cần
nâng cao hơn nữa chất lượng trong xem xét, quyết định các vấn đề của địa
phương như quyết định ngân sách, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh
trong cơ cấu chính quyền địa phương, quyết định các biện pháp bảo đảm thực
hiện các nhiệm vụ về kinh tế, tài ngun mơi trường, giáo dục, chính sách xã
hội, dân tộc, quốc phòng an ninh… Đối với UBND, thơng qua vai trị lãnh đạo,
điều hành mọi hoạt động của chủ tịch UBND, các phó chủ tịch UBND, các
thành viên khác của UBND, nhất là thực hiện nhiệm vụ xây dựng, trình HĐND
9


quyết định những nội dung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và tổ chức
thực hiện tốt các nghị quyết này sau khi được thông qua.
Thứ hai, việc cần làm ngay chính là đẩy mạnh phân quyền, phân cấp, ủy
quyền theo hướng phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính
quyền địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn
theo quy định của pháp luật. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản
lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa chính quyền các
cấp đối với hoạt động kinh tế - xã hội. Việc phân quyền, phân cấp cũng phải tính
tốn để đảm bảo nguồn lực, quy định cụ thể bằng văn bản để đủ điều kiện thực
hiện, đó chính là nhằm giảm áp lực trong thực hiện nhiệm vụ của UBND các cấp
và của cấp trên.
Mỗi cấp chính quyền địa phương phải được xác định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm dựa trên thế mạnh và tiềm năng của mình. Sự phân cấp, phân
quyền, ủy quyền được thực hiện trên nguyên tắc cấp nào thực hiện hiệu quả
nhất, phù hợp nhất thì giao cho cấp đó. Đồng thời, phân cấp, phân quyền, ủy

quyền phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm, phát huy
hết tiềm năng, thế mạnh của mỗi cấp chính quyền địa phương; xác định rõ ràng
trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm
. Việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các
cấp chính quyền cần quan tâm đến yếu tố vùng, miền, đặc thù của các địa phương.
Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm và giá trị về mơ
hình tổ chức chính quyền địa phương trên thế giới trong q trình xây dựng và
hồn hiện mơ hình chính quyền ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, hồn thiện các mơ hình tổ chức chính quyền địa phương ở các
đơn vị hành chính
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp địa bàn nơng
thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện
và tổng kết việc thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây dựng và vận hành các mô
10


hình quản trị chính quyền đơ thị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”. Cụ
thể hóa các tiêu chí đối với mỗi cấp chính quyền và tiêu chí xây dựng, hồn
thiện chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, tính chất của chính quyền
ở nơng thơn, đơ thị, hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Thứ tư, để tăng cường khả năng ứng phó với tình hình dịch bệnh covid
19, CQĐP cần nêu cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong việc huy động và
khai thác các nguồn lực ở địa phương để thực hiện tốt cơng tác phịng, chống
dịch tại địa bàn mình quản lý. CQĐP quán triệt đầy đủ, tổ chức thực hiện
nghiêm, có hiệu quả các quy định quản lý, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cơ
quan nhà nước cấp trên và ngành chức năng về cơng tác phịng, chống dịch bệnh
Covid-19 trên địa bàn quản lý, cần chủ động xây dựng kế hoạch, triển khai kịp
thời các phương án, giải pháp cần thiết để thực hiện hiệu quả mục tiêu kép vừa
phòng chống dịch vừa phát triển kinh tế- xã hội.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hướng đến đảm bảo đúng
tiêu chuẩn, có cơ cấu, số lượng hợp lý. Cần dựa vào các tiêu chí cụ thể để đào
tạo, bồi dưỡng nhằm chuẩn hóa sử dụng lâu dài, hay bổ sung, thay thế. Sử dụng
cán bộ, phát hiện kịp thời những nhân tố tích cực, cán bộ trẻ, có năng lực, bố trí
đúng sở trường, đúng năng lực, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, ngang
tầm với yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, hồn thiện
cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo hướng cồng khai, minh bạch; thực hiện
tinh giản biên chế, quản lý biên chế theo vị trí việc làm và chức danh lãnh đạo,
quản lý, giảm số lượng cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách của chính
quyền địa phương cấp xã
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm
và thẩm quyền giám sát của hội đồng nhân dân. Việc lựa chọn đúng, chính xác
những vấn đề cử tri quan tâm sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực trong hoạt động giám
sát. Cần có các chế tài cụ thể trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân;
hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm của đối tượng giám sát
11


trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng các yêu cầu, kiến nghị của Hội đồng nhân dân.
Thứ bảy, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương
Phát huy vai trò của các cấp ủy đảng ở địa phương. Tiếp tục xây dựng,
hồn thiện quy trình ban hành văn bản của cấp ủy đảng và Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, xác định rõ những vấn đề nào thì cần cấp ủy ra nghị quyết,
những vấn đề nào thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, những vấn đề nào
thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân và quy định thời hạn Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân ban hành văn bản sau khi cấp ủy có nghị quyết. Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân luôn phát huy tinh thần và trách nhiệm cao trong việc

triển khai nghị quyết của cấp ủy đảng; đóng vai trị là cầu nối để đưa nghị quyết,
chủ trương của cấp ủy vào cuộc sống
Từ những vấn đề nêu trên chúng ta thấy được tầm quan trọng của chính
quyền địa phương trong việc thực hiện vai trò trong việc tổ chức và thực hiện
những Đường lối, Chủ trương của Đảng và Chính sách, Pháp luật của Nhà nước
vào đời sống xã hội, đồng thời bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Do đó cần tiếp tục
hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp địa bàn nơng thơn, đơ thị,
hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; đẩy nhanh tiến độ sắp
xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã cũng như việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng chính quyền điện tử và hiện đại hóa nền hành chính nhà nước ở địa
phương.

12



×