Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nội dung chủ yếu của học thuyết về nhà nước pháp quyền và đánh giá về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.44 KB, 19 trang )

Đề tài tiểu luận: Trình bày nội dung chủ yếu của học thuyết về nhà
nước pháp quyền? Dựa trên các yếu tố để xếp loại mức độ pháp quyền của
một nhà nước, anh/chị hãy đánh giá về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài tiểu luận
Từ trước đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn khẳng định rõ việc tiếp tục xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân với tính chất là cơng cụ bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự
do của nhân dân. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra
rằng: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức
bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn;
bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, nội dung,
phương thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được
điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và thơng lệ quốc tế. Do đó,
trong giai đoạn hiện nay, khoa học pháp lý Việt Nam có nhiệm vụ cấp bách và vô
cùng quan trọng là: phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền nhằm góp
phần đưa ra phương án khả thi cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua đề tài tiểu luận này, bản thân em muốn có sự tìm hiểu, đánh giá khách
quan đối với học thuyết về nhà nước pháp quyền, từ đó có góc nhìn đa chiều hơn,
phản án đúng thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong bối cảnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay.
2. Làm rõ các khái niệm
2.1. Khái niệm Học thuyết pháp luật

1



Học thuyết pháp luật với ý nghĩa là hệ thống các quan điểm, các phạm trù,
khái niệm, các nguyên tắc, các quy luật và mối liên hệ có tính phổ biến giữa các
hiện tượng nhà nước và pháp luật chỉ được hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt
động có tính đặc thù là hoạt động nhận thức tư duy khoa học.
2.2. Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Trong các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở các nước trên thế
giới, có thể thấy khá nhiều quan niệm về nhà nước pháp quyền, chẳng hạn: “Nhà
nước pháp quyền là một nhà nước gắn chặt với pháp luật và được hợp pháp hóa
bởi pháp luật” hay “Nhà nước pháp quyền là tồn thể một quổc gia có trách nhiệm
thực hiện công lý, phục tùng pháp luật và quan tâm đặc biệt đến việc tôn trọng các
quyền của con người và nguyên tắc tương ứng”.
Ở Việt Nam, quan niệm về nhà nước pháp quyền cũng khá phong phú, như:
“Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền trong hệ thống chính trị của xã hội
cơng dân được xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại
như công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giá
trị xã hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới - sự tôn trọng và bảo vệ
các quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước, sự phân công quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và chủ
quyền nhân dân”...
Tóm lại, có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của
pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở
một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ quyền nhân dân,
phân cơng và kiểm sốt quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do
cá nhân, công bằng, bình đẳng trong xã hội.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Nội dung chủ yếu của học thuyết về nhà nước pháp quyền
1.1. Nguồn gốc, sự ra đời của học thuyết về nhà nước pháp quyền
Là một trong những giá trị chung của nhân loại, học thuyết về nhà nước
pháp quyền có lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân

các dân tộc châu Âu vì tự do, dân chủ.

2


Cội nguồn của học thuyết về nhà nước pháp quyền là những quan điểm, tư
tưởng của các triết gia cổ đại (như Salon, Aristot, Heraclit, Platon, Siseron,…) về
sự cần thiết phải lập một chế độ nhà nước dựa hẳn vào pháp luật, chịu sự chi phối
của pháp luật. Những quan điểm, tư tưởng ấy được bổ sung và hoàn thiện dần đến
cuối thế kỷ XVIII đã trở thành học thuyết khoa học khá hồn chỉnh. Những người
có cơng đề xướng học thuyết ấy là các học giả tư sản tự do ở châu Âu như: J.
Locke, S.L. Montesquieu, I. Kant, Hegel,…
Sự ra đời của học thuyết nhà nước pháp quyền (trong đó có lý luận phân
quyền của J. Locke và S.L. Montesquieu) là một địn chí mạng giáng vào chế độ
phong kiến, thiết lập nền dân chủ tư sản. Học thuyết về nhà nước pháp quyền ảnh
hưởng rất lớn đến những bản hiến pháp tư sản đầu tiên, tạo tiền đề tư tưởng cho
việc thiết kế các nhà nước tư sản sau này (ví dụ: Hiến pháp của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ năm 1787, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789).
Hiện nay học thuyết về nhà nước pháp quyền được bổ sung bằng nhiều quan điểm
lý luận mới, phù hợp với những điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
khơng những của nước vận dụng mà còn của cả thời đương đại.
1.2. Nội dung chủ yếu của học thuyết về nhà nước pháp quyền
Học thuyết về nhà nước pháp quyền là hệ thống các tri thức khoa học dưới
dạng các quan điểm, tư tưởng, lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước –
pháp luật – con người trong xã hội có giai cấp. Có thể diễn đạt nội dung chủ yếu
của học thuyết về nhà nước pháp quyền bằng hệ thống bốn quan điểm lý luận như
sau:
1.2.1. Hệ các quan điểm lý luận về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật
Tiếp thu và phát triển những ý tưởng của các triết gia Hy lạp và La Mã cổ
đại về sự cần thiết khách quan của việc sử dụng luật pháp trong tổ chức và hoạt

