Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Từ đó hãy đánh giá việc vận dụng các học thuyết tiêu biểu về nhà nước vào điều kiện Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.34 KB, 9 trang )

Câu hỏi: Anh/chị trình bày cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay. Từ đó hãy đánh giá việc vận dụng các học thuyết tiêu biểu
về nhà nước vào điều kiện Việt Nam?
Trả lời:
1. Khái niệm Quyền lực nhà nước (QLNN)
QLNN là quyền lực gắn liền với sự ra đời của nhà nước, theo đó nhà nước
được áp dặt ý chí và buộc những chủ thể khác trong xã hội phải phục tùng mệnh
lệnh của mình nhằm đảm bảo an ninh, duy trì trật tự xã hội.
Nói cách khác, QLNN là quyền lực chính trị được thực hiện bằng bộ máy
nhà nước là cơ quan, là cơng cụ của quyền lực chính trị. Nhà nước thể hiện một
cách tập trung quyền lực chính trị.
2. Cách thức tổ chức QLNN ở Việt Nam hiện nay
Trong điều kiện lịch sử mới, trên cơ sở Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát
triển năm 2011), kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thành tựu của lịch sử lập hiến nước
nhà, với sự đồng thuận của nhân dân, Hiến pháp mới (năm 2013) đã được sửa đổi,
bổ sung cả về nội dung, bố cục và kỹ thuật lập hiến, bảo đảm xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Một trong những nội dung quan trọng được Hiến pháp mới tiếp tục kế thừa và
phát triển, đó là nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước: “QLNN là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp mới khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hịa
XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả QLNN thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
QLNN là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

1



Việc hiến định nguyên tắc trên đã thể hiện bước phát triển lớn trong tư duy
lý luận của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền nhân dân, về nguyên tắc, mục tiêu
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN dựa trên những cơ
sở lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Thực tế ở nước ta chỉ ra rằng, QLNN dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay
tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy
quyền, giao quyền. Do vậy, nói QLNN là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở
mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước.
Ngoài ra, Hiến pháp mới chỉ rõ phương thức: “Nhân dân thực hiện QLNN
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân
dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Tuy nhiên, kiểm soát QLNN là một vấn đề phức tạp và QLNN chỉ có thể
được kiểm sốt khi Nhà nước có cơ chế xác định rõ ràng và có các điều kiện cần
thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm hình thức kiểm sốt
theo chiều ngang (là sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
bộ máy nhà nước) và hình thức kiểm sốt theo chiều dọc (là sự kiểm soát giữa
trung ương và địa phương thông qua việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa
các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương; sự
kiểm soát của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của QLNN đối với các cơ
quan được ủy quyền thực thi QLNN), cụ thể như sau:
2.1. Về hình thức kiểm sốt theo chiều ngang
Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
2.1.1. Thể hiện rõ sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy
nhà nước.
- Đối với các cơ quan ở trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan QLNN cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước;

Chính phủ được khẳng định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan

2


thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Tòa án nhân
dân được xác định là cơ quan xét xử và là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Như vậy, mặc dù Nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập
nhưng Hiến pháp mới đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập” khi đã ghi
nhận rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp mới và trên thực
tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc
chuyên nghiệp hóa các quyền mà cịn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát
quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy,
chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện
đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định
của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm sốt QLNN mới có hiệu quả.
- Đối với việc phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương: để tạo
cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới
khơng quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền
địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và
bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề
của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp
trên”; “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở
phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở
mỗi cấp chính quyền địa phương”. Cách quy định như vậy không những tạo sự
phân công, phân nhiệm rành mạch mà còn tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ
chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.
2.1.2. Thể hiện rõ hơn sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc
thực thi QLNN.

Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ chế kiểm sốt
QLNN cịn được thực hiện thơng qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh sự lấn sân, chồng chéo khi
thực thi các chức năng, nhiệm vụ đó.

