Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.59 KB, 24 trang )

Học viện chính trị - hành chính quốc gia hồ chí minh
Học viện chính trị - hành chính khu vực I
______________________
NGUYN NGC MNH
Học viên cao học khóa 2009-2011
Chuyên ngành: LịCH Sử ĐảNG CộNG SảN VIệT NAM
NHNG NI DUNG CH YU TRONG TRUYN THNG
DNG N C V GI NC CA DN TC VIT NAM
TIU LUN LCH S VIT NAM

Hà Nội, tháng 06 năm 2010
MỞ ĐẦU
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần
của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị
đạo đức chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với
những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo lưu cho đến thời điểm
hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương
đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn
mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá
nhân, giữa cá nhân và xã hội. Xét trong tương quan với thế giới và khu vực,
đặc biệt là với các dân tộc phương Đông, giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc ta có những nét chung với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong
quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề
chung như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ổn định và phát triển đời sống xã
hội... Mặt khác, sự giao lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay
mức độ khác, nhất là với các nước gần nhau đã ảnh hưởng đến nhau khá rõ
rệt. Cái khác nhau ở đây là trật tự sắp xếp các giá trị đạo đức, mối tương
quan giữa chúng và những sắc thái riêng hình thành trong điều kiện lịch sử
đặc thù của từng dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó. Giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng


trong lịch sử phát triển lâu dài trên giải đất Việt Nam với tất cả những điều
kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó
NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam
Truyền thống bao giờ cũng là sản phẩm của một cộng đồng tồn tại lâu
đời trên một vùng đất nhất định. Truyền thống dựng nước gắn với giữ nước của
Việt Nam là do cộng đồng người Việt tạo dựng trong lịch sử lâu đời trên dải
đất Việt Nam với tất cả những điều kiện và đặc điểm của Tổ quốc Việt Nam.
Vậy những đặc thù tạo nên truyền thống của Việt Nam là gì?
Trước hết, Việt Nam là nước có vị trí quan trọng của vùng Đông Nam
Á. Nằm ở góc cực Đông-Nam của đại lục Châu Á, nước ta vừa nhìn ra Thái
Bình Dương với bờ biển dài trên 3200 km, vừa nối liền với lục địa bằng hệ
thống giao thông thuỷ bộ và đường không, thuận lợi từ Nam lên Bắc, từ Đông
sang Tây. Là vùng khí hậu phù hợp với nghề nông nghiệp trồng lúa nước,
quanh năm cây cỏ xanh tươi, lại nhiều khoảng sản, thuỷ hải sản, tạo ra tiềm
năng cho sự phát triển của dân tộc. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nằm trong khu
vực có khí hậu nóng ẩm hà khắc, thường xuyên có bão lụt, hạn hán, núi non
hiểm trở, dân cư phân bố không đồng đều trong các vùng, ở đồng bằng tập
trung đông đúc, miền núi tương đối thưa thớt. Ở Việt Nam, hệ thống sông ngòi
khá dày đặc, để có khắc phục tình trạng ngập lụt trong các mùa mưa bão, người
dân phải tích cực xây dựng hệ thống đê điều, kênh mương.
Nước ta trong lịch sử cổ đại và trung đại luôn luôn bi đè nặng bởi
bóng đen của những đế chế hùng mạnh từ phương Bắc. Đối với đế chế đó,
phương Nam luôn là miền đất lạ, giàu có, nhiều sản vật quý. Dải đất phương
Nam nằm giữa vùng núi cao trùng điệp và một bên là đại dương mênh
mông, luôn luôn là cái hành lang cần thiết cho tham vọng bành trướng với
những đoàn quân khổng lồ rong ruổi vó ngựa từ Bắc xuống Nam Á.
Trong thời cận đại và hiện đại, Việt Nam có vị trí chiến lược trong
khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương nhiều tài nguyên phong phú, là
nơi bọn thực dân cũ và thực dân mới dòm ngó và xâm lược.