động của nhà nước, những nhà sáng lập học thuyết về nhà nước pháp quyền đã lập
luận rằng: Mặc dù nhà nước ban hành luật pháp nhưng nó cũng phải chịu sự chi
phối của luật pháp; nhà nước chỉ trở thành nhà nước pháp quyền khi nó được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở luật pháp, tôn trọng luật pháp; luật pháp phải ngự trị
trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; nhà nước nào không chịu tuân theo

3


luật pháp, đứng trên luật pháp thì nhà nước đó là nhà nước độc tài, chuyên chế, phi
dân chủ.
1.2.2. Hệ các quan điểm lý luận về phân chia quyền lực nhà nước
Trong hệ quan điểm này, đáng chú ý nhất là tư tưởng phân quyền của J.
Locke và thuyết phân quyền của S.L. Montesquieu. Tư tưởng cơ bản của thuyết
phân quyền là dùng quyền lực hạn chế quyền lực bằng một cơ chế kiềm chế và đối
trọng giữa nghị viện (cơ quan thực thi quyền lập pháp), chính phủ (cơ quan đảm
nhiệm quyền hành pháp), tòa án (cơ quan thực hành quyền hành pháp), để sao cho
không một cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước vì nếu như vậy rất dễ
sinh ra độc đoán, chuyên quyền như trong chế độ phong kiến. Thuyết phân quyền
là vũ khí tư tưởng tấn công quyết liệt vào chế độ quân chủ phong kiến mà trong đó
vua là đấng tối cao không phải chịu trách nhiệm trước các “thần dân”, tự mình đặt
ra luật lệ và khơng bị lệ thuộc bởi luật lệ. Sau này (và hiện nay) thuyết phân quyền
trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
tư sản và được đảm bảo bằng pháp luật mà trước hết là hiến pháp. Hiến pháp Mỹ
năm 1787 là hiến pháp tư sản đầu tiên ghi nhận nguyên tắc này. Tuy nhiên, trên
thực tế không phải nhà nước tư sản nào cũng áp dụng triệt để nguyên tắc phân
quyền. Ở một vài nước, vai trị của nghị viện bị hạ thấp, trong đó chính phủ lạm
quyền của nghị viện, tự mình ban hành luật thậm chí trái với hiến pháp.
1.2.3. Hệ các quan điểm lý luận về mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền
và xã hội cơng dân

Nói đến nhà nước pháp quyền mà không đề cập đến xã hội công dân thì vơ
nghĩa. Bởi vì, như các nhà khoa học đã khẳng định, nhà nước pháp quyền chỉ tồn
tại trong xã hội công dân và phục vụ xã hội công dân. Xã hội công dân là cộng
đồng những con người được tự do, được nhà nước pháp quyền thừa nhận và bảo
đảm các quyền và những lợi ích cần thiết khác. Theo Hegel, những thành tố cơ bản
của xã hội công dân là: Nền kinh tế thị trường, các giai tầng xã hội, các tổ chức,
thiết chế chính trị chuyên làm điều thiện, luật dân sự - ngành luật điều chỉnh trực
tiếp các quan hệ dân sự. Hai khái niệm “nhà nước pháp quyền” và “xã hội công
dân” liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Ngay từ thời Aristos, nhà

4


nước và cộng đồng xã hội đã được xem như hai thuật ngữ có thể thay thế cho
nhau. Một người là thành viên của xã hội cơng dân cũng có nghĩa là một công dân
– thành viên của nhà nước. Do đó người đó có nghĩa vụ tơn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước.
Từ mối quan hệ tương hỗ giữa nhà nước pháp quyền và xã hội công dân nảy
sinh hai vấn đề quan trọng cần lý giải:
- Một là, nhà nước can thiệp vào xã hội công dân đến đâu? Và nhà nước can
thiệp như thế nào để xã hội công dân phát triển tự nhiên và tự do?
- Hai là, Các công dân đối xử với nhà nước của mình như thế nào? Họ phải
làm gì để hồn thiện xã hội cơng dân, để nhà nước đỡ phải can thiệp?
Từ góc độ lý luận, các nhà khoa học lý giải hai vấn đề nêu trên như sau: Sự
can thiệp của nhà nước pháp quyền vào xã hội công dân là cần thiết và mang tính
khách quan. Song nhà nước khơng thể và khơng nên can thiệp vào tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội mà đối với các lĩnh vực đó hãy để cho công dân tự điều
chỉnh trên cơ sở đạo đức và niềm tin nội tâm (ví dụ: lĩnh vực tình cảm riêng tư cá
nhân, việc thờ cúng, nghi thức tôn giáo,…). Nhà nước dùng luật pháp để điều
chỉnh các quan hệ xã hội chứ tuyệt đối không được sử dụng bạo lực để đàn áp dân

