Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.27 KB, 40 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MƠN HỌC: LUẬT NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Ở
VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hồ Chí Minh, Tháng 5/2022


2

Trong những năm qua, Việt Nam đã và đang có những bước đi hết sức quan trọng trên con
đường hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, ngân hàng là một trong những lĩnh vực nhảy
cảm chịu nhiều ảnh hưởng nhất.
Có thể nói, trong những năm qua, pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hợp
đồng tín dụng ngân hàng nói riêng đã được nhà nước ta quan tâm và khơng ngừng hồn
thiện. Những văn bản pháp luật đã tạo ra một khung pháp lý quan trọng, tạo đà cho hoạt
động cho vay của các ngân hàng phát triển, thực hiện chính sách kinh tế, thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những thành tựu
trên thì pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hợp đồng tín dụng nói riêng vẫn
cịn nhiều bất cập.
Do đó, Nhóm quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng ở
Việt Nam” với mong muốn nghiên cứu những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về
hợp đồng tín dụng ngân hàng, đánh giá thực trạng, từ đó đề ra những giải pháp hồn thiện
pháp luật về hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện nay.


• Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản
của pháp luật Việt Nam về hợp đồng tín dụng ngân hàng. Trên cơ sở phân tích thực
trạng áp dụng các quy định đó trong thực tiễn, chỉ ra bất cập cịn tồn tại, qua đó đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hợp đồng tín
dụng ở Việt Nam.
• Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của
pháp luật Việt Nam về hợp đồng tín dụng ngân hàng, chỉ ra những điểm hợp lý và
bất cập trong quá trình thực hiện các quy định này trong thực tiễn. Đề tài không đi
sâu nghiên cứu các biện pháp bảo đảm tiền vay mà tập trung nghiên cứu vào các


3
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng hiện nay, chỉ ra ngun nhân của những
tranh chấp đó.
• Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng cộng sản
Việt Nam về xây dựng nhà nước Pháp quyền Việt Nam XHCN. Ngồi ra, đề tài cịn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng vấn đề của đè tài
gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp phân tích quy phạm, phương
pháp luận giải và diễn dịch, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.
• Kết cấu của đề tài


4

MỤC LỤC


5
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm về hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Sau đây gọi là BLDS 2015): “Hợp
đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên
vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số
lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định” thì hợp
đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng
tín dụng trong trường hợp một bên chủ thể tham gia vào HĐTD là các tổ chức tín dụng.
Hợp đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó tổ chức tín dụng là bên cho vay giao
cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoảng thời gian
hạn định theo thoả thuận và tuân thủ ngun tắc “Có hồn trả cả gốc và lãi”.
Theo điều 385 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” thì hợp đồng tín dụng là một
dạng cụ thể của hợp đồng dân sự vì quan hệ tín dụng về bản chất cũng là một loại quan hệ
dân sự. Do đó có thể hiểu rằng: “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa
một bên là tổ chức tín dụng (bên cho vay) với một bên là tổ chức, cá nhân (bên đi vay)
nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình chuyển giao, sử dụng tiền
vay và thanh toán nợ gốc và lãi vay.”
Tóm lại, hợp đồng tín dụng là văn bản thể hiện thỏa thuận của tổ chức tín dụng và khách
hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của
các bên trong đó việc vay vốn và trả nợ.


6
2. Phân loại hợp đồng tín dụng
Tùy vào từng tính chất mà hợp đồng tín dụng có cách phân loại riêng theo từng loại tín
dụng:
a) Căn cứ vào thời hạn cho vay.
Hợp đồng tín dụng chia thành 3 loại:

– Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: Là loại hợp đồng tín dụng có thời hạn dưới một năm và
thường được ký kết đối với các trường hợp vay để bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu
động hoặc cho vay để sửa chữa tài sản cố định của doanh nghiệp. Đây là loại hợp đồng cho
vay phổ biến ở các ngân hàng thương mại và trong quan hệ cấp vốn ngắn hạn và trong
quan hệ cấp tín dụng của ngân hàng trung ương với các Tổ chức tín dụng và Ngân hàng
Nhà nước.
– Hợp đồng tín dụng trung hạn: Là loại hợp đồng tín dụng có thời hạn từ 01 – 03 năm. Loại
hợp đồng này được áp dụng cho vay để mua sắm tài sản cố định, cải tiến, đổi mới kỹ thuật
công nghệ, xây dựng và mở rộng các cơng trình quy mơ nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh.
– Hợp đồng tín dụng dài hạn: Là hợp đồng tín dụng có thời hạn trên 03 năm, loại hợp đồng
này chủ yếu được ký kết để đầu tư vào xây dựng những xí nghiệp mới, mở rộng và cải tiến
cơ sở sản xuất mới với quy mô lớn hoặc các cơng trình cơ sở hạ tầng như: sân bay, đường
sá, bến cảng…
b) Căn cứ vào đối tượng tín dụng cho vay.
Hợp đồng tín dụng chia làm 2 loại:
– Hợp đồng tín dụng vốn cố định: Là loại hợp đồng được ký kết để hình thành vốn cố định
cho các tổ chức kinh tế như mua sắm máy móc, thiết bị xây dựng mới, mở rộng sản xuất…