3


- Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp:
Hiến pháp mới khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp.Theo đó, sự phối hợp, kiểm sốt hoạt động của Quốc hội cũng
được thể hiện ở việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này.
- Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp
Hiến pháp mới khẳng định: Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ
của mình.
Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ phối hợp giữa Quốc
hội và Chính phủ còn được thể hiện rõ ở quyền quyết định và hoạch định chính
sách. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định
hướng quốc gia; cịn Chính phủ sẽ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang
tính chất điều hành, thể hiện sự phản ứng linh hoạt của Nhà nước với thực tiễn
phát triển trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn
được thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt
động của Chính phủ, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang
bộ; thành lập mới, phân chia điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…;
Ủy ban thường vụ quốc hội thì có quyền quyết định, thành lập mới, nhập, chia điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án. Độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của Tòa án là nguyên tắc xuyên suốt và cao
nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được
phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tịa án. Việc bảo vệ pháp luật, cơng lý, tự
do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Do đó, các cơ quan,
tổ chức và cá nhân tơn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và cơng lý trong các
phán quyết của Tịa án chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất,
giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

4


2.1.3. Cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực
tiễn, Hiến pháp mới khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy
nhà nước, cụ thể:
- Kiểm soát đối với quyền lập pháp: Khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, việc lập hiến, lập pháp được thực hiện
bởi Quốc hội nhưng phải dựa trên ý kiến của nhân dân, được sự đồng thuận của
các đại biểu Quốc hội và ý kiến của Chính phủ, Chủ tịch nước…
- Kiểm soát quyền hành pháp: Cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp
được thực hiện trước hết từ cơ quan lập pháp. Theo đó, Quốc hội có quyền bầu, bãi
nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng... Quốc hội có
quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và thực hiện quyền giám sát hoạt
động của Chính phủ, xem xét báo cáo của Chính phủ.
- Kiểm sốt quyền tư pháp: Tịa án được xác định là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp. Hiện nay, trong cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong

bộ máy nhà nước, Tịa án đóng vai trị quan trọng trong việc phối hợp tham gia vào
quyền lập pháp.
- Kiểm soát hai thiết chế hiến định độc lập: Đây là là hai thiết chế hoạt động
độc lập nhưng vẫn chịu sự giám sát của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Như vậy, kiểm sốt QLNN theo chiều ngang chính là cơ chế kiểm soát bên
trong giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thông qua việc phân định rõ vai
trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp, Hiến pháp mới không chỉ tạo ra cơ chế ngăn chặn sự lạm quyền mà
còn tạo được sự chủ động trong hoạt động của mỗi cơ quan, tiến tới sự hoạt động
đồng bộ của bộ máy nhà nước.
2.2. Về hình thức kiểm sốt theo chiều dọc
Hình thức kiểm sốt này được hiểu là sự kiểm soát của nhân dân đối với các
cơ quan công quyền (theo chiều từ trên xuống và từ dưới lên) và sự phân công,

5


phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ
quan nhà nước ở địa phương.
- Trước hết, cơ chế kiểm soát theo chiều dọc được thực hiện thơng qua hình
thức kiểm sốt quan trọng nhất, kiểm soát của nhân dân - chủ thể tối cao và duy
nhất của QLNN, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát
quyền lực của người chủ đối với chủ thể được ủy quyền là các cơ quan nhà nước.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân dân có quyền kiểm sốt trực tiếp các
cơ quan nhà nước thơng qua việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước; bầu,
miễn nhiệm Đại biểu Quốc hội, giám sát hoạt động của Đại biểu Quốc hội; thông
qua Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn… Bên cạnh đó, thơng qua các
tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp của mình, nhân dân thực hiện việc giám sát
và phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử

và cán bộ, công chức, viên chức.
Đối với cách tiếp cận giám sát từ dưới lên: nhân dân có quyền nêu ý kiến,
nguyện vọng của mình đối với Quốc hội, các cơ quan và tổ chức hữu quan thơng
qua các đại biểu do mình bầu ra…
- Thứ hai, về sự phân cấp, phân quyền, kiểm soát giữa trung ương và địa
phương: Hiến pháp mới ghi nhận HĐND và UBND là một thể thống nhất (dưới
tên chung là chính quyền địa phương), có vị trí quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước.
Như vậy, trong mối quan hệ với các cơ quan trung ương, Hiến pháp mới đã
quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về vị ví, vai trị, chức năng, nhiệm vụ
của chính quyền địa phương. Việc quy định này vừa bảo đảm cho chính quyền địa
phương chủ động, linh hoạt trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn tại địa phương,
vừa giúp các cơ quan trung ương có điều kiện kiểm soát việc thực thi nhiệm vụ của
cơ quan này.
3. Đánh giá việc vận dụng các học thuyết tiêu biểu về nhà nước vào
điều kiện Việt Nam