chúng. Hegel đã đưa ra hai điều kiện để xác định tính hợp pháp của sự can thiệp
của nhà nước, đó là: Nếu sự can thiệp của nhà nước nhằm loại bỏ sự bất cơng và
bất bình đẳng trong xã hội, hay sự can thiệp đó vì lợi ích chung.
Đối với vấn đề thứ hai, xã hội cơng dân phải thường xun tự hồn thiện
mình bằng nhiều cách, trong đó đặc biệt là phải nâng cao trách nhiệm của công
dân đối với nhà nước; mọi cơng dân phải có nghĩa vụ tơn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh, đầy đủ luật pháp của nhà nước. Thomas Paine (một trong những
nhà sáng lập nước Mỹ) trong tác phẩm: “Quyền con người” đã nói rằng xã hội
cơng dân có tính tự nhiên, xã hội cơng dân càng hoàn thiện bao nhiêu, càng tự điều
chỉnh được nhiều hơn bao nhiêu thì càng có ít nhu cầu bấy nhiêu về sự can thiệp
của nhà nước.
1.2.4. Hệ các quan điểm lý luận về quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và
công dân

5


Theo các nhà khoa học, thực chất quan hệ giữa nhà nước với công dân là
quan hệ giữa quyền lực với các quyền tự do cá nhân. Nhà nước pháp quyền có
nghĩa vụ bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của cơng dân; phải
chịu trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp luật về các quyền, tự do và
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Cịn cơng dân trong khi được hưởng các quyền, tự
do và lợi ích hợp pháp cũng phải làm các nghĩa vụ đối với nhà nước và phải chịu
trách nhiệm pháp lý trước nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật của
mình. Như vậy, quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và công dân là quan hệ bình
đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và được quy định, đảm bảo bằng pháp luật.
I. Kant đã từng viết trong tác phẩm “Phép siêu hình của đạo đức” như sau: “Nhà
nước là khối liên hiệp của nhiều người dưới sự điều tiết của luật pháp; không khi
nào được coi con người là phương tiện để đạt mục đích mà ngược lại, phải coi con
người là mục đích cần đạt; mỗi cá nhân và cả xã hội cần tơn trọng và bảo vệ pháp

luật; mỗi cơng dân có các quyền đồng thời có khả năng buộc người nắm quyền lực
phải tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật đã ban hành”. Hegel cũng nói rằng con
người ta sinh ra đã là tự do. Con người tự do và các tổ chức tự do chỉ hình thành
trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trong quá trình đó, con người tự tạo
ra mình với tư cách là một thực thể tự do, tạo ra thế giới tự do của mình, tạo ra nhà
nước và pháp luật. Lịch sử thế giới là một quá trình nhận thức về tự do, trong đó
con người khơng chỉ nhận biết sâu sắc hơn về tự do mà còn hiểu được việc thực
hiện tự do ấy dưới hình thức nhà nước – pháp luật như thế nào. J. Locke và S.L.
Montesquieu đã đưa ra nhận thức về tự do: “Tự do nghĩa là làm tất cả những gì mà
luật pháp khơng cấm và khơng bị buộc phải làm những điều mà mình không
muốn; tự do cá nhân phải được luật pháp quy định và bảo vệ nếu khơng thì có thể
bị nhà nước và cá nhân khác vi phạm”. C.Mác đã từng nói: “Sự tự do được thừa
nhận về mặt pháp lý chỉ tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật”.
Tư tưởng tự do của các học giả tư sản châu Âu đã có ảnh hưởng rất to lớn
đến những văn kiện chính trị - pháp lý của các nhà nước tư sản sau các cuộc cách
mạng tư sản. Như trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789
xác định: Tự do có nghĩa là làm mọi điều khơng có hại cho người khác” (Điều 4);

6


“Luật pháp chỉ có quyền cấm đốn những hành vi có hại cho xã hội. Tất cả những
điều mà luật pháp khơng cấm đốn đều khơng thể bị ngăn cản và khơng ai có thể
bị buộc phải làm những điều mà luật pháp không bắt làm ( Điều 5).
Trên đây là những nội dung chủ yếu trong học thuyết về nhà nước pháp
quyền. Việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết này đã được tiến hành từ lâu tại
nhiều quốc gia khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu khách quan của xã hội và mức độ
dân chủ hóa về mọi mặt trong những nước ấy. Hiện nay, nội dung của học thuyết
về nhà nước pháp quyền được bổ sung và hoàn thiện bằng nhiều quan điểm lý luận
mới ở những nước tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Anh, Cộng hịa liên bang Đức,