7
– Hợp đồng tín dụng vốn lưu động: Là loại hợp đồng được ký kết để hình thành vốn lưu
động cho các tổ chức kinh tế như cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất hoặt để
thanh toán các khoản nợ.
c) Căn cứ vào mức độ tín nhiệm các tổ chức tín dụng.
Hợp đồng tín dụng chia thành 2 loại:
– Hợp đồng tín dụng khơng cần đảm bảo: Biểu hiện thơng qua hình thức đảm bảo bằng tín
chấp, được các tổ chức tín dụng áp dụng đối với những khách hàng đáng tin cậy.
– Hợp đồng tín dụng có đảm bảo: Áp dụng với những khách hàng có năng lực tài chính
thấp, hiệu quả kinh doanh khơng cao hoặc ít có quan hệ tín dụng với ngân hàng, nghĩa là
rủi ro cao. Tổ chức tín dụng yêu cầu cần có tài sản tương đương để thế chấp như động sản,

bất động sản, những giấy tờ có giá trị hoặc đòi hỏi sự bảo lãnh từ một chủ thể hợp pháp
khác.
3. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Ngoài những đặc điểm chung của mọi loại hợp đồng, hợp đồng tín dụng cịn có một số đặc
trưng sau đây:


Một bên chủ thể của hợp đồng tín dụng ngân hàng bắt buộc phải là tổ chức tín dụng

được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của pháp luật, cịn bên kia có
thể là các doanh nghiệp, các tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu về vốn để tiến hành sản xuất
kinh doanh hoặc để thoả mãn các nhu cầu phát triển kinh tế gia đình, tiêu dùng, học tập.
Đây cũng là đặc điểm cho phép phân biệt hợp đồng tín dụng ngân hàng với các hợp đồng
vay khác.


Hình thức của hợp đồng tín dụng ngân hàng bắt buộc phải bằng văn bản. Sau khi tổ

chức tín dụng quyết định cho khách hàng vay vốn thì tổ chức tín dụng và khách hàng phải
ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng. Như vậy, việc ký kết hợp đồng này là một yêu cầu bắt


8
buộc đối với các bên tham gia quan hệ cho vay. Đây là một quy định tất yếu bởi tính rủi ro
của quan hệ tín dụng ln rất cao, do đó cần phải tồn tại những ràng buộc pháp lý chặt chẽ
để có thể hạn chế tới mức tối đa những rủi ro này. Ngồi ra, hợp đồng tín dụng ngân hàng
được ký kết bằng văn bản còn là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp giữa
các bên khi xảy ra.



Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng có tính rủi ro cao. Tính rủi ro này xuất

phát từ những đặc thù của đối tượng hợp đồng, đặc thù của nguồn vốn cho vay của bên cho
vay - tổ chức tín dụng. Hợp đồng tín dụng ngân hàng khác với hợp đồng vay tài sản trong
pháp luật dân sự ở chỗ đối tượng duy nhất của hợp đồng tín dụng ngân hàng là tiền tệ,
trong khi đối tượng của hợp đồng vay tài sản có thể là tiền hoặc vật. Ngoài ra, việc cho vay
của tổ chức tín dụng chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động từ các tổ chức, các cá nhân
trong xã hội, trong đó tiền gửi chiếm tỷ lệ đáng kể. Chính vì vậy, do chức năng trung gian
này của các tổ chức tín dụng mà các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ
ảnh hưởng ngày đến tổ chức tín dụng và qua đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi
tiền. Còn trong hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự thì người cho vay dùng tài sản
của chính mình để cho vay nên khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì chỉ
người cho vay phải gánh chịu hậu quả.


Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng ln ln được xác định thời hạn trước và

thời hạn đó được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng. Thời hạn này có thể là ngắn hạn
(đến 1 năm), trung hạn (từ 1 đến 5 năm), dài hạn (từ 5 năm trở lên). Tổ chức tín dụng căn
cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ
của khách hàng và nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng để thoả thuận về thời hạn cho
vay. Đối với các pháp nhân Việt Nam và nước ngoài, thời hạn cho vay khơng vượt q thời
hạn hoạt động cịn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam;
đối với cá nhân nước ngoài, thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn được phép sinh
sống, hoạt động tại Việt Nam.


9



Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng ln nhằm mục đích thu lợi nhuận. Việc

thu lợi nhuận này khơng chỉ xuất phát từ lợi ích của tổ chức tín dụng cho vay mà cịn xuất
phát từ lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của xã hội.


Trong hợp đồng tín dụng ngân hàng, nghĩa vụ chuyển giao số tiền vay bao giờ cũng

phải được thực hiện trước để làm tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên đi
vay. Do vậy, bên cho vay chỉ có quyền yêu cầu bên đi vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối
với mình khi bên cho vay chứng minh được rằng số tiền vay đã được chuyển giao.
4. Nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng ngân hàng
4.1 Nguyên tắc tự do, tự nguyện giao kết, thực hiện hợp đồng cho vay
Nguyên tắc này được phản ánh khá phổ biến trong các học thuyết triết học, tôn giáo và
trong các đạo luật cổ. Quyền tự do giao kết hợp đồng mang tính nguyên tắc được pháp luật
Việt Nam ghi nhận cả trong luật chung và luật chuyên ngành (Điều 3 Bộ luật Dân sự năm
2015; khoản 1, 2 Điều 7 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 7 Luật Doanh nghiệp
năm 2020), và là quyền cơ bản của con người được ghi nhận thông qua các giao dịch dân
sự - kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong các quy định điều chỉnh hoạt động cho vay ngân hàng, các quyền này được thể hiện
qua việc:
i.