6


Việc vận dụng các học thuyết tiêu biểu về nhà nước vào điều kiện Việt Nam
được thể hiện rất rõ tại Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
QLNN thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
QLNN là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

- Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu
tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khố VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của
Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển
về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Xuất phát từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các
nguyên tắc sau: QLNN là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn
trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ
luật gốc mang tính nền tảng; Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền cơng
dân, tơn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền,
khơng có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công
tác quản lý nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật; Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
Quyền và nghĩa vụ của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm
thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.

7


Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới
sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền
phải bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.
- Nhận thức “Tất cả QLNN thuộc về Nhân dân” được thể hiện xuyên suốt,
nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp năm 2013, qua đó nhân dân là chủ
thể tối cao của QLNN. Thông qua Hiến pháp, nhân dân giao quyền, nhân dân ủy

quyền QLNN của mình cho Nhà nước. Phương tiện để nhân dân giao quyền, ủy
quyền QLNN của mình, đó là thực hành quyền lập hiến. Bằng quyền lập hiến của
mình, nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính
phủ và quyền tư pháp cho Tịa án.
Ngồi ra, với triết lý nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến: Hiến pháp mới
đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Lần đầu tiên trong Hiến pháp
nước ta khẳng định các nguyên tắc: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các
quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
- Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã thể hiện sự ứng dụng
Thuyết phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở mức độ kết
hợp với tư tưởng chủ đạo truyền thống là tư tưởng Tập quyền. Sự kết hợp này
được đúc kết thành nguyên tắc “Quyền lực tập trung” với hai nội dung sau:
+ Thứ nhất, QLNN ở Việt Nam là thống nhất. Sự thống nhất ở đây thể hiện
ở hai phương diện, về phương diện chính trị, QLNN tập trung thống nhất ở Nhân
dân, thể hiện qụa nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân”. về phương diện tổ chức thực
hiện, QLNN thống nhất ở Quốc hội. Thơng qua hình thức dân chủ đại diện, Nhân
dân trao tồn bộ quyền lực của mình cho Quốc hội. Dưới góc nhìn của Thuyết
phân quyền thì quyền lực được trao bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Như vậy là từ “quyền lực thống nhất ở Nhân dân”, bằng cơ chế dân chủ đại
diện, đã trở thành “quyền lực thống nhất ở Quốc hội” để quyền lực được tổ chức
thực hiện thông qua bộ máy nhà nước. Sự thống nhất quyền lực này không gây ra

8


chuyên quyền mà chỉ càng bảo đảm hơn tính dân chủ của bộ máy nhà nước bởi vì
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, có mối quan hệ chặt chẽ và
chịu trách nhiệm trước Nhân dân thông qua chế độ bầu cử. Hơn nữa, quyền lực

thống nhất ở Quốc hội khơng có nghĩa là Quốc hội trực tiếp thực thi tất cả các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Thứ hai, mặc dù Quốc hội là nơi thống nhất QLNN song Quốc hội không
trực tiếp thực hiện cả ba quyền mà trong bộ máy nhà nước có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Ba quyền này được phân công cho các cơ quan nhà nước để
thực hiện. Tuy nhiên, ba cơ quan này không thực hiện các quyền được giao một
cách hoàn toàn riêng rẽ mà ln có sự phối hợp để thực hiện từng quyền một cách
hiệu quả, ví dụ Chính phủ, Tồ án phối hợp với Quốc hội để thực hiện quyền lập
pháp; Chính phủ phối hợp với Toà án để thực hiện quyền tư pháp. Không những
phối hợp, giữa các cơ quan nhà nước cịn có sự kiểm sốt lẫn nhau để bảo đảm
khơng có sự lạm quyền trong q trình thực hiện các quyền nói trên, ví dụ Quốc
hội giám sát Chính phủ, Toà án và Viện kiểm sát, Toà án kiểm sốt đối với các cơ
quan hành chính nhà nước; trong nội bộ hệ thống hành chính nhà nước do Chính
phủ đứng đầu cũng có cơ chế kiểm sốt riêng./.

9



×