… và cả Liên Xơ (trước đây). Ở đây có sự kế tục và phát triển những tri thức
trong lý luận kinh điển về nhà nước pháp quyền cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh mới trong mỗi quốc gia và thế giới. Chẳng hạn trong nội dung khái niệm
“nhà nước pháp quyền” đã có nhiều điểm mới được bổ sung. Người ta coi đó là
một hệ thống phức tạp, nhiều yếu tố. A. Blankenahel – một học giả Đức cho rằng
khi nói đến nhà nước pháp quyền là đề cập đến mối tương quan giữa hình thức và
nội dung của pháp luật. Về các tiêu chuẩn cơ bản để xác định nhà nước nào là nhà
nước pháp quyền, ngồi yếu tố “tính tối cao của các đạo luật được bảo đảm” các
nhà khoa học còn bổ sung thêm các tiêu chuẩn khác như: Mức độ đảm bảo cao các
quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của cá nhân; mức độ hồn thiện và có tính khả thi
cao của hệ thống pháp luật; bộ máy nhà nước được tổ chức tinh thơng, gọn nhẹ, có
hiệu lực và hiệu quả; khả năng cao của nhà nước trong việc phòng ngừa, chống và
xử lý các vi phạm pháp luật; ý thức pháp luật cao của công chức nhà nước và cơng
dân; mức độ an tồn cao về mặt xã hội của các cá nhân trong xã hội,…
Hiện nay, việc vận dụng lý thuyết phân quyền nói riêng và học thuyết về
nhà nước pháp quyền nói chung ở những nước này diễn ra trên hai chương chính:
Một là, củng cố các thiết chế đã có để kiểm tra tính hợp hiến của các văn
bản quy phạm pháp luật do nghị viện và chính phủ ban hành (thiết chế này là tòa
án hiến pháp); nâng cao vai trò điều hành của các cơ quan hành chính đứng đầu là
chính phủ nhưng không lấn quyền lập pháp của nghị viện (như đã diễn ra trước

7


đây và hiện nay cịn có ở một số nước) đồng thời nhấn mạnh công việc kiểm tra sự
hoạt động của chính phủ và các cơ quan hành chính khác từ phía người dân.
Hai là, nâng cao khả năng bảo đảm và bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích
hợp pháp của công dân trong các lĩnh vực xã hội; đặc biệt hoàn thiện cơ chế khiếu
nại, tố cáo và giải quyết các khiếu nại, tố cáo này bằng con đường tịa án hành
chính (ở Pháp, Mỹ, Canada, Thụy Điển,…).

1.3. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của học thuyết về nhà nước pháp quyền
Từ những điều trình bày ở trên, kết hợp giữa lý luận kinh điển và lý luận
hiện đại về nhà nước pháp quyền, có thể đi tới nhận thức tổng thể về nhà nước
pháp quyền thông qua các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của nó, cụ thể như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước biết tự hạn chê quyền lực của mình
trong khn khổ luật pháp. Nói cách khác là một nhà nước biết tôn trọng và thực
hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ và thống nhất.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp
luật, dựa vào pháp luật, coi pháp luật không chỉ là căn cứ để tổ chức bộ máy nhà
nước và còn là tiêu chuẩn quan trọng nhất để định hướng hoạt động quản lý và
đánh giá hiệu quả của hoạt động đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ các
quyền, tự do và lợi ích hợp pháp khác của cơng dân và các thành viên khác khơng
phải là cơng dân của mình trong xã hội đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm pháp
lý đối với những hành vi xâm hại tới các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp ấy (cụ
thể là trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước hoặc của người công chức nhà
nước).
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các cơng dân và những thành
viên khác khơng phải là cơng dân của mình trong xã hội ln có ý thức tơn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất và đều phải chịu
trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm pháp luật.
2. Đánh giá về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay
2.1. Các yếu tố để xếp loại mức độ pháp quyền của một nhà nước

8


Để xếp loại mức độ pháp quyền của một nhà nước, cần dựa vào các yếu tố,
tiêu chí đánh giá cụ thể sau:

- Quyền lực của chính quyền bị giới hạn: Nói cách khác đó chính là giới
hạn và kiểm soát quyền lực của nhà nước bằng việc quy định cụ thể trong Hiến
pháp, đạo luật về các quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước cũng như có
các cơ chế kiềm chế đối trọng để ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực.
- Không tham nhũng: Nhà nước pháp quyền là nhà nước khơng chấp nhận
tham nhũng, vì tham nhũng là việc các quan chức nhà nước lạm dụng quyền lực
cơng để thu lợi ích riêng.
- Trật tự và an ninh: Trong nhà nước pháp quyền, nhà nước phải bảo vệ các
quyền, tự do, tính mạng và tài sản của công dân khỏi sự xâm phạm từ mọi chủ thể.
Nhà nước phải ngăn chặn mọi dạng tội phạm và bạo lực, hướng tới một xã hội:
khơng có tội phạm, khơng có bạo loạn, xung đột vũ trang, khủng bố; không sử
dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn.
- Các quyền cơ bản của con người (nhân quyền): Trong nhà nước pháp
quyền, các quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc
tế, phải được tơn trọng và bảo vệ một cách hiệu quả.
- Chính quyền mở: Chính quyền mở là một yếu tố cốt lõi của nhà nước
pháp quyền vì nó thúc đẩy sự liên hệ, tham gia, hợp tác và khả năng tiếp cận với
chính quyền của người dân và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước.
Chính quyền mở khơng đơn thuần hàm ý sự minh bạch, mà còn bao gồm các yếu
tố trong sạch, công khai, pháp luật ổn định.
- Thực thi pháp luật: Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải được thực
thi nghiêm chỉnh, kịp thời, đúng trình tự thủ tục.
- Tư pháp dân sự: Trong nhà nước pháp quyền, nhà nước phải bảo đảm rằng
người dân có khả năng giải quyết các xung đột, mâu thuẫn dân sự thơng qua các cơ
quan tư pháp chính thức, theo cách thức hịa bình và hiệu quả, chứ khơng phải “tự
xử” bằng các biện pháp bạo lực. Muốn vậy, các cơ quan tư pháp phải dễ tiếp cận,
công bằng, vô tư, hiệu quả.