Các tổ chức tín dụng (với tư cách bên cho vay) được phép lựa chọn, tìm kiếm đối tác
(khách hàng) để ký kết, thay đổi hợp đồng, từ chối cho vay,...; quyền chủ động tổ

ii.

chức các hoạt động kiểm tra, giám sát vốn vay; giám sát nội bộ; thu hồi nợ;
Đối với bên vay, đó là quyền được lựa chọn tổ chức tín dụng để vay vốn, thỏa thuận

lãi suất,... đưa ra các biện pháp bảo đảm tiền vay phù hợp với hồn cảnh, điều kiện
năng lực tài chính thực tế của mình.

Tự do hợp đồng khơng có nghĩa các bên được phép làm bất cứ những gì mình muốn. Có sự
can thiệp của Nhà nước vào hợp đồng vay thông qua các quy định về điều kiện hoặc những


10
giới hạn về tỷ lệ tín dụng để duy trì và bảo đảm sự an toàn tối thiểu, bắt buộc các bên phải
thực thi nghiêm túc. Phạm vi những giới hạn này dựa trên các nguyên tắc an toàn, hạn chế
rủi ro, sự phát triển lành mạnh của các tổ chức tín dụng được nghiên cứu phổ biến. Vì vậy,
bên cạnh luật hóa các quy định về quy chế hoạt động cho vay, Nhà nước còn phải tăng
cường hoạt động giám sát và chế tài bằng biện pháp hành chính đối với tổ chức tín dụng,
đơn vị chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Thay vì áp dụng đối với bên vay, nhằm định
hướng cho các tổ chức tín dụng phải tuân thủ khi tham gia giao kết, thực hiện các trách
nhiệm hợp đồng.
Trong chừng mực nhất định, xác định ranh giới giữa quyền tự do hợp đồng và phạm vi,
mức độ can thiệp của Nhà nước vào các quyền tự do đó dựa trên căn cứ nào, là cơng việc
khó khăn đối với các nhà làm luật. Sự can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp mệnh
lệnh hành chính, nếu khơng hợp lý sẽ cản trở các quyền tự do kinh doanh, cản trở sự phát
triển tín dụng. Mặt khác, với đặc thù bên vay và bên cho vay gồm nhiều chủ thể có năng
lực và địa vị khá đa dạng, trong khi các quy định về cho vay giải quyết vấn đề này phải
trên cơ sở lợi ích chung của các chủ thể, bao gồm cả lợi ích của bên đi vay yếu thế, và bên
cho vay có quy mơ nhỏ, năng lực tài chính cịn hạn chế.
4.2. Ngun tắc thơng nhất ý chí giữa các chủ thể trong hợp đồng cho vay
Các bên tự do giao kết hợp đồng dưới nhiều hình thức nhưng phải thống nhất ý chí. Nghĩa
là họ phải đạt được sự đồng thuận cả về hình thức, nội dung của hợp đồng như đúng nghĩa.
Do đó, mọi hành vi đe dọa, bị lừa dối, nhầm lẫn có thể làm cho hợp đồng vay bị vô hiệu,
các bên phải chấm dứt thực hiện hợp đồng, khắc phục hậu quả xảy ra.
Những thỏa thuận trong hợp đồng cho vay hợp pháp sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa

vụ phải thực hiện. Để đạt được thỏa thuận này, các bên phải trải qua quá trình gặp gỡ, đàm
phán và giao kết hợp đồng kéo dài, hoặc tự quyết định thay đổi một phần nội dung của hợp
đồng cho vay. Những sửa đổi, bổ sung này cũng phải được lập thành văn bản, là một phần


11
khơng thể tách rịi bản hợp đồng được ký kết ban đầu, phản ánh đúng bản chất của quan hệ
kinh tế, dân sự: Các chủ thể được thay đổi ý chí khi ký kết hợp đồng xuất phát từ nhu cầu,
hồn cảnh tín dụng thực tế.
4.3. Ngun tắc cân bằng quyền và lợi ích của các bên
Quan hệ hợp đồng với bản chất là quan hệ lợi ích giữa các bên, nên phải bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ. Song, thực tế, trong quan hệ hợp đồng cho vay, do tổ chức tín dụng chủ
động soạn thảo và áp dụng theo mẫu thống nhất, làm hình thành một số thỏa thuận khung,
được tổ chức tín dụng ấn định trước. Những thỏa thuận này thường khơng thay đổi trong
q trình đàm phán, ký kết với khách hàng, bên vay vẫn phải chấp nhận những bất lợi (nếu
có) do khó có thể can thiệp, tác động vào từng điều khoản (nội dung) này của hợp đồng.
Xét từ bản chất của một hợp đồng được ký kết do bên có thê mạnh chủ động soạn thảo, các
thỏa thuận khung sẽ khó loại trừ hoàn toàn trong thực tiễn hợp đồng, sự tồn tại của chúng
như một tất yếu. Do vậy, khi ban hành luật, hay giải quyết tranh chấp, theo tác giả, cần
thiết phải làm rõ cơ chế thực hiện thỏa thuận khung có đúng pháp luật hoặc bất lợi cho bên
vay hay khơng để xử lý, bác bỏ. Bên cạnh đó, cần kịp thời bổ sung các quy định pháp luật
để điều chỉnh, loại bỏ những lỗ hổng pháp lý, cân bằng quyền lợi hợp đồng, khi đó sẽ giải
quyết, đáp ứng các yêu cầu về một bản hợp đồng bình đẳng.
4.4 Nguyên tắc hợp đồng cho vay phải được bảo đảm thực hiện nghiêm túc
Để bảo đảm tuân thủ nghĩa vụ hợp đồng nói chung và nghĩa vụ hồn trả vốn và lãi, phí tín
dụng nói riêng, tổ chức tín dụng thường áp dụng các biện pháp bảo đảm, được ràng buộc
bằng các điều khoản hợp đồng chặt chẽ.
Biện pháp này được bảo đảm thi hành thông qua các biện pháp chế tài hợp đồng, cơ chế
giám sát, cưỡng chế, được tổ chức thực hiện bồi các cơ quan thực thi pháp luật. Đó là hệ
thống các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp (Tòa án, thi hành án, cơng chứng, luật sư,...)