Với điều kiện khách quan như vậy, để tồn tại được, các cư dân Việt Nam
từ xưa đã phải sớm cố kết lại, chống chọi với thiên nhiên và ngoại xâm, đối phó
với quá trình đống hoá hàng ngàn năm trong thời Bắc thuộc; vùng lên giành
quyền tự chủ; xây dựng đất nước, giữ vững độc lập chủ quyền, chống các cuộc
chiến tranh xâm lược liên tiếp của các thế lực hùng mạnh và tàn bạo của các đế
chế phương Bắc và chủ nghĩa đế quốc thực dân phương Tây, trên cơ sở đó đã
tạo nên đặc thù trong truyền thống dựng nước và giữ nước của Việt Nam.
Hiểu hoàn cảnh đặc thù đó, chúng ta có thể khẳng định rằng lịch sử
quốc gia dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ
nước gắn bó với nhau. Dựng nước luôn luôn gắn chặt với giữ nước, trong đó
dựng nước là yếu tố cơ bản. Đây là quan điểm nhất quán của dân tộc Việt
Nam trong cuộc đấu tranh để dựng nước và giữa nước. Phải xây dựng đất
nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế
lực thù địch và phải giữ nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong
quá trình hình thành và phát triển, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến
hệ tư tưởng và các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta. Ngày
nay, chúng ta đang đề cập đến hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó cũng chính là thể hiện mối quan
hệ giữa dựng nước và giữ nước. Sự kết hợp bền vững giữa dựng nước và giữ
nước, trong hoàn cảnh và điều kiện đặc thù Việt Nam tạo nên một truyền
thống tốt đẹp xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến
ngày nay với biết bao kỳ tích anh hùng.
2. Một số quan điểm về các giá trị trong truyền thống của dân tộc
Việt Nam
Lâu nay, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống
đã được nhiều người, nhất là các nhà khoa học quan tâm.
GS Nguyễn Hồng Phong cho rằng, tính cách dân tộc gần như là tất cả
nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng;
trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và
lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo; lạc quan.

GS Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương ng-
ười, vì nghĩa
GS Vũ Khiêu, chủ biên công trình "Đạo đức mới" cho rằng, trong
những truyền thống quý báu của dân tộc, nổi bật lên nhất là truyền thống đạo
đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng
yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân
đạo, lòng yêu thương và quý trọng con ngời, trong đó yêu nước là bậc thang
cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc
Kết quả nghiên cứu của Chơng trình khoa học công nghệ cấp nhà
nước: "Con ngời Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế -
xã hội" cũng đã bước đầu khẳng định: Cốt lõi của các giá trị truyền thống là
đạo đức, phẩm chất nhân cách con ngời Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu
nước, vì nghĩa, lòng thương người.
Những giá trị đạo đức - tinh thần truyền thống dân tộc cũng được đề
cập đến trong một số văn kiện của Đảng, Nhà nước và tác phẩm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong
công tác tư tưởng hiện nay, khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền thống
vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng
sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt
khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn
để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, một lần nữa khẳng định: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị
bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun
đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao

động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống..."
Từ những nhận định trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, trong hệ thống giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta,
giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật. Vì vậy, khi đề cập đến các giá trị văn
hóa, giá trị tinh thần truyền thống hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh đến giá
trị đạo đức.
Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước
được khẳng định là giá trị cốt lõi, giá trị định hướng các giá trị khác.
Ba là, một số phẩm chất đạo đức phổ biến của con ngời Việt Nam
như tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, đức tính cần cù, tinh thần lạc quan...
cũng thường được đề cập và coi đó là những giá trị đạo đức truyền thống
quý báu của dân tộc ta.
Dựa vào tiêu chí xác định giá trị, giá trị đạo đức và từ quan điểm của
Đảng ta cũng như của các nhà khoa học, có thể khẳng định các giá trị đạo
đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm:
- Chủ nghĩa yêu nước.
- Lòng thương ngời sâu sắc.
- Tinh thần đoàn kết cộng đồng.
- Đức tính cần kiệm.
- Lòng dũng cảm, bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy
chung, lạc quan.
Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện
lịch sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả và
là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước
của dân tộc mang đậm nét đặc thù của sự phát triển xã hội trong lịch sử Việt
Nam. Đó còn là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều trào
lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị đạo
đức - văn hóa vốn có của mình, nhất là khi có sự du nhập chủ nghĩa Mác -
Lênin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Nội dung của những giá trị trong truyền thống dân tộc Việt Nam