9



- Tư pháp hình sự: Nhà nước pháp quyền phải có một hệ thống tư pháp hình
sự hiệu quả để ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ trật tự, an ninh của xã hội. Hệ thống
này phải được độc lập khỏi mọi sự can thiệp khơng chính đáng từ các chủ thể bên
ngoài, nhưng đồng thời phải bảo đảm các quyền con người trong tố tụng hình sự.
- Tư pháp khơng chính thức: Nhà nước pháp quyền khuyến khích các loại
hình tư pháp truyền thống (khơng chính thức) như các tịa án tôn giáo, bộ lạc,… để
giải quyết các xung đột nhỏ trong cộng đồng. Tuy nhiên, tư pháp khơng chính thức
cũng phải tuân thủ các tiêu chuẩn như vô tư, hiệu quả, tôn trọng các quyền con
người,…
2.2. Đánh giá về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu
tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khố VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của
Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển
về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân; Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân
làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức; Quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước đặt dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà
nước pháp quyền phải bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo

đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.

10


Để có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan, tổng thể về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, cần đối chiếu cụ thể đến các yếu tố,
tiêu chí đánh giá về mức độ pháp quyền của một nhà nước, cụ thể như sau:
- Quyền lực của chính quyền bị giới hạn: Trên cơ sở nhận thức về sự cần
thiết, vai trò, ý nghĩa của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, Đảng, Nhà nước ta
đã khơng ngừng xây dựng và hồn thiện cơ chế, chính sách nhằm kiểm sốt quyền
lực của các cơ quan nhà nước dưới các cấp độ, hình thức khác nhau. Như Điều 2 –
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân”, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ
chức quản lý xã hội bằng pháp luật một cách dân chủ và bảo đảm thượng tôn pháp
luật. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã quyết liệt trong thực hiện
phương châm: “Khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”,
trong xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của Đảng cũng như hành vi
vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng
cịn chậm. Hiện nay, chưa có các quy định cụ thể về việc kiểm soát quyền lực ở
khu vực các cơ quan hành chính. Do đó, cần nghiên cứu để sớm ban hành các quy
định cụ thể về kiểm sốt quyền lực ở khu vực này.
- Khơng tham nhũng: Tham nhũng và đấu tranh phịng, chống tham nhũng
ln nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam,
tham nhũng được nhận diện là một quốc nạn, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm
niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cơng tác
phịng, chống tham nhũng được xác định là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và
phức tạp. Trong thời gian qua, trên tinh thần “khơng có vùng cấm, khơng có đặc
quyền, khơng có ngoại lệ” cơng tác phịng chống tham nhũng ở Việt Nam đã đạt

được những kết quả đáng ghi nhận, nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng
lên.
- Trật tự và an ninh: Trong thời gian qua, tình hình thế giới, khu vực diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, có những biến động khó dự báo. Các yếu tố tác động

11


tới ổn định chính trị, an ninh, trật tự diễn ra đa chiều và có mặt gay gắt hơn. Tuy
nhiên, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự đồn
kết, đồng lịng của nhân dân cùng việc thực hiện tốt nhiệm vụ của lực lược vũ
trang và cả hệ thống chính trị, tình hình trật tự an ninh ở nước ta trong những năm
qua được bảo đảm và giữ gìn, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, tạo
chuyển biến tích cực về trật tự an tồn xã hội, qua đó tạo mơi trường hịa bình, ổn
định, để phát triển kinh tế - xã hội mở rộng đối ngoại, nâng tầm vị thế đất nước.
- Các quyền cơ bản của con người (nhân quyền): Mục tiêu nhất quán và
xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là không ngừng nỗ lực để người dân
được thụ hưởng đầy đủ nhất các quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Quan điểm, tư tưởng đúng đắn, tiến bộ và hệ thống pháp luật về quyền con người
của Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Người dân đã và đang được thụ hưởng quyền
con người trên mọi lĩnh vực theo tinh thần các công ước quốc tế, phù hợp với thực
tiễn của đất nước, được quy định cụ thể tại Hiến pháp cũng như nhiều Bộ luật, luật
quan trọng khác. Tuy nhiên, một số thế lực thù địch vẫn cố tình tìm cách phủ nhận,
đưa ra những nhận xét, đánh giá sai lệch, bịa đặt, xuyên tạc về việc thực hiện
quyền con người tại Việt Nam.
- Chính quyền mở: Ở Việt Nam, khái niệm chính quyền mở mới chỉ được
một số tác giả đề cập từ năm 2014 (gọi là “chính phủ mở”), xem đó như là “con
đường phía trước” để cải cách nền hành chính cơng. Dù vậy, cần thấy rằng trước
đó Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã đề cao quyền làm chủ của người dân

và nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng môi trường và điều kiện để
chính sách của nhà nước trở nên cơng khai hơn, có sự tham gia nhiều hơn và đáp
ứng tốt hơn các nhu cầu của người dân – đây thực chất là những yếu tố nền tảng
của chính quyền mở. Hiện nay, hệ thống chính quyền nước ta đang áp dụng công
nghệ thông tin – truyền thông hiện đại và dữ liệu như là các tài nguyên và công cụ
để tạo ra các tương tác có ý nghĩa hơn giữa các cơng dân và chính phủ. Hiện nay,
Việt Nam đang xem xét và có nguyện vọng tham gia Tổ chức Đối tác Chính phủ
Mở - OGP (Open Government Partnership) nhằm tạo ra các kế hoạch hành động

12


để chính phủ bao quát hơn, sẵn sàng phản hồi người dân và có trách nhiệm giải
trình tốt hơn.
- Thực thi pháp luật: Việc thực thi pháp luật trong cuộc sống là vô cùng
quan trọng, đặc biệt là với nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kì đổi mới
như nước ta hiện nay. Trong thời gian qua, nước ta đã từng bước xây dựng, hoàn
thiện một hệ thống pháp luật hồn chỉnh, thống nhất và hiệu quả, có tính khả thi
cao bằng việc sửa đổi Hiến pháp, ban hành nhiều Luật mới, sửa đổi, bổ sung
những Bộ luật, luật còn bất cập; tuy nhiên việc thực thi, áp dụng pháp luật vào
cuộc sống của người dân vẫn còn có những hạn chế, vướng mắc, chồng chéo.
- Tư pháp dân sự: Trong thời gian qua, nền tư pháp dân sự luôn được Đảng
và nhà nước ta quan tâm và đảm bảo bằng hệ thống pháp luật về dân sự với nhiều
Bộ luật, luật quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ dân sự xảy ra trong xã hội.
Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp (Tịa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra,…) đã
thực hiện hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp cho mọi chủ thể.
- Tư pháp hình sự: Cũng giống như tư pháp dân sự, hệ thống tư pháp hình
sự ở nước ta đang dần hồn thiện và bảo đảm hơn, góp phần bảo vệ trật tự, an ninh
của xã hội. Theo yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược

cải cách tư pháp, các quyền tư pháp, quyền con người trong tố tụng hình sự của
người dân được đảm bảo và nâng cao. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tại cơ
quan tư pháp phát huy được hiệu quả, đảm bảo trình tự thủ tục theo quy định của
pháp luật, tính cơng bằng và nghiêm minh.
- Tư pháp khơng chính thức: Từ rất lâu, hoạt động tư pháp khơng chính thức
ở nước ta đã hình thành và phát triển theo từng giai đoạn, thời kỳ của đất nước
bằng nhiều phương thức, loại hình đa dạng thơng qua các cơng tác như dân vận,
hòa giải, đối thoại,…được thực hiện từ trung ương đến địa phương. Thông qua sự
tôn trọng pháp luật, quyền con người hay các tiêu chuẩn về đạo đức, các ban dân
vân, tổ hịa giải đã góp phần khơng nhỏ vào việc giải quyết các xung đột, mâu
thuẫn trong cộng đồng và xã hội, giảm bớt áp lực, chi phí, thời gian cho nhà nước
và người dân.

13


Nhìn chung, thơng qua các tiêu chí đánh giá về mức độ pháp quyền của một
nhà nước có thể khẳng định rằng Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặt
dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Để đạt được mục tiêu xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt
động liệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước trong
thời gian tới cần có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự điều
hành thống nhất của Nhà nước và sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị và đặc
biệt là sự đồng lịng, đồn kết, chung sức của nhân dân gắn với việc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tuân theo các quy luật thị trường theo định hướng
XHCN cũng như thượng tôn pháp luật, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật và bảo vệ quyền con người.
III. PHẦN LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền lực nhà

nước thống nhất có sự phân cơng phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản thực hiện công cuộc đổi mới hệ
thống chính trị nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong ba nhánh quyền lực nói
trên, thì nhánh quyền tư pháp là nhánh quyền được tổ chức để thực hiện họat động
xét xử và những họat động phục vụ trực tiếp cho họat động xét xử như điều tra,
cơng tố, bổ trợ tư pháp. Tịa án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung nhất của quyền
tư pháp, họat động xét xử của Tịa án cũng chính là họat động thể hiện chất lượng
họat động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp và tồn thể bộ máy nhà nước.
Với ý nghĩa đó, hệ thống Tịa án nhân dân các cấp nói chung và Cơ quan
Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An nói riêng đang từng bước hồn
thiện, nâng cao vị trí, vai trò của ngành Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước,
trong bộ máy nhà nước đặc biệt là trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay.
Trong những năm qua, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã
triển khai thực hiện nhiệm vụ giải quyết các loại án, các nhiệm vụ khác theo thẩm