có chức năng giải quyết tranh chấp, cưõng chế thi hành án theo yêu cầu của các bên, góp


12
phần nâng cao ý thức trách nhiệm, tuân thủ nghĩa vụ hợp đồng, tuân thủ phán quyết có hiệu
lực của cơ quan có thẩm quyền. Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, do đặc thù của hoạt
động kinh doanh tiền tệ, đồng thời xuất phát từ yêu cầu nhanh chóng, hiệu quả khoản vay,
quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm còn được đặt ra, là thước đo đánh giá hiệu quả pháp
luật trong lĩnh vực này. Các thỏa thuận hợp đồng phải hướng đến mục tiêu của quyền chủ
động đó, đồng thời nó phải được pháp luật ghi nhận.
Việc lựa chọn phương thức xử lý tài sản theo hướng chủ động, lựa chọn các cơ quan tòa
án, trọng tài giải quyết tranh chấp phải được các bên tham khảo, suy tính đến ngay trước
khi ký hợp đồng. Điều này là nhằm để thuận lợi hơn cho việc thực thi, giải quyết các tranh
chấp về sau, bảo đảm sự ổn định hợp đồng, răn đe các tổ chức, cá nhân sẽ gánh chịu hậu
quả, thiệt hại nặng nề hơn nếu họ cố tình sai phạm.
5. Trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng giấy đề nghị vay vốn và các
tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn.
Giấy đề nghị vay vốn phải thể hiện được các nội dung cơ bản như tên, địa chỉ của khách
hàng vay, số tiền cần vay, mục đích vay vốn, các cam kết về sử dụng tiền vay, việc trả nợ
gốc, trả lãi vay.
Các điều kiện vay vốn của khách hàng cần có tài liệu chứng minh được quy định cụ thể
trong Điều 7 Quy chế cho vay 1627. Ví dụ như: đối với thành viên hợp danh của cơng ty
hợp danh phải có tài liệu chứng minh là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Các tài liệu trên phải chính xác và hợp pháp. Tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu
này có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng ngân hàng bởi lẽ, nó xác định
tư cách chủ thể của khách hàng vay vốn là được phép hay không được phép tham gia vào
quan hệ tín dụng.



13
Sau khi nhận đầy đủ các giấy tờ và tài liệu cần thiết do khách hàng cung cấp, tổ chức tín
dụng tiến hành thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét
duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá
nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng xem xét,
đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh dịch vụ
hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách
hàng để quyết định cho vay.
Tổ chức tín dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo
quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng, kể từ khi nhận được đẩy dù hồ
sơ vay vốn và thông tin cần thiết của khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, tổ
chức tín dụng phải thơng báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối
cho vay.
Trong trường hợp cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng phải thỏa thuận các điều khoản
trong hợp đồng tín dụng ngân hàng và ký kết hợp đồng này.
Hiện nay pháp luật về tín dụng ngân hàng ở Việt Nam không quy định cụ thể thời hạn mà
các bên phải tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng sau khi tổ chức tín dụng đã
đồng ý cho khách hàng vay vốn. Trên thực tế, việc quy định thời hạn này là rất cần thiết
bởi lẽ, trong nhiều trường hợp thì tính khả thi của dự án hoặc phương án sản xuất kinh
doanh dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào các nguyên nhân khách quan và do đó khi tổ chức tiến
hành thẩm định thì dự án đầu tư hoặc phương án nêu trên là khả thi nhưng khi hợp đồng tín
dụng được ký kết thì tính khả thi có thể sẽ khơng cịn nữa và như vậy khả năng thu hồi nợ
của tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn.
Hợp đồng tín dụng ngân hàng được coi là ký kết khi bên cho vay và bên đi vay đã chính
thức ký tên vào văn bản hợp đồng này.