a. Truyền thống yêu nước
Trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, yêu nước là "tiêu
điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị", là "động lực tình cảm lớn
nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá
trị đạo đức của dân tộc ta". Yêu nước ở Việt Nam trở thành một truyền
thống rồi được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với
Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ và đem lại
nhiều lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước là tình cảm phổ biến của
nhân dân các dân tộc trên thế giới. V.I. Lênin đã từng khẳng định: "Chủ nghĩa
yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất đã được củng cố qua
hàng trăm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập". Song, sự hình
thành sớm hay muộn, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện của nó
tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc
Trong lịch sử phát triển của một số quốc gia, tinh thần dân tộc có lúc
phát triển chệch hướng theo chủ nghĩa sôvanh nước lớn, đại dân tộc hoặc sa
vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Đó là một trong những nguyên nhân sâu xa
của các xung đột sắc tộc và xung đột giữa một số quốc gia, khu vực trên thế
giới. Nhưng lịch sử cũng cho thấy sức mạnh to lớn của chủ nghĩa yêu nước
một khi nó được phát triển theo xu hướng lành mạnh, tích cực mà chủ nghĩa
yêu nước của nhân dân ta là một minh chứng đầy sức thuyết phục.
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xa đến nay.
Lòng yêu nước có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân -
gia đình - làng xã - Tổ quốc. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân lên trên hết, là chăm lo xây dựng quê hương, đất nước, sẵn sàng chống
đô hộ và xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với mỗi người, lòng yêu nước phát triển từ
những tình cảm bình dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần dần
phát triển thành tình cảm gắn bó với làng xóm, quê hương và cao hơn hết là
tình yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc.

Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển đất
nước. Phải xây dựng đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có khả năng
chiến thắng các thế lực thù địch bên ngoài và có giữ được Tổ quốc mới có
điều kiện xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển của
lịch sử dân tộc, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến những thành quả
vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Yêu nước đối với nhân dân ta trước hết
là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa... để tạo
sức mạnh bên trong bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc.
Trải qua hơn một nghìn năm dưới chính sách đô hộ của bọn phong
kiến phương Bắc, cha ông ta vẫn bám trụ kiên cường, giữ đất, giữ làng, gắn
bó với mồ mả tổ tiên, giữ vững nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Mỗi làng
xóm Việt Nam là một thành trì vững chắc chống chính sách đô hộ của ngoại
bang, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Tinh thần yêu nước, thương nòi của
nhân dân ta, trong muôn vàn khó khăn, gian khổ vẫn không giảm sút mà âm
ỉ cháy trong lòng người Việt và được thể hiện bằng những hành động cụ thể
trong đấu tranh chinh phục tự nhiên, xây dựng cuộc sống, giữ gìn những
phong tục tập quán tốt đẹp có từ buổi đầu dựng nước để khi có thời cơ thì
đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước.
Khi công cuộc chống xâm lược, giải phóng đất nước đã hoàn thành,
truyền thống yêu nước được thể hiện chủ yếu trong điều kiện tồn tại nhà
nước phong kiến độc lập. Trong thời gian dài, nhất là từ thế kỷ X đến thế kỷ
XV, nhân dân cả nước ta thực sự bắt tay vào việc xây dựng đất nước giàu
mạnh. Công cuộc khai khẩn đất đai, xây dựng các công trình trị thủy để phát
triển sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề... đã góp phần hình thành
một nền kinh tế tự chủ, đáp ứng phần lớn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân
trong nước và đặt cơ sở cho quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực.
Trên cơ sở kinh tế đó, nhà nước phong kiến được củng cố và phát triển với
đầy đủ các thiết chế chính trị, quân sự, văn hóa... ý thức dân tộc do đó cũng
được tăng cường và củng cố thêm một bước.
Trong sự nghiệp giữ nước, truyền thống yêu nước của nhân dân ta

được thể hiện nổi bật. Nạn ngoại xâm là một nguy cơ gần như có tính chất
thường trực trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Trong hầu hết các trường
hợp, kẻ đi xâm lược là những nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn ta
nhiều lần. Cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của nhân dân ta diễn ra trong sự so
sánh lực lượng chênh lệch có lợi về phía địch. Lúc này, mọi mâu thuẫn trong

×