14


quyền; tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công
tác tư pháp và cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị,
khẳng định vị trí và vai trị của Tịa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam, cụ
thể như sau:
1. Nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết
tranh chấp trong đời sống xã hội
Điều này được cụ thể hóa qua cơng tác giải quyết, xét xử các loại vụ việc;
xem xét áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án, cụ thể:
Trong năm 2020 (từ 01/10/2019 đến 30/9/2020) Toà án nhân dân thành phố
Vinh đã thụ lý: 2.473 vụ việc, chuyển vụ án theo thẩm quyền 26 vụ; số vụ việc thụ

lý để giải quyết là: 2.447 vụ, việc (1.992 vụ, 455 việc); đã giải quyết 2.357 vụ, việc
(1.902 vụ, 455 việc); đạt tỷ lệ 95,3% %; số án lưu hạ chuyển tháng 10/2020 là 90
vụ.
- Các vụ án hình sự được xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Trong xét xử đã chú
trọng việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, tạo điều kiện
cho bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ tố tụng, bình đẳng trong việc tranh tụng tại phiên tịa.
- Cơng tác giải quyết án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động có nhiều
chuyển biến tích cực. Đây là loại án mà Tòa án phải tự tiến hành xây dựng hồ sơ,
xác minh thu thập chứng cứ làm căn cứ để giải quyết vụ án nên phải quan tâm làm
tốt công tác tố tụng để các đương sự thực hiện các nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
theo quy định của pháp luật. Các vụ án đưa ra xét xử đều thực hiện theo đúng trình
tự thủ tục, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa tạo điều kiện cho các bên đương sự
tranh luận với nhau để làm sáng tỏ tình tiết vụ án. Do vậy, chất lượng xét xử các
loại án được nâng cao, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
- Các vụ án án hành chính chủ yếu liên quan đến các quyết định hành chính
hành vi hành chính về quản lý đất đai. Trong quá trình giải quyết các vụ án hành
chính, cơng tác tổ chức đối thoại giữa người khởi kiện; người bị kiện và người có

15


quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chú trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên
theo luật định.
- Công tác giải quyết việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa
án nhân dân được quan tâm và chú trọng. Việc lập hồ sơ xem xét quyết định các
đối tượng có hành vi vi phạm hành chính trên phải được xử lý bằng biện pháp
hành chính và phải kịp thời thì mới góp phần đấu tranh phịng và chống tội phạm.
Nhìn chung, chất lượng giải quyết, xét xử được nâng cao, xét xử đúng

người đúng tội đúng pháp luật, khơng có trường hợp nào xử oan sai. Trong năm
2020, Tòa án nhân dân thành phố Vinh mở được 57 vụ án rút kinh nghiệm các loại,
chủ yếu là án hình sự, dân sự và kinh doanh thương mại, trên tổng số 20 thẩm
phán. Thông qua các phiên tòa rút kinh nghiệm, các Thẩm phán, Thư ký nâng cao
kỹ năng xử lý các tình huống và điều hành phiên tịa cũng như tinh thần trách
nhiệm, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu
cải cách tư pháp.
2. Bảo vệ pháp luật
Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là thiết
chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trị đặc biệt trong việc bảo vệ pháp
luật. Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo vệ những giá trị
cơng bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Thơng qua đó, việc áp dụng pháp luật
và tn thủ của pháp luật tại Tòa án nhân dân thành phố Vinh được thực hiện
nghiêm minh và hiệu quả. Các bản án, quyết định của Tòa án được ban hành đúng
quy định của pháp luật, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
3. Bảo vệ quyền công dân, quyền con người
Quyền con người là quyền thiêng liêng, quan trọng nhất đối với con người
được Hiếp pháp ghi nhận và thực hiện trực tiếp mà không cần thông qua luật định.
Trong những năm qua, trên thần cải cách tư pháp, Tòa án nhân dân thành phố Vinh
đã tập trung đẩy mạnh giải quyết các loại vụ, việc, đặc biệt là các loại vụ, việc liên
quan đến quyền con người, quyền công dân như: tuyên bố một người đã chết, yêu
cầu tuyên bố mất tích, xác định cha, mẹ cho con, tuyên bố tước, hạn chế tự do, áp
dụng các hình phạt liên quan đến quyền con người,…). Trong hoạt động tố tụng

16


cũng như việc tranh tụng tại phiên tòa, các quyền con người, quyền công dân,
quyền tư pháp được tôn trọng và nâng cao, đảm bảo thực hiện theo quy định của
pháp luật.