14
Xét về mặt nguyên tắc, khi tất cả các bên tham gia quan hệ hợp đồng đã ký vào văn bản
hợp đồng và pháp luật không yêu cầu hợp đồng đó phải cơng chứng hay đăng ký và các

bên cũng khơng thoả thuận về điều kiện đó thì hợp đồng sẽ có hiệu lực pháp lý và các bên
có nghĩa vụ phải thi hành. Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng sẽ bắt đầu được thực
hiện ngay sau khi nó có hiệu lực pháp lý.
Mặc dù về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng tín dụng ngân hàng phát
sinh sau khi hợp đồng được ký kết nhưng cần phải lưu ý rằng một số nghĩa vụ của khách
hàng xuất hiện chi khi khách hàng đã nhận được số tiền quy định trong hợp đồng tín dụng
ngân hàng. Ví dụ, nghĩa vụ phải hồn trả nợ gốc và lãi tiền vay được thực hiện khi đến hạn
đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng ngân hàng (Khoản 2 Điều 24 Quy chế cho vay
1627).

CHƯƠNG 2: Pháp luật về Hợp đồng tín dụng ngân hàng Việt Nam
1.

Nội dung cơ bản của hợp đồng tín dụng ngân hàng

Nội dung cùa hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách
chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật, về lí
thuyết, nội dung của hợp đồng tín dụng (các điều khoản của hợp đồng) phải do các bên tự
định đoạt trên nguyên tắc tự do ý chí và thống nhất ý chí, phù hợp với pháp luật và đạo đức
xã hội. Theo quy định tại Điều 17 Văn bản hợp nhất số 20/VBHN-NHNN ngày 22/05/2014
về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, nội dung của
hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
• Điều khoản về điều kiện vay vốn:
Khi thoả thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu
chuẩn cụ thể mà bên vay phải thoả mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực. Chẳng hạn,


15
bên vay phải có năng lực chủ thể, có tình hình tài chính lành mạnh hay phải có tài sản cầm
cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của người thứ ba...

• Điều khoản về đối tượng hợp đồng:
Trong điều khoản này, các bên phải thoả thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền
phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.
• Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay.
Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền
sau bao lâu kể từ ngày kí hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu
trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, cịn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thoả
thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng (nếu thấy cần thiết).
• Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay:
Đây là một điều khoản rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi
cho vay. Vì thế, các bên phải thoả thuận rõ rằng số tiền vay sẽ được hồn trả dần hàng
tháng (trả góp) hay là trả tồn bộ một lần khi họp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được
thoả thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
• Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay:
Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì (ví dụ,
mua vật tư hàng hoá để kỉnh doanh hay mua hàng hoá để tiêu dùng...). Việc thoả thuận điều
khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn
cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một
cách tuỳ tiện vào các mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả
hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép


16
trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thoả thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay
mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
• Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng:
Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thoả thuận về biện
pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng, hoà giải, hoặc lựa chọn cơ quan
tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng khơng ghi điều

khoản này, có nghĩa là các bên khơng thoả thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
2.

Hình thức của hợp đồng tín dụng ngân hàng

Mối quan hệ của hợp đồng tín dụng ln tiềm ẩn những rủi ro cao. Vì thế hầu hết pháp luật
của các nước trên trên thế giới cũng đều yêu cầu các bên kí kết hợp đồng tín dụng dưới
hình thức văn bản: Luật thương mại Trung quốc (điều 37), Luật ngân hàng Ba Lan (điều
27.2).
Ở Việt Nam, điều 51 Luật tổ chức tín dụng quy định: “Việc cho vay phải độc lập thành hợp
đồng tín dụng”. Với quy định ký kết dưới hình thức văn bản sẽ đảm bảo việc ghi nhận rõ
ràng quyền và nghĩa vụ của các bên, ràng buộc chặt chẽ các chủ thể trong quan hệ tín dụng,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý nhà
nước cũng như là cơ sở để giải quyết tranh chấp
Trong đó, các loại hình thức văn bản được quy định tại BLDS 2015 bao gồm thông điệp,
dữ liệu. Ngoài ra giao dịch điện tử cũng được coi là hình thức hợp đồng tín dụng ngân
hàng (trừ việc phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác) theo quy định Nghị định
35/2007/ND-CP về giao dịch điện tử.


17
3.
3.1

Chủ thể
Bên cho vay

Khác các hợp đồng thông thường, trong hợp đồng tín dụng bên cho vay bao giờ cũng là tổ

chức tín dụng hoặc tổ chức khác được Ngân hàng nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng.
Căn cứ theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì: tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được
thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật
để hoạt động ngân hàng
Hiện nay tổ chức tín dụng rất đa dạng và căn cứ theo nhiều loại hình:
Thứ nhất, căn cứ vào tín chất sở hữu của vốn điều lệ, có thể chia tổ chức tín dụng thành: tổ
chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín
dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngồi, chi nhánh của ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam
Thứ hai, căn cứ vào phạm vi thực hiện các hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng được
chia thành: tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Ngồi ra, các tổ chức tín dụng là chủ thể chủ yếu của hợp đồng tín dụng thì một số tổ chức
khác nếu được ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phép cũng có thể trở thành bên cho vay
trong hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Đối với các tổ chức không phải tổ chức tín dụng được thành lập hợp pháp muốn trở thành
bên cho vay trong hợp đồng tín dụng thì khơng phải làm thủ tục thành lập doanh nghiệp mà
chỉ cần có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
người đại diện hợp pháp là hoạt động được ngân hàng cho phép
3.2

Bên vay


18
Căn cứ theo quyết định 127 ngày 3/2/2005 sửa đổi và bổ sung một số điều và quy chế cho
vay thì: “Khách hàng vay tại tổ chưc tín dụng là tổ chức cá nhân Việt Nam và nước ngồi
có nhu cầu vay vốn, có khả năng trả nợ để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất,
kinh doanh dịch vụ hoặc dự án tư, phương án phục vụ đời sống và nước ngoài...”
Để trở thành chủ thể trong hợp đồng tín dụng, bên vay phải thảo mãn những điều kiện do
pháp luật quy định và điều kiện do các bên thỏa thuận:

• Thứ nhất: Khách hàng vay là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (căn cứ theo
Điều 22, 23, 24 BLDS 2015)
• Thứ hai: khách hàng sử dụng vốn vay hợp pháp
Đây vừa là điều kiện đối với khách hàng vay vốn đông thời cũng là 1 trong các điều kiện
để hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng có thể bị tuyên bố vơ hiệu nếu khi mục đích sử dụng
vốn vay trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong điều 9.1 Quy chế cho vay có quy định: tổ
chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vay vốn sau:
+ Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán,
chuyển nhượng, chuyển đổi
+ Để thanh tốn các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm
• Thứ ba: khách hàng có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
Để đảm bảo an toàn cho các khoản vay, một trong những yêu cầu mang tính nghiệp vụ là
cần xem xét khả năng tài chính của khách hàng có đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
hay không đây là điều kiện quan trọng. Về nguyên tắc, tổ chức sẽ không được phép cho
vay đối với khách hàng bị hạn chế về tài chính và khơng có khả năng đảm bảo trả nợ trong
khoản thời hạn cam kết


19
4.

Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể

4.1

Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay

Về nguyên tắc: quyền và nghĩa vụ các bên xuất hiện kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Theo quy chế vay thì tổ chức tín dụng có các quyền và nghĩa vụ sau:
• Nghĩa vụ chuyển giao tiền cho khách hàng vay đúng số lượng, thời hạn, địa điểm

như đã thỏa thuận. Đây là nghĩa vụ đầu tiên tạo cơ sở hình thành nên quyền và nghĩa
vụ chủ thể khác. Tổ chức tín dụng có thể thực hiện quyền kiểm tra, giám sát khách
hàng trong q trình sử dụng vốn vay hoặc có nghĩa vụ trả nợ sau khi đã nhận được
tiền giao theo đúng thỏa thuận. Trong trường hợp chuyển giao chậm không đúng
thỏa thuận sẽ bị yêu cầu bồi thường và phạt vi phạm từ khách hàng
• Quyền kiểm tra giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng vốn vay. tổ chức tín
dụng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn
vay và trả nợ của khách hàng (Điều 53, khoản 3 Luật tổ chức tin dụng). Theo thực tế
các tổ chức tín dụng thực hiện quyền này chưa nghiêm túc lơ là trong vay vốn, giám
sát khách hàng nên vẫn còn tồn tại những hành vi hoạt động trái pháp luật. Như vậy,
quyền cho phép tổ chức tín dụng được kiểm tra, giám sát khách hàng là điều cần
thiết nếu không xác định rõ vấn dề này có thể dẫn đến sự lợi dụng đặc quyền này can
thiệp quá sâu vào trong kinh doanh của khách hàng cũng như ngược lại.
• Quyền yêu cầu bên đi vay phải hoàn trả tiền vay cả gốc lẫn lãi theo đúng thỏa thuận
kể cả tiền bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng.
• Quyền được miễn giảm lãi vốn vay, gia hạn nợ, điều chính kỳ hạn trả nợ theo quy
định của pháp luật, mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xóa nợ theo quy định của Chính
phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Quy định nhằm đảm bảo tố
chức tín dụng có thể thu hồi dưới nhiều hình thức khác nhau, đảm bảo quyền tự do
kinh doanh của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên cũng gây ra nhược điểm là làm cho tình
hình tài chính các tổ chức khó mà minh bạch, tạo hiện tượng lãi giả, lỗ thật trong tổ
chức tín dụng.


20
4.2

Quyền và nghĩa vụ của bên vay

• Quyền được từ chối các u cầu của tổ chức tín dụng khơng đúng với thỏa thuận

trong hợp đồng và không phù hợp với pháp luật. quy định này nhằm đảm bảo quyền
lợi cho khách hàng chống lại các u cầu khơng chính đáng của tổ chức trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Thể hiện được quyền bình đẳng giữa các bên từ chối yêu
cầu các bên và cung cấp các thông tin khơng liên quan đến việc sử dụng vốn và hồn
trả vay của bên vay.
• Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay khơng có căn cứ hoặc vi phạm hợp
đồng tín dụng của tổ chức tín dụng. Quy định này đặt ra nhằm đảm bảo quyền tiếp
cận vốn của ngân hàng của khách hàng, tránh những hành vi từ chối cho vay khơng
có căn cứ của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên mặt trái của quy định này là xâm phạm
quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Theo điều 15 luật các tổ chức kinh
doanh “các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh của mình. Khơng một tổ chức cá nhân nào được can thiệp trái
pháp luật vào quyền tự chủ kinh doanh của tổ chức tín dụng. Do đó quyền này đã vi
phạm nghiêm trọng quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp. Quy định này
hồn tồn khơng phù hợp với nền kinh tế thị trường.
• Ngồi ra, các khách hàng vay vốn cịn có quyền khởi kiện tổ chức tín dụng đã vi
phạm hợp đồng đã cam kết: tổ chức tín dụng giải ngân muộn hoặc khơng thực hiện,
khách hàng có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền buộc tổ chức tín dụng bồi
thường thiệt hại hoặc phạt hợp đồng nếu có thỏa thuận
• Nghĩa vụ sử dụng tiền vay đúng mục đích và có hiệu quả: đây vừa là nghĩa vụ của
bên vay đồng thời là điều kiện của khách hàng vay vốn. Nếu khách hàng không sử
dụng vốn vay đúng mục đích hoặc sử dụng khơng có hiệu quả thì tổ chức tín dụng
có quyền chấm dứt việc cho vay hoặc thu hồi nợ trước thời hạn
• Nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi vốn vay theo thỏa thuận hợp đồng tín dụng. Đây là
nghĩa vụ quan trọng nhất của bên đi vay nhằm thu hồi của vốn của tổ chức tín dụng,