4. Giám sát, kiểm tra hoạt động của Bộ máy Nhà nước
Trong Nhà nước dân chủ, quyền lực Nhà nước là quyền lực của dân, chính
quyền khơng chỉ phải lấy dân làm gốc mà còn phải biết dựa vào dân va phục vụ
nhân dân. Trên tinh thần đó, trong thời gian qua, cơng tác kiểm tra, giám sát của
Tịa án nhân dân thành phố Vinh được đẩy mạnh và chú trọng nên mức độ tuân thủ
pháp luật của cán bộ, công chức tại đơn vị luôn được đề cao, phát huy tinh thần
trách nhiệm nhằm phục vụ nhân dân. Ngồi ra, đơn vị cũng đã tiến hành cơng khai
hàng nghìn bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật lên Cổng thơng tin điện tử của
ngành Tịa án, một mặt nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát hoạt
động của bộ máy nhà nước đồng thời tạo điều kiện cho mọi cá nhân, tổ chức có thể
tiếp cận pháp luật một cách dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng hơn.
5. Về các mặt cơng tác khác
- Thời gian qua, Tòa án nhân dân thành phố Vinh đã làm tốt cơng tác sắp
xếp, bố trí cán bộ, đảm bảo công bằng, khách quan, dân chủ, đúng quy trình, phát
huy được sở trường, thế mạnh của từng cán bộ. Các Tịa chun trách (Tịa Hình
sự, Tịa Dân sự), bộ phận văn phòng được sắp xếp thep hướng tinh gọn và hiệu
quả.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các chức danh tư
pháp và chức danh quản lý được quan tâm và chú trọng. Từ năm 2018 đến nay,
Tòa án nhân dân thành phố Vinh đã đề nghị và được Chủ tịch nước ký Quyết định
bổ nhiệm mới 02 Thẩm phấn sơ cấp; tái bổ nhiệm 01 Thẩm phán trung cấp và 05
Thẩm phán sơ cấp; cử 06 Thư ký tham gia học lớp nghiệp vụ xét xử cũng như tổ
chức tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và
Thư ký tại Học viện Tịa án.
- Cơng tác Hội thẩm nhân dân được quan tâm và chú trọng. Trong tháng 6
năm 2021, Hội đồng nhân dân thành phố Vinh đã bầu ra 38 Hội thẩm nhân dân
nhiệm kỳ 2021 – 2026, đảm bảo các tiêu chuẩn tham gia vào quá trình xét xử tại

17



Tòa án. Cơ quan cũng đảm bảo việc trang bị cho Hội thẩm nhân dân các tài liệu,
văn bản pháp luật cần thiết cũng như trang phục, chế độ để phục vụ công tác xét
xử.
- Việc đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị phụ vụ công tác chuyên môn
được chú trọng. Dự kiến sang tháng 10 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố
Vinh sẽ chuyển sang trụ sở làm việc mới khang trang, đầy đủ, đáp ứng tốt yêu cầu
mới của cải cách tư pháp và phục vụ nhân dân (phòng xử án, phòng hòa giải, đối
thoại, bộ phận một cửa, tiếp nhận đơn thư,…).
- Đơn vị đã thành lập bộ phận văn phòng để tiếp nhận đơn, hướng dẫn các
thủ tục khởi kiện cho người dân theo chế độ một cửa theo đúng quy định, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có việc đến Tịa án giải quyết.
- Triển khai có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
chuyên môn nghiệp vụ và trong hoạt động quản lý, điều hành, tiếp tục đổi mới thủ
tục hành chính - tư pháp. Đã thực hiện việc cơng khai hàng nghìn bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật lên Cổng thơng tin điện tử Tòa án nhân dân; triển khai
chủ trương của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương về thí điểm tăng cường
hịa giải, đối thoại giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tịa án.
- Chủ động thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và cơ
quan hành chính cùng cấp (Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi
hành án, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Cơ quan giám định,…).
Nhìn chung, trong những năm qua, mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với
Tòa án là rất nặng nề, nhưng với việc đề ra nhiều giải pháp đột phá, hiệu quả, sát
với thực tế, nên hoạt động của Tòa án nhân dân thành phố Vinh tiếp tục có những
chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt công tác. Công tác giải quyết, xét xử các
loại vụ án đã có những tiến bộ cả về tiến độ và chất lượng giải quyết. Cơng tác cải
cách thủ tục hành chính tư pháp và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin được
quan tâm thực hiện. Việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp được
thực hiện có hiệu quả, qua đó các hoạt động Tịa án ngày càng được cơng khai,
minh bạch, tổ chức và hoạt động của Toà án ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng bản

chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của hoạt động xét xử, phù hợp với nguyên

18


tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu
cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân và nhà nước ta trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập kinh tế quốc tế./.

19



×