21
gây tác động cả hai bên. Do vậy, để đảm bảo bên đi vay thực hiện nghiêm túc nghĩa
vụ trả nợ, pháp luật cho phép tổ chức tín dụng có nhiều quyền tương ứng: xử lý tài

sản bảo đảm, khởi kiện đi vay và ng bảo lãnh
• Ngồi các quyền và nghĩa vụ như trên thì các bên trong hợp đồng tín dụng ngân
hàng cịn có các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng và các quyền và
nghĩa vụ khác mà pháp luật quy định
5.

Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản

Tùy trường hợp khác nhau mà tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận các biện
pháp bảo đảm tiền vay là một điều khoản của hợp đồng tín dụng, hoặc cũng có thể kí 1 hợp
đồng bảo đảm riêng.
Có rất nhiều biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản căn cứ theo BLDS 2015: cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ... tuy nhiên trên thực tế chỉ áp dụng được ba biện
pháp bảo đảm bằng tài sản:
• Về cầm cố và thế chấp tài sản
Đây là 2 biện pháp bảo đảm tiền vay mà các khách hàng và tổ chức tín dụng thường áp
dụng.
So với các quy định của bộ luật dân sự 1995 thì có quy định của về cầm cố và thế chấp ở
bộ luật dân sự 2005 có nhiều điểm mới. Nếu Bộ luật dân sự 1995 phân biệt cầm cố tài sản
và thế chấp tài sản căn cứ vào tài sản được đảm bảo là động sản hay bất động sản thì bộ
luật dân sự 2005 lại căn cứ vào yếu tố chuyển giao tài sản bảo đảm. Trường hợp bên nhận
bảo đảm giữ tài sản bảo đảm thì gọi là cầm cố tài sản, trường hợp bên bảo đảm vẫn giữ tài
sản hoặc người thứ ba giữ tài sản bảo đảm mà khơng chuyển giao tài sản bảo đảm thì gọi là
biện pháp thế chấp tài sản. Sự thay đổi quan trọng này của bộ luật dân sự 2005 phù hợp với
bộ luật dân sự thương mại phù hợp với thông lệ quốc tế.


22
Tham khảo quy định này trong bộ luật dân sự Nhật Bản năm 1889 ta thấy pháp luật Nhật
Bản không dựa vào khái niệm động sản và bất động sản để xây dựng căn cứ vào hợp đồng

cầm cố hay hợp đồng thế chấp mà quy định căn cứ xác định cầm cố là sự chuyển giao thực
tế tài sản cầm cố cho người nhận cầm cố và chỉ những vật chuyển giao được mới có thể là
đối tượng cầm cố theo điều 343 và điều 363. Tuy nhiên đối với thế chấp thì biện pháp bảo
đảm cơng khai là hành vi đăng ký tài sản thế chấp thì tài sản thế chấp khơng được chuyển
giao cho người nhận thì chấp.
Bộ luật dân sự Thái Lan năm 1925 quy định hợp đồng thế chấp là hợp đồng và người thế
chấp hôm giao tài sản thế chấp cho người thế chấp (điều 702). Một số loại động sản có thể
là đối tượng của tài sản thế chấp miễn là những động sản đó đã được đăng ký đúng luật.
Với hợp đồng cầm cố thì lại quy định rõ đối tượng lao động sạch thì phải thực hiện chuyển
giao tài sản cầm cố.
Như vậy bộ luật dân sự Nhật Bản, bộ luật dân sự Thái Lan đều có điểm chung thống nhất
là hợp đồng cầm cố là hợp đồng có chuyển giao và chỉ chuyển giao động sản còn hợp đồng
thế chấp thì khơng chuyển giao chỉ có thể là thế chấp bất động sản hoặc là bất động sản,
động sản nhưng buộc phải đăng ký
Đưa các phân tích trên ta thấy việc sửa đổi của bộ luật dân sự 2005 và việc phân biệt hợp
đồng cầm cố hay thế chấp không căn cứ vào tài sản bảo đảm là động sản hay bất động sản
mà phải căn cứ vào hành vi chuyển giao tài sản là phù hợp với thông lệ quốc tế.
• Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh là việc người thứ ba sau đây gọi là bên bảo lãnh cam kết với bên có quyền sau
đây được gọi là bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ gọi là
bên được bảo lãnh nếu khi đến thời hạn mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bảo lãnh chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ khi bên bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.


23
Nếu như nghị định 178 chỉ quy định căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là khi đến hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng
nghĩa vụ thì nay ngồi căn cứ trên nghị định 163 đã bổ sung thêm hai căn cứ như sau:
-


Thứ nhất, bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh

trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ đó nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ
-

Thứ hai bên bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình

Với quy định bổ sung trên đã góp phần làm tăng thêm quyền của bên nhận bảo lãnh đối với
bên bảo lãnh, tăng khả năng thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên với hai căn cứ
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh bổ sung trên thì bên nhận bảo lãnh chỉ có quyền u cầu bên
bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình nếu các bên có thỏa thỏa thuận. Và khi ký kết
hợp đồng các bên cần cụ thể hóa hơn nữa vì việc chứng minh bên được bảo lãnh khơng có
khả năng trả nợ là rất khó khăn đối với tổ chức tín dụng. Do vậy cách tốt nhất tổ chức tín
dụng nên thỏa thuận với bên bảo lãnh về một thời hạn cụ thể để bên bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà không cần phải chứng minh bên được bảo lãnh có
khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình hay khơng.
• Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai.
Đây khơng phải là một biện pháp bảo đảm tài sản riêng mà thực chất là biện pháp cầm cố
và thế chấp tài sản nhưng tài sản bảo đảm không tồn tại tại một thời điểm ký kết hợp đồng
bảo đảm mà hình thành sau thời điểm giao kết tài sản hình thành trong tương lai. Với
phương thức bảo đảm tiền vay này tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận gần hơn với
khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ít vốn.
Bảo đảm tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trả nợ hình thành từ yêu cầu phải giải quyết những mâu thuẫn của quan hệ cung cầu vốn


24
trên thị trường, bảo đảm tính đa dạng và phù hợp với thị trường. Đây là một biện pháp mà

được pháp luật của các nước trên thế giới đã ghi nhận.
Hiện nay ở Việt Nam, bộ luật dân sự 1995 chưa có quyết định chính thức ghi nhận về biện
pháp bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai. Phải đến nghị định 178 nghị định 85
và sau này bộ luật dân sự 2005 và nghị định 163 mới chính thức ghi nhận về biện pháp bảo
đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai.
Theo nghị định 178, các tổ chức tín dụng chỉ được phép cho vay khách hàng thỏa mãn điều
kiện sau:
-

Có tính nhiệm với tổ chức tín dụng

-

Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có dự án đầu tư phát triển sản

xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hồn trả, hoặc có dự án, phương án phục vụ
đời sống khả thi vừa với quy định của pháp luật.
-

Có mức vốn có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện

pháp cầm cố thế chấp tối thiểu 50% Vốn đầu tư của dự án.
6.
6.1

Sự vơ hiệu của hợp đồng tín dụng ngân hàng
Điều kiện có hiệu lực

• Thứ nhất: các bên tham gia hợp đồng tín dụng ngân hàng có năng lực hành vi dân sự
(Điều 22, 23, 24 BLDS 2015)

Đối với bên cho vay: các tổ chức tín dụng thỏa mãn những điều kiện pháp luật quy định.
Như vậy bên cho vay trong hợp đồng tín dụng ln là pháp nhân. Pháp nhân tham gia quan
hệ dân sự thông qua người đại diện hợp pháp. Theo đó điều kiện của bên cho vay là:
+ Phải được ngân hàng cấp giấy phép hoạt động ngân hàng tiến hành các hoạt động cho
vay


25
+ Người kí hợp đồng phải đúng thẩm quyền và phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Đối với bên vay: đối tượng là cá nhân hộ gia đình, pháp nhân có đủ năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Đối với hộ gia đình, pháp nhân phái có người đại diện cụ thể
• Thứ hai: người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
Đây là nguyên tắc của bất kỳ hợp đồng nào, không chỉ hợp đồng tín dụng ngân hàng. Việc
kí kết hợp đồng phải xuất phát từ ý chí các bên giao kết, khơng có sự lừa dối, nhầm lẫn
hoặc cưỡng ép từ bất kì một bên nào.
• Thứ ba: nội dung và mục đích hợp đồng không trái với pháp luật và trái với đạo đức
xã hội
Tức là không trái với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa, khơng trái với pháp luật
nội dung mục đích hợp đồng khơng vi phạm điều cấm của pháp luật.
• Ngồi ra hình thức hợp đồng tín dụng cũng là điều kiện để hợp đồng tín dụng có
hiệu lực
6.2

Hợp đồng tín dụng ngân hàng vơ hiệu

Hợp đồng tín dụng bị vơ hiệu khi hợp đồng ký khơng thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng. Tùy theo mức độ vi phạm hợp đồng mà ta phân loại thành hợp đồng vô hiệu
tương đối và hơp đồng vô hiệu tuyệt đối.
Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật vầ trái đạo đức xã
hội ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng nhà nước và xã hội. Thời hiệu tuyên bố hợp đồng vô

hiệu là tương đối.
Hợp đồng vô hiệu tương đối nếu hợp đồng chỉ ảnh hưởng đến lợi ích một bên. Hợp đồng
vô hiệu khi một bên hoặc các bên tham gia hoặc người có quyền và nghĩa vụ liên quan


×